Saturday, March 29.

Header Ads

  • Breaking News

    Huấn Ca MỴ CHÂU

     Bài Học Mất Nước  Để Trở Thành

    Sách Lược Giữ Nước


    Việt Bào Phạm Văn Bản

    22/3/2025


    A person and person riding a horse

AI-generated content may be incorrect.


    Dương Vương muốn dựng Cổ Loa

    Ước mong chống giặc Triệu Ðà xâm lăng

    Nhưng thành luôn mất thăng bằng

    [755] Xây xong lại xập – bởi rằng yêu tinh

    Vương liền cầu khẩn thần linh

    Kim Quy – đế quốc nể tình giúp cho

    Từ đây – thành ốc khỏi lo

    Thần còn tặng móng – làm cò cung tên

    [760] Bắn ra một phát – sướng rên

    Giết ngay vạn giặc lền khên ngoài thành

    Triệu Ðà – mưu chước khôn ranh

    Cầu hòa – xin tặng thêm cành thiên hương

    Mỵ Châu Trọng Thủy – uyên ương

    [765] Thương chồng – nàng lộ hiến chương quốc phòng

    Giúp chàng nội gián vào trong

    Tráo ngay lãy nỏ – việc xong là về

    Cùng cha – qua đánh nhạc thê

    Cổ Loa thất thủ ê chề đắng cay

    [770] Vương cùng con gái cao bay

    Ôm lưng tuấn mã mơ ngày thoát thân

    Ngàn trùng đào tẩu tảo tần

    Ðối phương lại cứ rần rần rượt theo

    Vì nàng – lông ngỗng rắc gieo

    [775] Giúp chồng Trọng Thủy – bám đeo đuổi hoài!

    “Triệu Đà Trọng Thủy” – cả hai

    Biểu trưng “đế quốc” – chuỗi dài xâm lăng

    Tiên Rồng – vì mất quân bằng

    Bởi không “song hiệp” – gia tăng đối thù

    [780] Tích truyền lịch sử nghìn thu

    Một lần duy nhất trùng tu vương thành

    Tuyên xưng chống giặc đã đành

    Nhưng vì thành ốc chỉ dành cho vua

    Nguyên nhân công cuộc thắng thua

    [785] Tốn hao công quỹ – theo hùa ngọai bang

    Chẳng màng cải tiến Nước – Làng

    Đã không chăm sóc – lại càng hại dân

    Rồi thành sập đổ nhiều lần

    Sưu cao thuế nặng – muôn phần tốn hao

    [790] Bắt dân đắp lũy vét hào

    Ruộng nương hoang phế – tăng cao đói nghèo

    Tạo ra xã hội cheo leo

    Lòng dân than oán – rắc gieo tương tàn

    Người người cơ cực lầm than

    [795] Tham quan nhũng nhiễu lan tràn khắp nơi

    Nước – Dân thành chuyện xa vời

    Còn chi lý tưởng với lời nói suông

    Tướng binh dù có bổng lương

    Nhưng vì “hồn nước” đã ruồng bỏ đi

    [800] Dân thì “hồn giặc” ám ghi

    Mong thay chế độ – thị phi bất cần

    An Dương – lại sống xa dân

    Chui vào ốc đảo – vinh thân lợi nhà

    Kết bè – nhận giặc thông gia

    [805] Môn đăng hộ đối – để mà khinh dân

    Hôn nhân đình đám rần rần

    Xe bao trăm cỗ tỏ phần xa hoa

    Tiệc tùng quà cáp lụa là

    Vui trên xương máu nước nhà – mà thôi

    [810] Nỏ thần thành ốc – đủ rồi

    Tăng tàu phi pháo – yên ngôi trị vì

    Mặc dân – ai khổ can chi

    Tin vào vũ khí – cậy vì đồng minh

    Giặc kia – mà ngỡ thâm tình

    [815] Rước tên nội gían – rập rình săn tin

    Còn đâu quân sự giữ gìn

    Còn chi bảo mật – thiếu nhìn thanh tra

    Việc công – vua đã lơ là

    Quên lời Dựng Nước – để mà An Dân

    [820] Xa lìa truyền thống tiền nhân

    Chạy theo Duy Lợi – vong thân cầu ngoài

    Mộng mơ khoa bảng làm “tài”

    Cam tâm nô lệ – Chẳng hòai “nước non”

