(Nguyên lý Lập Gia)
Việt Bào Phạm Văn Bản
20/3/2025
Ðơn sơ hát khúc tình lòng
Diễn phần Trường Cửu như trong đề tài
[580] Bồng con ru điệu Nam Ai
Trông chồng – thương mãi thương hoài ngàn năm
Quê nhà – em vốn lo chăm
Quản chi bao chốn xa xăm tảo tần
Nuôi con – phụng dưỡng song thân
[585] Ruộng vườn canh tác – mộ phần sửa sang
Việc nhà cho chí việc quan
Chiều chiều đứng ngóng tin chàng phương xa
Eo xèo chì bấc rầy rà
Vững chân bàn thạch – nàng là Vọng Phu
[590] Hóa thành núi đá ngàn thu
Trông ra cửa biển mịt mù lửa binh
Vào thời đất nước chiến chinh
Bao chàng trai Việt đáp tình non sông
Gĩa nhà thực hiện nghĩa công
[595] Tỏ phần “biến hóa” của Rồng là đây
Gia đình – nền tảng dựng xây
Việc chung làm trọng niềm tây phải nhường
Quê hương lâm cảnh tai ương
Giúp chồng – ra tuyến tiền phương diệt thù
[600] Hậu phương – em tiếp quân nhu
Ẵm con mong đón chiến khu khải hoàn
Nước nhà – phận sự song toàn
Chồng nào vợ nấy – lo toan đắp bồi
Và nền văn hóa thăng ngôi
[605] Chức năng nam nữ – hiệp đôi Tiên Rồng
Gia đình thể hiện việc công
Tình nhà tình nước – vợ chồng cùng xây
Khác nền văn hóa phương Tây
Phong trào giải phóng đã gây sai lầm
[610] Con người – tan nát lương tâm
Cộng đồng cực hóa – dương âm một chiều
Ngụy danh – chính sách thủ tiêu
Chức năng làm mẹ – tạo điều nguy cơ
Khiến người con gái bơ vơ
[615] Hóa thân đực rựa – hững hờ quyên sinh
Phá tan hạnh phúc gia đình
Biến thành loài thú dục tình mà thôi
Trầu Cau – nền tảng lứa đôi
Thương nhau trọn kiếp – chết rồi vẫn thương
[620] Như em – gia đạo kính nhường
Hóa thành Người Ðá – thăng hương chan hòa
Vọng Phu – trọn đạo nước nhà
Biến lên Núi Ðá – thăng hoa trọn đời
Tổ Tiên nhắn nhủ những lời
[625] Chức năng cha mẹ – góp đời Ðứa Con
Chẳng như cảnh vợ chồng son
Ðứa Con – biểu tượng Sống Còn Nước Dân
Nói lên diễm phúc tuyệt trần
Góp cho xã hội – sứ nhân Con Người
[630] Kìa trông thiếu phụ đôi mươi
Thương chồng – thương với tiếng cười trẻ thơ
Ðảm đang kết chỉ se tơ
Tháng năm sừng sững nàng chờ chinh phu
Ðăm chiêu đứng ngóng chiến khu
[635] Mong chàng hăng hái diệt thù cứu nguy
Việc chung – chồng xướng vợ tùy
Tiên Rồng Song Hiệp – hội quy Ðồng Bào
Anh thời việc nước đề cao
Giúp em – thể hiện phần nào làm dân
[640] Em ơi – đang gánh góp phần
Giúp anh – làm trọn nghĩa ân với nhà
Nước non – phận sự đôi ta
Cùng nhau gánh vác sơn hà Việt Nam
Nghĩa công – chồng vợ cùng làm
[645] Rồng sống nhờ nước – như Vàm Cửu Long
Trổ tài vùng vẫy khắp giòng
Tỏ phần biến hóa – mà hòng gặp Tiên
Non cao Hòn Vọng Phú Yên
Bồng con – nàng đợi đoàn viên cùng chàng
[650] Nước non – cơ nghiệp của nàng
Chàng đi vì nước – vì nàng mà đi
Cho nên lý tưởng thực thi
Tiên Rồng Nền Tảng chẳng vì lợi danh
Chẳng như xã hội hiện hành
[655] Tham gia chiến đấu chỉ tanh mùi tiền
Tạo ra cảnh sống đảo điên
Nhìn nhau gía trị đồng tiền mà thôi
Tích truyền – hướng dẫn khúc nhôi
Chồng nào vợ nấy – xứng đôi Tiên Rồng
Truyền Tích Vọng Phu
Trên Quê Hương Việt Nam chúng ta ngày nay có nhiều núi đá được gọi là Hòn Vọng Phu, trình bày về nguyên lý Lập Gia của Tổ Tiên. Từ câu ca dao mà người viết đã thường được nghe mẹ ru con ngủ lúc mình còn nhỏ:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị (Hòn Vọng Phu) có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng (Lạng Sơn) cùng em
Bõ công bố mẹ sinh thành ra em!”
