“Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã
có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu
vực phía Nam Biển Đông...". Chúng tôi lần lượt trình bày tóm lược diễn
biến vụ việc Bãi Tư Chính và đưa ra nhận định về đối sách của nhà đương
quyền Việt Nam, sẽ là nội dung bài viết này.
I - DIỄN BIẾN VỤ VIỆC BÃI TƯ CHÍNH
Vụ
việc khởi sự khi vào ngày 3-7-2019 và trước đó, tàu thăm dò "Hải Dương
Địa Chất 8" và các tàu hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc đã xuất hiện
gần Bãi Tư Chính thuộc quần đảo Trường Sa, trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của Việt Nam.
Sự
thể này đã dẫn đến một cuộc đối đầu căng thẳng giữa các tàu của lực
lượng hải cảnh Việt Nam và Trung Quốc trong mấy tuần qua vẫn đang tiếp
diễn, ở nơi mà một công ty của Nga đang thực hiện hoạt động thăm dò dầu
khí tại Lô 06.1 của Việt Nam ở Biển Đông theo hợp đồng ký với Việt Nam.
Đó là công ty Rosneft của Nga thuê giàn khoan Hakuryu-5 của Công ty
Khoan thăm dò Nhật Bản (JDC). Điều này làm người ta nhớ lại một vụ đối
đầu căng thẳng khác vào năm 2014 liên quan đến một giàn khoan của Trung
Quốc (Hải Dương 981 ) xâm phạm chủ quyền lãnh hải phía tây bắc Hoàng Sa
của Viêt Nam, gây nên biểu tình bạo động của dân chúng lan rộng khắp
Việt Nam.
Thông
tin về vụ “đối đầu” căng thẳng giữa các lực lượng hải cảnh của Việt Nam
và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên truyền thông quốc tế và mạng xã
hội từ ngày 12/7, sau khi tờ the South China Morning Post dẫn nguồn tin
từ nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc của Mỹ, Ryan Martinson, dựa
trên các dữ liệu theo dõi hàng hải. Theo nguồn tin này, 6 tàu hải cảnh,
gồm 2 tàu của Trung Quốc và 4 tàu của Việt Nam, được trang bị kỹ càng đã
“vờn nhau” trong suốt một tuần qua khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương Địa
Chất 8 vào khảo sát địa chất gần Bãi Tư Chính, thuộc đặc quyền kinh tế
và do Việt Nam kiểm soát ở Biển Đông.
Theo
Ông Ryan Martinson, chuyên gia về hải quân Trung Quốc của Trường Hải
Chiến Hoa Kỳ cho biết, rằng tính tới ngày 23/7, các tàu hải cảnh của
Trung Quốc “vẫn hoạt động gần giàn khoan dầu của Nhật ở phía tây Bãi Tư
Chính”, trong khi tàu Haiyang Dizhi 8 “tiếp tục tiến hành khảo sát địa
chấn tại Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam ở phía tây quần đảo Trường
Sa”.
Tình
trạng tiếp tục căng thẳng hiện nay, là vì Trung Quốc tiếp tục khẳng
định chủ quyền nơi đang có tranh chấp, căn cứ trên “bản đồ 9 đoạn” tự
vẽ, dù đã bị Tòa án Quốc tế phủ nhận giá trị pháp lý cũng như thực tế
trong bản án Philippine kiện Trung Quốc mấy năm trước đây (2013-2016).
Vì thế, theo cách “vừa ăn cướp vừa la làng”, phát ngôn viên Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Cảnh Sảng, tại cuộc họp báo hôm 17/7, yêu cầu Việt Nam
“nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của
Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành
động nào làm phức tạp tình hình”.
Trong
khi Việt Nam vẫn luôn xác nhận có đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý và
thực tiễn về chủ quyền của Việt Nam tại Bãi Tư Chính cũng như trên các
vùng biển đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam.
Vì thế, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã mạnh
mẽ cáo buộc nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung quốc đã vi phạm vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển
Đông. Hà Nội cũng nói đã trao công hàm phản đối cho Bắc Kinh và khẳng
định lực lượng chấp pháp sẽ tiếp tục “triển khai nhiều biện pháp phù
hợp” nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo
ngày 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: “Trong những ngày
qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển
Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng
các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt
Nam và Trung Quốc đều là thành viên”.
II - ĐỐI SÁCH CỦA VIỆT NAM?
Theo
nhận định của chúng tôi, đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu,
đến thái độ và lời nói mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong
hành động đối ứng thực tế để tránh một cuộc đụng độ quân sư không cân
sức, bất lợi cho Việt Nam.