    Nuôi thân trả nợ chưa mòn

    [825] Sớm khuya hia mão bon chen việc làm

    Lâu lâu có buổi họp quan

    Vua ngồi vua phán – lam nham ích gì

    Toàn dân – xa lánh khinh khi

    Vua thời chờ phút sinh thì – mất ngôi

    [830] Việc vua việc nước – đơn côi

    Một người con gái – thành đôi nghịch thù

    Gả nàng – trao đổi – đền bù

    Biến con thành giặc cho dù giữ ngai

    Hỡi ơi! Tham lợi háo tài

    [835] Bán buôn máu huyết hình hài Tổ Tiên

    Nhận làm phương tiện – ngang nhiên

    Giúp cho giặc chiếm trọn miền quê hương

    Ngây thơ chính trị – dẫn đường

    Lộ điều bí mật – vì thương người chồng

    [840] Cướp xong vào buổi chiều đông

    Anh chàng gián điệp – thong dong về nhà

    Cùng cha – qua đánh nhạc gia

    Phép công là trọng  – lọ là niềm riêng

    Đất bằng nổi sóng binh khiên

    [845] Dân cư tan tác – xóm giềng điêu linh

    Dương Vương nay rõ sự tình

    Nỏ thần hết nghiệm – tướng binh đầu hàng

    Pháo phi thiết kỵ – mọi đàng

    Lọt về tay giặc – phũ phàng – hận căm

    [850] Ba mươi tháng bốn bảy lăm

    Mặc dân sống chết – vua nhằm thoát thân

    Ẵm con – ôm bạc – nhanh chân

    Tìm đường tỵ nạn – cầu ân xứ người

    Nào đâu chẳng thấy tiếng cười

    [855] Con dân địch vận là người ngu ngơ

    Lệnh truyền từ “cục e – rờ”

    Áo choàng lông ngỗng – phất phơ chỉ đường

    Chạy qua bao ải dặm trường

    Địch quân sao mãi tinh tường rượt theo

    [860] An Dương lâm cảnh hiểm nghèo

    Truy ra nguyên cớ – Giặc đèo sau lưng

    Than ôi – nàng Mỵ – con cưng

    Lông chim đã nhổ – biểu trưng Tiên tàn

    Nhát gươm oan nghiệt – chém tan

    [865] Máu nàng – vung vãi lan tràn biển khơi

    Đau thương khổ lụy chưa vơi

    Chết theo vua chúa – chết đời nước dân

    Triệu Đà chiến thắng khắp phần

    Chủ trương vô sản – phi nhân phơi bày

    [870] Tòan dân cùng cực đọa đày

    Người người căm phẫn – chờ ngày vùng lên

    Giúp Dân Cứu Nước – xứng tên

    Học bài Phù Đổng làm nền dựng xây

    Mỵ Châu – dẫn chứng nơi đây

    [875] Trước là Hồn Nước – từ rầy chớ quên

    Tổ là biểu tượng nói lên

    Tiên Rồng Chánh Thuyết – dựng nên nước nhà

    Tinh thần kết hiệp hài hòa

    Tòan Dân Giữ Nước – chính là việc công

    [880] An Dương – phản bội Tổ Tông

    Không cầu khấn Tổ – cậy trông người ngòai

    Kim Quy – biểu tượng thần tài

    Đại cuộc giữ nước – đã sai từ đầu

    Hồn lìa trước – Nước mất sau

    [885] Nỗi đau mất nước – lụy sầu nhà tan

    Nước Dân – Đời sống liên can

    Mất theo Hồn Nước – lụi tàn Lòng Dân

    Mất Dân – thì mất mọi phần

    Kể chi thành ốc nỏ thần – thị uy

    [890] Cổ Loa – bài học dễ suy

    Biểu trưng thành chết – xụp tùy thời gian

    Lòng Dân – Sức Nước tương quan

    Quốc phòng quân sự – bảo an nước nhà

    Phải luôn cải tiến, kiểm tra

    [895] Là phần cơ mật – để mà phòng nguy

    Tuyệt tin vũ khí Kim Quy

    Dương Vương ỷ lại – tiện tùy ngủ quên

    Say men chiến thắng – ngỡ bền

    Quên điều cập nhật – sót tên bảo trì!