Và sự tích Hòn Vọng Phu khởi đầu từ Đồng Đăng ở tỉnh Lạng Sơn ấy đã trải dài xuống tới Thanh Hóa, Bình Định, Khánh Hòa, rồi vào mãi tận Hà Tiên hay ra Côn Sơn... không nơi nào thiếu vắng Hòn Vọng Phu: Mẹ Bồng Con chờ chồng nghìn năm đến nỗi xác thân hóa đá! Trên khắp đất nước, và trong suốt dòng lịch sử không có sự tích nào được đặt tên trên nhiều danh sơn thắng cảnh Hòn Vọng Phu.
Sự phổ biến sâu rộng của chuyện tích, và nhất là việc trở thành địa danh cho nhiều đồi núi trên tòan đất nước, chứng tỏ truyện tích Vọng Phu đã chiếm một địa vị quan trọng trong tâm hồn và trong nếp sống của toàn dân Việt Nam chúng ta.
Ngòai những chuyện như Người Em trong tích Trầu Cau hóa đá, thì nàng Vọng Phu ở nơi đây cũng hóa thành đá. Chuyện người hóa đá, hóa ngọc như máu của Mỵ Châu – Đá, Ngọc là kết tinh, tinh túy của vật chất (phần Tiên), hơn nữa hóa thành ngọn núi đá cao, là dấu chỉ của biểu tượng quý báu của Tổ Tiên.
I. Tình Yêu Thể Hiện
Đứa con vừa là hình ảnh hạnh phúc gia đình, vừa là biểu hiệu của vinh dự và trách nhiệm, vật chất lẫn tinh thần, của những người được diễm phúc sinh dựng thêm cho xã hội một Con Người.
Với đứa con, tình yêu phối hợp của hai vợ chồng được sống thực và kết quả hạnh phúc. Nơi đứa con, hai cuộc sống, hai tâm hồn, hai con người đang hòa hiệp thành một cuộc sống tự tại mới.
Đứa con là tình yêu thể hiện của hai vợ chồng, là thực tại của Tiên Rồng Song Hiệp. Vì vậy, chẳng những đứa con đã không ngăn trở, mà còn tăng thêm sự kết hiệp của hai vợ chồng, trong tình yêu vô biên cũng như trong cuộc sống thường hằng.
1. Chức Năng Nam Nữ
Hai vợ chồng vui sướng bên đứa con thơ, cuộc sống thật tuyệt vời. Nhưng hạnh phúc của gia đình đầm ấm đã không làm hai người quên những bổn phận khác: Tình Yêu: Yêu Nhà – Yêu Nước chết chưa hết tình!
Đã quen với nếp sống nâng đỡ đùm bọc nhau của đại gia đình và của làng xóm, họ nhận biết rằng sở dĩ họ được yên vui là nhờ nhiều người khác đang tham gia vào việc chung, đang đánh giặc ngòai tiền tuyến để giữ làng giữ nước, để giúp cho họ có được một cuộc sống tự do thanh bình ở hậu phương.
Cũng vì vậy họ luôn luôn sẵn sàng đóng góp phần họ. Và rồi, khi tới dịp, người chồng đã phải từ giã gia đình, mà ra đi làm bổn phận công dân nhằm bảo vệ tự do, dân chủ và nhân quyền.
Ở các văn hóa khác, việc làng việc nước, việc chung thường được coi là công tác phục vụ cho giai cấp thống trị mà hưởng lương bổng. Nhưng ngược lại trong văn hóa Việt, với chủ trương “Đồng Bào” chính đáng về bổn phận của vua quan, của dân tộc, và của thể chế làng nước/ hay một tuyệt tác chính trị của Tổ Tiên.
Việc chung được quan niệm và thực sự là việc giúp ích cho mọi người. Khi vua quan cư xử như cha mẹ, đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho người dân được hạnh phúc (Chữ Đồng, Tiết Liêu), và khi người dân được thực sự sống trong tự do và dân chủ đúng nghĩa (An Tiêm), thì đóng góp vào việc chung, chính là một đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần thiết, để bảo đảm nếp sống hạnh phúc chung của nhau.
