Việt Bào Phạm Văn Bản
01/4/2025
Courtesy VietAmReview
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và tác phẩm “Hoa Địa Ngục”.
Năm 1982, sau bảy năm tù cải tạo với tội danh trung úy hoa tiêu khu trục phản lực của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, và khi cầm Giấy Ra Trại Xuyên Mộc tôi trở về đoàn tụ với gia đình ở Kênh Rivera thuộc miền phì nhiêu Cái Sắn, vì nhà sống gần biển nên đã dẫn đưa vợ con xuống ghe tam bản vượt biên đi tìm tự do, và thoát nạn ngục tù Cộng Sản đọa đày tại Việt Nam! Sau ba ngày bốn đêm lênh đênh trên Thái Bình Dương, chúng tôi đã được cặp bờ của tỉnh Klong Yai thuộc Vương Quốc Thái Lan, rồi được trình diện nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc, để ghi danh vào sinh hoạt ở Trại Tỵ Nan Sikew, và tới đây người viết có duyên may nhận đọc bản sao tập thơ Hoa Địa Ngục của Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện, do người anh thân thương làm trưởng nhiệm Nguyệt San Vì Nước từ Úc Châu gởi tặng qua hệ thống bưu điện.
Nhận đọc thư trại tôi cầm tập sách Hoa Địa Ngục, một hình ảnh đầu tiên hiện ra trước mắt tôi là tác giả nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng cùng một hoàn cảnh và thân phận tù nhân khốn khổ như tôi, cho nên tôi rất có cảm tình, thân thương và kính mến ông, đặc biệt là một người chịu đựng cảnh đau thương sau bức màn sắt mãi ngoài Miền Bắc, mà gởi thành công sách Ngục Ca này ra hải ngoại để phổ biến. Trên tập sách ông cũng tuyên bố rằng: “Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm Cộng Sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Ðó là kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.”
Xem tới đây thì nước mắt tôi đã bắt đầu tuôn trào, tôi vội vàng gạt lệ và kính cẩn cúi đầu nguyện xin Các Đức Gia Tiên, Nghiệp Tổ, Quốc Tổ cùng Anh Linh Sông Núi và Hồn Thiêng Dân Tộc – nói chung là Tổ đang ngời sáng trong lòng tôi – Xin Các Ngài hiển linh, soi sáng, phù trợ và ban ơn phúc đức cho tác giả bài thơ “Sẽ Có Một Ngày,” mà tôi vừa chọn đọc, và mình liên tưởng như một bản ngục ca Tuyên Ngôn Độc Lập đang tràn ngập niềm tự hào và kiêu hãnh trong trái tim tôi:
“Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng vất cùm, vất cờ vất đảng
Đội lại khăn tang, đêm tàn ngày rạng
Quay ngang vòng nạng oan khiên
Về với miếu đường mồ mả gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy lên
Theo hương khói êm lan tan về cao rộng
Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ tương than
Đứng bên nhau trên mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận, kẻ bồi hồi kính cẩn
Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng “Tiến quân ca
Và Quốc tế ca”
Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!”
Nhìn chung cuộc Chiến Tranh Việt Nam đã qua đi, chẳng những toàn dân thắng giặc, nhằm mục đích xây dựng lại đất nước hùng cường thịnh vượng... nhưng mỗi người chúng ta cũng cần tự cải hóa chính mình, tự chiến thắng và loại bỏ “giặc vị kỷ” ngự trị và điều hành trong chính bản thân ta, bởi thế mà công cuộc xây dựng và kiến thiết đã thường bị thiếu hiệp nhất, thiếu thành công, thiếu toàn dân toàn diện. Bởi thế mà tác gia đã kêu gọi mọi người trong chúng ta phải “Vứt súng vứt cùm, vứt cờ vứt đảng” là những phương tiện quân sự đã từng xử dụng trong cuộc chiến “Đồng Bào tương tàn và Nồi Da xáo thịt” trong suốt 20 năm qua trong lãnh thổ vùng Đông Nam Á này.
Tiếp đến chúng ta phải thành tâm “Về với miếu đường mồ mả gia tiên” để thực hiện Lời Tổ dạy về nguyên lý “Tiên Rồng Song Hiệp” trong truyền tích mở đầu Trang Sử Dựng Nước của Dân Tộc Việt Nam là Ông Rồng lấy Bà Tiên, rồi Bà Tiên sinh ra Một Bọc trứng nở Trăm Con. Ông Rồng lại nói với Bà Tiên, nàng là Tiên ta là Rồng không ở với nhau được. Nay nàng đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển... và khi nào cần thì gọi Ta Về Ngay... Và từ đó Dân Tộc Việt Nam ngày một phát triển.