1
- Vì dè dặt lúc đầu, vốn là cách ứng xử bao lâu nay của nhà cầm quyền
Việt Nam, nên người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng khi
lên tiếng tố cáo hành động xâm phạm chủ Việt Nam gần Bãi Tư Chính, đã
không dám chỉ đích danh Trung Quốc, (như trước đây từng tránh né không
giám tố cáo đich danh tàu Trung quốc đâm chìm tàu đánh bắt cá và sát hại
ngư dân Việt Nam, mà chỉ gọi là “Tàu lạ”). Trả lời câu hỏi của truyền
thông hôm 16/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam chỉ nói chung
chung có tính nguyên tắc, rằng "Như đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam
có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở
Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của LHQ về
Luật Biển 1982 mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do
đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân
thủ các quy định có liên quan của UNCLOS, pháp luật Việt Nam.”
2
- Thế nhưng chỉ ba ngày sau, Việt Nam đã có thái độ và lời nói mạnh bạo
và cứng rắn. Qua cuộc họp báo ngày 19-7-2019, người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Việt Nam đã đưa ra chỉ trích sắc bén hơn bằng cách nêu đích danh
Trung Quốc “đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam” trong khu vực Biển Đông. Trả lời báo chí trong cuộc họp báo
này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng nói: “Trong
những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành
vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực
phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác
định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên…”.
Những
động thái trên được đánh giá là hiếm hoi trong những phản ứng chính
thức của Việt Nam đối với những hành động được cho là “khiêu khích” của
Trung Quốc trong những năm gần đây. Theo nhận định của chúng tôi, động
thái hiếm hoi này có lẽ là do Việt Nam đã đo lường trước được một sự hậu
thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ, do chính sách “Xoay trục đối ngoại” tịnh tiến
về phía Hoa Kỳ mà thực tế đã có những dấu hiệu trao đổi song phương về
ngoại giao và quân sự khả tín, nhất là các hoạt động cụ thể trong những
tháng gần đây trong nỗ lực đi từ hợp tác toàn diện đến hợp tác chiến
lược toàn diện(như chúng tôi đã trình bày chi tiết trong bài viết mới
đây trên diễn đàn này).
Chẳng
thế mà, chỉ một ngay sau tuyên bố cứng rắn của Việt Nam, Hoa Kỳ đã mau
chóng lên tiếng bảo vệ Việt Nam. Ngày 20-7-2019 Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra
một Thông báo khá dài cho thấy một sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với
Việt Nam trong một tranh cãi gay gắt với nước láng giềng và thể hiện lập
trường mạnh mẽ của Mỹ về vụ việc được nói là tàu Trung Quốc cản trở
hoạt động dầu khí của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Nội
dung Thông báo này, đã lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép,
cáo buộc nước này có “hành vi bắt nạt” và “làm suy yếu hòa bình và an
ninh khu vực” giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục
hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở
phía nam Biển Đông.
Thông
báo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có đoạn viết “Việc Trung Quốc cải tạo và
quân sự hóa các tiền đồn đang tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa, cùng với
những nỗ lực khác để khẳng định các yêu sách hàng hải bất hợp pháp ở
Biển Nam Trung Hoa, bao gồm việc sử dụng dân quân hàng hải để hăm dọa,
cưỡng ép và đe dọa các quốc gia khác, làm suy yếu hòa bình và an ninh
của khu vực…”
Và
rằng “Mỹ kiên quyết phản đối sự cưỡng ép và đe dọa của bất kì nước
tuyên bố chủ quyền nào nhằm khẳng định các yêu sách lãnh thổ hoặc hàng
hải của mình.
“Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này…”
Cố
vấn An ninh Quốc gia Nhà Trắng John Bosten hôm thứ Sáu 18-7 cũng viết
trên Twitter với ý tương tự nhắm vào Trung Quốc dù không nhắc cụ thể tới
vụ tranh chấp với Việt Nam, rằng “Hành vi cưỡng ép của Trung Quốc đối
với các nước láng giềng Đông Nam Á là phản tác dụng và đe dọa hòa bình
& ổn định trong khu vực…”. Đồng thời trên thực tế, Tư lệnh Tuần
duyên Mỹ Karl L. Schultz cũng nhấn mạnh với báo chí hôm 23/7 rằng Tuần
duyên Mỹ (USCG) tiếp tục quan hệ hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam và
tái khẳng định cam kết lâu dài đối với an ninh khu vực trong bối cảnh
tình hình Biển Đông tiếp tục phức tạp. Ông nói “Chúng tôi đang hợp tác
rất chặt chẽ với Việt Nam và Hà Nội đã tăng cường sức mạnh của lực lượng
cảnh sát biển lên rất nhiều.”