Đi làm việc chung chính là đem tài trí giúp ích cho đời. Tuy nhiên, việc chung nhiều khi lại vượt quá nếp sống thường ngày và ít có kết quả lợi lộc ngay trước mắt.
Vào thời lọan, gánh vác việc chung còn kèm theo cả nguy hiểm tánh mạng. Do đó, việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa trông rộng, và cũng thường làm nhiều người ái ngại.
Vì vậy, việc cưỡng bách, dưới một số hình thức, cũng là chuyện thường tình. Và cũng vì vậy, dấn thân làm việc chung luôn được mọi người coi là một hành động đáng khâm phục.
2. Việc Nước – Việc Nhà
Truyện tích Vọng Phu chú trọng đến người vợ hiền đang ở lại nhà. Tâm trạng và công việc của người ở nhà cũng không phải nhẹ nhàng. Chồng đã ra đi, người vợ ở nhà phải tự lo liệu cho cuộc sống của chính nàng, con nàng và gia đình nhà chồng.
Trước kia, khi chồng ở nhà, có nhiều việc nàng không cần động tay, không cần nghĩ tới. Thì giờ đây, một mình nàng phải cáng đáng tất cả.
Trước kia thì chồng cày vợ cấy, và giờ này, em cày em cấy mặc lòng em đây! Công việc chẳng những nặng nhọc hơn, mà còn cô đơn, hiu quạnh và buồn tẻ hơn nhiều.
Nỗi cô đơn đó còn tăng thêm gấp bội, khi nàng còn phải một mình chăm sóc con thơ. Chẳng những phải lo ăn mặc, thuốc men mà còn phải dạy dỗ cho con nên người.
Trước kia nàng chỉ là “bà mẹ hiền,” giờ đây nàng phải gánh vác luôn vai trò “người cha nghiêm!” Công việc, trách nhiệm và nỗi cô đơn vây bọc người ở nhà.
Ngoài ra, nàng còn có trách nhiệm đối với đại gia đình. Dĩ nhiên, nàng cũng được họ hàng thân thích giúp tay đỡ đần.
Nhưng không phải vì vậy mà nàng có thể quên phần vụ của mình trong đại gia đình. “Lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng!”
3. Chia Nhau Công Tác
Ở thời suy thoái, quan niệm gái việc nhà trai việc nước đã bị cực hóa đến độ phụ nữ bị nhốt trong bốn vách tường. Trong khi đó, đàn ông lộng hành, coi mình vượt xa trên nữ giới, là gia trưởng!
Tuy nhiên, ca dao tục ngữ, cũng như quan niệm về nếp sống bình dân, tức là những phản ảnh trung thực của văn hóa Việt, luôn luôn thể hiện tinh thần Vọng Phu.
Ca dao Việt Nam:
- Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ gìa con thơ
Lầm than bao quản nắng mưa
Anh đi anh cố chen đua với đời
- Anh ơi phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em
Tháng chạp là tiết trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi
Đến khi gặt hái xong rồi
Trời đổ mưa xuống nước trôi đầy đồng
Anh ơi giữ lấy việc công
Để em cày cấy mặc lòng em đây
Người vợ Việt luôn ý thức rõ ràng bổn phận của mỗi người, của chồng cũng như của chính nàng, đối với việc chung. Nhưng nàng cũng ý thức rằng trong thực tế, chàng có nhiều điều kiện hơn nàng để lo việc chung, cũng như nàng có nhiều thuận lợi để lo việc nhà hơn chàng.
Vì vậy, thay vì mỗi người phải tự mình làm tròn nhiệm vụ vừa đối với nhà vừa đối với nước, người phụ nữ Việt đã mạnh dạn thúc dục chồng ra đi lo việc nước, gánh thêm phần vụ việc chung của nàng, trong khi nàng khẳng khái đứng ra lãnh phần chu tòan việc nhà thay cho chàng.
Mỗi người tùy theo cấu trúc và điều kiện thuận hợp riêng, mà chu tòan công tác ứng hợp với khả năng mình. Chính nhờ chia nhau công tác, nhờ phân công theo chức năng, mà cuộc sống bớt khó khăn, bớt nặng nhọc, và thêm vui tươi, thêm trọn vẹn, thêm hạnh phúc.
4. Bổ Túc Hỗ Tương
Như vậy Vọng Phu xóa bỏ sự phân cách giả tạo giữ những đặc tính nam nữ. Vì không thấy Con Người trong việc phối hiệp vợ chồng, mà chỉ thấy từng cá nhân đơn độc, nên những dị biệt nam nữ đã trở thành dấu hiệu chia cách, hơn là sự mời gọi hiệp nhất.