Bởi thế từ ngày Dựng Nước, Dân Tộc Việt Nam được gọi là dòng giống Tiên Rồng, và Con Cháu Tiên Rồng căn cứ vào nguồn gốc mà cảm thấy mình khác biệt hay trổi vượt hơn các dân tộc khác. Và trong suốt giòng lịch sử, Học Thuyết Tiên Rồng trở thành nền tảng tâm linh sâu vững nhất trong tư tưởng, trong huyết quản, trong tổ chức, và trong đạo sống của mọi người Việt Nam chúng ta qua danh xưng “Đồng Bào,” là anh em ruột thịt từ “Bọc Mẹ Trăm Con,” cùng một lần, cùng một lúc, cùng một bọc, đồng thời được tính theo quân bình định lượng tỷ lệ là 50% Tiên = 50% Rồng, và một là trăm và trăm là một.
Cũng theo tác giả, chúng ta cần tiến đến quỳ trước Bàn Thờ Tổ để cầu xin Các Đấng Linh Thiêng cầu bầu cùng tha thứ cho những tội phản dân hại nước của mọi người chúng ta trong Đại Cuộc Thống Nhất Dân Nước của thế kỷ 21 và Thời Đại Tín Nghiệp. Nhìn chung bài thơ “Sẽ Có Một Ngày” của Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện diễn tả, thì đây chính là một Ca Khúc Khải Hoàn của chiến sĩ và đồng bào song phương Việt Nam, dù là bạn hay thù thì chúng ta cùng nhau “Quay ngang vòng nạng oan khiên” mà tạ tội trước Tổ, một biểu tượng Phúc Đức tâm linh sâu vững nhất trong tinh thần kết hợp Hội Nghị Diên Hồng như từng có trong lịch sử... nhằm xóa bỏ những hận thù, những ngăn cách, những chiến tuyến phân chia giai cấp bởi những chủ thuyết ngoại lai và văn hóa Duy Vật Duy Lợi của ngoại nhân làm cho chúng ta lãng quên tinh thần đồng bào và sống xa nguồn lạc gốc.
Cũng theo tác giả là chúng ta tìm về nền tảng của công cuộc tổ chức Mở Nước, là nền tảng từ Tổ, là Sức Sống, là Truyền Thống siêu việt đang tiềm tàng trong đời sống dân chúng. Và lời dạy của Tổ chính là phương thức dựng nước “khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng,” và lời dạy đó là ý muốn của Tổ, là chính Tổ sống động hiện thực trong Dân Nước Việt Nam như “tiếng sáo diều trên trời xanh bao la” – để cùng nhau xum hợp và dựng lại Kỳ Đài Bách Việt hay Hoa Tiên Rồng Mở Hội của thời đại ngày nay.
Bài thơ Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam chúng ta vừa nghe, sau cuộc chiến “huynh đệ tương tàn – nồi da xáo thịt” đang tiến đến những giai đoạn kết thúc… để cùng bước vào kỷ nguyên mới, thời đại mới nhằm mang lại ơn ích, mang lại ấm no hạnh phúc, an bình và thịnh vượng cho dân tộc và quê hương đất nước Việt Nam hầu theo kịp tiến trình phát triển văn minh nhân bản của loài người, như tác giả nhận định: “Đứng bên nhau trên mất mát quây quần - Kẻ bùi ngùi hối hận, kẻ bồi hồi kính cẩn - Đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông - Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng!”
“Tiếng sáo mục đồng êm ả - Tình quê tha thiết ngân nga.” Và bài thơ cũng còn là một thông điệp Tình Yêu và là dấu chỉ của Con Cháu Tiên Rồng trưởng thành khi chúng ta biết yêu thương dân tộc, yêu thương anh em, yêu thương đồng bào của Một Bọc Trăm Con,” biết cách sống, biết cư xử trong mối tương quan song phương đa chiều trong một Xã Hội Tiên Rồng, sẵn sàng chết cho nhau và mãi mãi có nhau trên bước đường xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam tương lai mai sau.
Từ đó chúng ta cần nhận chân thảm trạng đau thương của dân tộc và đất nước mình để tự cải hóa Con Người Tiên Rồng của mình trở thành phúc lành, cũng như từ bỏ những phương tiện đấu tranh khác biệt của chủ nghĩa Duy Vật Duy Lợi đang thống trị toàn thể nhân loại hôm nay. Chúng ta phải nhận chân thảm trạng mất nước. Không lượng định chính xác sức mạnh của giặc, và tình trạng yếu kém của ta về mọi phương diện, thì chỉ là lạc quan trái mùa hay sợ giặc mà không nhìn ra giặc, không đánh giặc mà lại đánh nhau.
Kết Luận:
Chúng ta quyết tâm “Thay tiếng Tiến quân ca - Và Quốc tế ca”chớ không chỉ là thay đổi danh xưng là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mà thôi... mà phải “Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la!” Với những kinh nghiệm tuyệt hảo, với niềm tin chan chứa, với sức sống tràn đầy, và với nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp... thì giờ đây chúng ta đứng trước Bàn Thờ Tổ cùng toàn dân hiệp nhất, toàn diện vi phòng, toàn tài vi dụng, và toàn hảo Đồng Bào trong đời sống văn minh nhân bản và trong cơ chế chính trị tuyệt hảo của Tổ Tiên là hệ thống Làng Nước Việt Nam trường tồn muôn đời.
Việt Bào Phạm Văn Bản
Không có nhận xét nào