Mặt
khác, phản ứng mạnh bạo bất thường của Việt Nam còn là do đánh giá được
phản ứng của Trung Quốc bị hạn chế bởi vùng tranh chấp lần này ở một vị
trí đang có một công ty khai thác dầu khí của Nga với kỹ thuật khai
thác dầu khí của một công ty Nhật. Vì thế, Trung Quốc không dám hung
hăng ra tối hậu thư như vài năm trước đây, đã ép buộc Việt Nam không
được để cho công ty Epson của Tây Ban Nha tiếp tục hợp đồng khai thác
dầu khí ở một lô nằm trong thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt
Nam. Mặc dầu cho đến lúc này, chính phủ Nga vẫn giữ im lặng. Nhưng theo
nhận định của Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, Nga không
lên tiếng, nhưng sẽ không bao giờ rút giàn khoan như công ty khai tháp
dầu khí của Tây ban Nha, mà sẽ khai thác cho đến khi hết cạn túi dầu.
Ông nói với VOA, rằng “Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay
không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí
thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam
từ năm 1978. Người Nga người ta rất hiểu luật. Họ có tuyên bố, có nói gì
hay không, cũng không thay đổi hiện trạng là công ty Rosneft và công ty
khác của Nga không bao giờ người ta rút cả”.
Chính
vì những yếu tố có được trong quan hệ với Hoa Kỳ và sự có mặt của hai
công ty Nga, Nhật nơi vùng đang tranh chấp, cũng như biết được hành động
ngang ngược của Trung Quốc mang tính thăm dò phản ứng các bên có liên
quan, Việt Nam đã quốc tế hóa được việc giải quyết tranh chấp đa phương,
đo lường được mức độ phản ứng của Trung Quốc nên mới dám tỏ thái độ
cương quyết, mạnh bạo như thế. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam
trong cuộc họp báo ngày 19-7 nói “Duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở
khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực
cũng như cộng đồng quốc tế,” Và “Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên
quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì
lợi ích chung này."
3
- Tuy nhiên Việt Nam vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối ứng thực tế
để tránh một cuộc đụng độ quân sự không cân sức với Trung Quốc, bất lợi
cho Việt Nam.
Cung
cách đối ứng mềm dẻo này, đã được người phát ngôn của Bộ Ngoại giao
Việt Nam lặp lại chủ trương của Việt Nam từ trước tới giờ là giải quyết
tranh chấp, bất đồng, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp
quốc tế và Công ước quốc tế về Luật Biển (UNCLOS). Trong vụ giai quyết
tranh chấp hiện hiện nay trên thực tế, người phát ngôn nói là Việt Nam
đang theo đuổi các kênh ngoại giao, vận động quốc tế. Nhưng không rõ có
nối tiếp hành đồng pháp lý là kiện Trung Quốc trước Tòa Trọng tài Thường
trực (PCA) như Philippine đã khởi kiện năm 2013 và thắng kiện Trung
Quốc năm 2016. Mặc dầu phán quyết này không buộc được Trung Quốc thi
hành và cơ quan tài phán này cũng không thể có biện pháp cưỡng hành. Thế
nhưng ít ra cũng có thêm bằng chứng pháp lý trong hồ sơ bảo vệ chủ
quyền biển đảo thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam để
trong tương lai, khi có thời cơ thuận lợi, sẽ đòi lại các đảo bị Trung
Quốc cưỡng đoạt bằng giải pháp pháp lý.
Bên
lề Hội nghị Biển Đông thường niên lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược Quốc tế (CSIS) tổ chức ở Washington D.C. hôm 24/7 bà Bonnie
Glaser, Giám đốc Chương trình Sức mạnh Trung Quốc tại CSIS, đã trả lời
VOA về làm sao Việt Nam có thể ngăn ngừa những vụ xâm phạm tương tự như
thế trong tương lai, bà nói ‘khởi sự kiện Trung Quốc sẽ là một bước đi
rất hay’. Và rằng “Đó sẽ là một bước đi rất quan trọng và tôi sẽ không
đánh giá thấp tác động của nó (đối với Trung Quốc) ”.
III - KẾT LUẬN
Trước
hành động ngang nhiên đưa tàu thăm dò "Hải Dương Địa Chất 8" và các tàu
hộ tống cảnh sát biển của Trung quốc vào gần Bãi Tư Chính thuộc quần
đảo Trường Sa,trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam.Đối sách của Việt Nam đi từ dè dặt lúc đầu, đến thái độ và lời nói
mạnh bạo sau đó, nhưng vẫn tỏ ra mềm dẻo trong hành động đối phó thực tế
để tránh một cuộc đụng độ quân sư không cân sức, bất lợi cho Việt Nam.
Nhưng
hiệu quả của đối sách này thế nào: liệu Trung Quốc có rút êm các tàu
của họ vô điều kiện hay có điều kiện gì? Hay trong tình thế căng thẳng
hiện nay liệu có dẫn đến nguy cơ nổ súng như Ts Hà Hoàng Hợp lo ngại“Sẽ
đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế
nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút…”. Tất cả đều ở
phía trước, chúng ta hãy chờ xem, hiệu quả thực tế không lâu lắm đâu.
Thiện Ý
(VOA)
Không có nhận xét nào