Sự phân cách đó đã đưa tới hậu qủa tai hại như trọng nam khinh nữ, coi việc chung là đặc quyền của nam nhi, coi phụ nữ chỉ xứng đáng quay mặt vào bếp, nuôi con thờ chồng.
Trái lại Vọng Phu nhấn mạnh tới sự hiệp nhất bổ túc hỗ tương giữa nam và nữ. Chàng đi lo việc nước, không phải chỉ vì đó là bổn phận của người trai, mà còn vì chàng được nàng ủy thác.
Cũng vậy, chàng ra đi không phải để trốn tránh việc nhà, mà vì đã có nàng gánh vác thay chàng.
Trong chàng có nàng và trong nàng có chàng.
Mỗi người đều ủy thác và nhận ủy thác. Họ phân công trong tòan bộ, trong liên nhiệm của hai người đã hiệp nhất Thành Một Đơn Vị xã hội.
II. Gia Đình & Con Người
Chàng đã lên đường. Với hệ thống giao thông và liên lạc thô sơ thời xưa, ra đi là biệt tăm.
Vì vậy, nàng chờ chàng từng ngày. Chiều chiều, khi công việc nhà đã tạm yên, nàng bồng con đứng ngóng, mong được thấy bóng chồng thấp thoáng ở cuối chân trời.
Có hình ảnh nào cảm động bằng cảnh người vợ hiền bồng con đứng ngóng chồng trong lúc chiều tà. Hình ảnh đó bộc lộ niềm nhớ thương và chung thủy của nàng. Bồng con, qua đứa con, nàng đang ôm ấp mối tình dạt dào của hai vợ chồng.
Bóng hai mẹ con kéo dài trên mặt đất càng tô đậm nỗi co6 đơn lạnh lẽo của nàng trong lúc đêm về.
Nàng chờ, chờ từng ngày, từng đêm. Sự thiếu vắng của chàng trong cuộc sống hàng ngày, trong những sinh họat cần có chàng, lại càng làm nàng thương nhờ nhiều hơn.
Tuy vắng mặt, nhưng chàng vẫn luôn luôn hiện diện trong tâm tưởng, trong cuộc sống của nàng.
1. Có Nhau Từng Ngày
Sự thương nhớ này chẳng những nói lên tình yêu thương chung thủy, mà còn bộc lộ một đặc tính thiết yếu của Tình Vợ Chồng.
Tình vợ chồng chẳng những kết hiệp hai thể xác và hai tâm hồn, mà còn phải luôn được thể hiện trong cuộc sống từng ngày.
Tình yêu chỉ thực sự bền vững khi con người Có Nhau Từng Ngày, chấp nhận nhau từng ngày và chia sẻ với nhau cuộc sống từng ngày của nhau.
Chỉ khi nào hai người có nhau từng ngày, tin tưởng vào quyết tâm thể hiện thực sự tình yêu cho nhau, bất chấp thời gian, bất chấp hòan cảnh, thì khi đó tình yêu mới trọn vẹn, đời sống vợ chồng mới thực sự hạnh phúc, tràn đầy, và tăng triển.
2. Gia Đình Thiết Yếu
Hơn nữa, việc nàng nhớ chàng từng ngày lại nhấn mạnh tới sự thiếu vắng khi người chồng đã ra đi.
Hai mẹ con không thể yên tâm vui sống khi vắng chồng vắng cha. Sự thiếu vắng này chẳng những không suy giảm mà còn gia tăng với thời gian.
Nàng thiếu chàng, nàng chờ chàng. Nhưng không chỉ chờ vì thương nhớ, mà còn chờ chàng sớm làm xong phận vụ của chàng.
Trong khi thay chồng làm việc nhà, nàng tin chắc chàng cũng đang chu tòan phần việc chung của cả hai người. Hình bóng chàng về, không chỉ là hình bóng của người chồng thân yêu, mà còn đậm nét hiên ngang của một chàng trai Việt trở về, sau khi chu tòan bổn phận của mình và của gia đình đối với làng nước.
Đây là tuyệt đỉnh tôn vinh tính cách thiết yếu và trường cửu của gia đình. Chỉ khi nào là thành phần của một gia đình, với yhai cuộc sống vợ chồng hiệp nhất, thì Con Người mới thực sự sống trọn vẹn cuộc sống của mình.
Gia Đình Là Nền Tảng Cuộc Sống Con Người.
3. Thiên Chức Làm Mẹ
Nàng bồng con chờ chồng đến nỗi cả hai mẹ con đều hóa thành đá.
Nếu là thực tế, thì sau độ mươi năm, đứa con đã khôn lớn, nhưng trong Vọng Phu, mẹ vẫn bồng con dẫu đã ngàn năm. Đây chính là hình ảnh tô đậm trách nhiệm và niềm tự hào của thiên chức làm mẹ.
Cho đến ngàn năm, nàng vẫn hãnh diện và nâng niu cái diễm phúc cảm nhận mình đang bảo bọc, nuôi dưỡng và dạy dỗ con thơ ngay trong chính bản thân mình.
Sự yêu thương đùm bọc đó không chỉ hiện hữu khi đứa con còn bé bỏng, mà lại gia tăng theo thời gian và kéo dài tới ngàn năm.
4. Có Mãi Ngàn Năm
Chuyện hai mẹ con chờ chồng chờ cha đến thành hóa đá còn nói lên sự quý trọng và quan niệm sống nền tảng của văn hóa Việt.
Trong Học Thuyết Tiên Rồng, người Em ở Trầu Cau đã chết cho gia đình người anh, nên thành tảng đá vôi; nàng Mỵ Châu vì quá thương chồng mà máu hóa ngọc trai; Trương Chi ôm mối tình câm chung thủy, nên tim cũng thành ngọc.
Tất cả những đá ngọc đó, tất cả những kết tinh của tình người đó, lại đều chờ đợi để kết hiệp với người thương. Đá vôi chờ được nhai chung với trầu cau. Tim ngọc của Trương Chi chờ được hòa tan với giọt nước mắt Mỵ Nương. Giọt ngọc Mỵ Châu lại chờ được ngâm mình trong nước giếng Trọng Thủy. Tất cả đều hóa đá để chờ.
Nàng Vọng Phu cũng chờ. Nàng chờ tới nghìn năm. Cho đến nghìn năm mây trôi, Tình Vợ Chồng của nàng vẫn bền vững như thuở ban đầu.
Sương gió giãi dầu, thời gian mòn mỏi, nhưng chẳng những không làm tiêu hao niềm thương nhớ, mà trái lại, còn làm cho mẹ con nàng, cho chính tình yêu chung thủy của nàng, vươn cao lên thành núi đá.
5. Tạo Thành Đất Nước
Việc hai mẹ con nàng vươn thành núi cao lại là hình ảnh tuyệt vời của địa vị Gia Đình Tiên Rồng trong cuộc sống Xã Hội Đồng Bào.
Núi cao nhắc nhớ Mẹ Tiên đem năm mươi con lên núi, Mẹ Tiên ở núi. Nhưng nơi đây, chính Mẹ đã vươn thành Núi Non, chính Mẹ góp phần cho Đất Nước rộng lớn them, vật chất dồi dào hơn.
Cha ra đi lo tròn việc Nước, thì Mẹ ở nhà hóa thành Non cao. Nhờ có Mẹ Cha nên mới có Non Nước Tiên Rồng, mới có giang sơn gấm vóc.
Đất Nước thành hình và phát triển, chính là do những cặp vợ chồng cùng nhau Sống Trọn Tình Nhà Tình Nước, sống trọn Vọng Phu mà ra mà có.
III. Kết Luận
Văn hóa Việt đã luôn sống thực Vọng Phu. Gia Đình luôn chiếm địa vị cao nhất trong xã hội Việt. Nhờ kết hiệp thành một Gia Đình kiên vững, cả người nam lẫn người nữ mới có thể sống trọn vẹn cuộc sống của chính mình trong nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp Hoàn Chỉnh.
Nhờ gia đình, nam nữ chẳng những không xung khắc nhau, mà trái lại, bổ túc nhau để chu toàn mọi chức năng của Con Người. Công tác khác nhau, nhưng tương trợ, hòa hiệp cho nhau để hoàn thành công tác của mỗi người.
Cũng vì tầm quan trọng và thiết yếu bậc nhất của Bài Học Gia Đình, nên bất cứ hình thức nhắc nhớ nào, cũng được Tổ Tiên chúng ta đặt tên là Hòn Vọng Phu.
Để diễn tả và tôn vinh vai trò của cả hai vợ chồng, không có hình ảnh nào mang ý nghĩa và cao qúy hơn Hòn Vọng Phu. Không còn hình ảnh nào súc tích và cảm động hơn để nhắc nhớ Tình Nghĩa Vợ Chồng bằng Hòn Vọng Phu.
Gia Đình không phải là cho từng cá nhân, mà là nền tảng của Cuộc Sống Con Người và của Tổ Chức Xã Hội Lòai Người.
Việt Bào Phạm Văn Bản
Không có nhận xét nào