    [900] Nhận con rể giặc – làm gì

    Rước vào cung cấm – còn chi quốc phòng

    Dương Vương – dầu hưởng thong dong

    Nhưng về tay giặc đã xong mọi phần

    Chỉ chờ khi giặc xuất quân

    [905] Nhà tan nước mất – thóat thân chạy dài

    Đồng minh – trở mặt ly khai

    Quốc gia xụp đổ – như bài học trên

    Tích truyền minh chứng – nói lên:

    Phát huy truyền thống – giữ bền non sông

    [910] Sống theo Đạo Đức Tiên Rồng

    Giúp Dân Giữ Nước – thành công sáng ngời

    Hồn – Dân – Sức – Đất ai ơi

    Giữ tòan vẹn bốn – Nước thời thịnh an

    Mỗi khi nạn nước tràn lan

    [915] Giữ Hồn – Dân – Sức phá tan giặc thù

    Hồn – Dân – mất Sức cho dù

    Muốn mong quật khởi – cần cù có ngay

    Mất Dân – Sức – Đất chờ ngày

    Giữ Hồn tụ điểm – tỏ bày thành công

    [920] Mất Hồn – mọi sự tang bồng

    Nước thành xác chết – đừng mong phục hòan

    Mất Hồn – Dân mãi lo toan

    Cũng thành công cụ – hòan tòan gây nguy

    Mất Hồn – Dân – Sức ích chi

    [925] Thuộc về tay giặc – cũng tùy thời gian

    Giữ – Hồn – Dân – Sức liên quan

    Theo bài Phù Đổng – ta bàn sâu hơn

    Mỵ Châu – phá họai giang sơn

    Tội đền xử chém – làm ơn răn đời

    [930] Nước – Nàng không sống trọn lời

    Tình Nhà chung thủy – đồng thời thưởng công

    Tổ Tiên – phán xử minh thông

    Tội làm mất nước – thương chồng mà ra

    Máu nàng – được hóa ngọc ngà

    [935] Chính là Máu Đá – Tình Nhà thăng hoa

    Ngọc trai nước giếng – tẩm hòa

    Trở nên sáng đẹp – nhạt nhòa Thân Thương

    Trầu Cau – tích dẫn tỏ tường

    Thương nhau trọn vẹn – con đường quang vinh

    [940] Nước Nhà sống thực – trọn tình

    Tiên Rồng Song Hiệp – chứng minh tuyệt vời



    Truyền Thuyết Mỵ Châu


    Tổ Tiên dùng truyền tích thương tâm An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thủy – thành một câu chuyện công chúa làm mất nước, để dạy chúng ta về Bài Học hay Sách Lược Giữ Nước, tức là chúng ta muốn Bảo Vệ Đất Nước thì phải biết: (1) giữ Hồn Nước (2) giữ Dân Nước (3) giữ Sức Nước (4) và giữ Đất Nước.


    Mỵ Châu là bài học Giữ Nước. Theo quan niệm của Tổ Tiên, thì công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước là của toàn dân. Bất cứ tổ chức chính trị độc tài hay chuyên chế nào cũng là phản dân hại nước, và đắc tội với Dân Tộc Việt Nam.


    1. Bài Học Mất Nước


    Truyền thuyết Mỵ Châu minh định rằng việc xây thành, lập đảng nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị, có ích chi? Cậy chi vũ khí Nỏ Thần mà bỏ quên Sức Dân? Trông chi đồng minh Kim Quy/ Mác Lê xa lạ mà lìa bỏ Hồn Dân Hồn Nước?


    Xây thành Cổ Loa làm cho dân đói khổ. Phung phí tài nguyên làm cho dân cùng cực.


    Tốn hao ngân sách làm cho nước kiệt quệ. Ỷ vào thành vững nỏ thần mà khinh dân, xa dân, bỏ dân, lìa dân để mặc cả và chạy theo lợi ích ngoại bang.


    Thành cao lũy tốt, khí giới hiện đại có ích chi khi chính người công dân cuối cùng là con gái của mình như Công Chúa Mỵ Châu đã phải đối nghịch, huống chi dân chúng đang sống trong và ngoài thành? Vì từ khi gả nàng cho giặc, thì nàng sẽ thành ra người của giặc, thì nàng phài nghe lời của giặc, và nàng làm theo ý giặc... có đúng chăng?


    An Dương Vương không thể đổ thừa cho ai? Hay trách oán ai?


    Việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa cách Hà Nội khoảng 15 cây số và làm mất nước, đã trở thành một đề tài suy tư cho bao thế hệ thanh niên Việt Nam tiếp nối. Với hơn bốn ngàn năm văn hiến, việc tích lũy truyền đạt kinh nghiệm Giữ Nước, từ sai lầm của triều đình An Dương thành Bài Học Giữ Nước cao quý cho chúng ta hôm nay.


    Tổ Tiên đã xử dụng câu chuyện Làm Mất Nước thương tâm của An Dương Vương và cặp vợ chồng Mỵ Châu Trọng Thủy làm đề tài Mất Nước để dẫn chứng cho chúng ta thấy rõ ràng về bài học Giữ Nước: Muốn Giữ Nước thì chúng ta phải biết Giữ Hồn Nước, Giữ Dân Nước, Giữ Sức Nước và Giữ Đất Nước.


    2. Đánh Mất Chính Mình


    Dưới khía cạnh bài học Làm Người, truyền thuyết Mỵ Châu cũng nói lên diễn tiến của một người làm mất chính mình, mất đồng bào tính, mất Học Thuyết Tiên Rồng và khiến cho con người ấy bị tha hóa, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi những tà thuyết ngoại lai hay ngoại nhân nhằm biến đổi con người của mình trở thành một Vị Kỷ Cá Nhân (Personal Ego), chớ không phải Tự Do Cá Nhân (Personal Freedom) như trong một bài phân tích của người viết.


    Chuyện kể rằng để chống quân Triệu Đà, thì An Dương Vương đã khởi công xây dựng Loa Thành. Đặc biệt trong suốt dòng lịch sử của Dân Tộc Việt chúng ta chưa bao giờ có việc xây thành kiên cố cho vua chúa trú ngụ.


    Các Vua Hùng đã luôn sống với dân, gần dân, bên dân và cùng dân chia sẻ mọi trách nhiệm theo định chế chính trị Làng Nước xưa nay.


    Việc xây Loa Thành này đã đánh dấu quan niệm chống giặc giữ nước theo kiểu của An Dương Vương. Quan niệm này đi ngược lại truyền thống ngàn đời của Dân Tộc Việt Nam, và xây thành trở nên việc làm xa lạ với nếp sống trong xã hội Đồng Bào của toàn dân đương thời.


    Ngoài ra, sự kiện thành bị xụp đổ nhiều lần, đã chứng tỏ hoàn cảnh đất nước không đủ cung ứng cho việc xây thành lũy. Chẳng những An Dương Vương lìa xa tinh thần dân tộc, mà còn lìa xa đời sống thực tế, thực thể hay thực trạng hiện hữu của đất nước.


    Khi thành bị xụp đổ, đáng lý An Dương Vương phải tìm hiểu, thay đổi kế hoạch mới, để ứng hợp với hiện trạng nhằm vận dụng, xử dụng và tận dụng sức mạnh thiết thực của toàn dân. Nhưng ông lại trông cậy vào mưu lược tài trí của người lạ Thần Kim Qui.


    Như thế việc xây Loa Thành còn nói lên khuynh hướng sống vọng ngoại của An Dương Vương.


    3. Đánh Mất Hồn Nước


    Theo Học Thuyết Tiên Rồng thì việc lìa bỏ tinh thần dân tộc, lìa bỏ Hồn Nước của An Dương Vương lại càng rõ rệt. Đang khi trong truyền thuyết Tiết Liêu hay Phù Đổng, khi cần An Dân Cứu Nước, thì các Vua Hùng phải khẩn Cầu Tổ về chỉ dạy. 


    Nhưng ở đây, An Dương Vương không cầu Tổ, mà lại đi cầu đồng minh Kim Quy đến giúp xây đặc khu kinh tế giữ nước, trong chương trình “Vành Đai – Con Đường!” của thiên triều Trung Quốc theo chính sách mượn đất đã có từ thời Hán Vũ Đế! Chẳng những giúp xây được Loa Thành, Thần Kim Qui còn cho một cái móng chân để làm lãy nỏ, vũ khí nguyên tử Nỏ Thần này bắn một phát giết ngay vạn giặc chết lền khên ngoài thành!


    Với thành vững, với vũ khí nguyên tử hiện đại đã khiến cho các tài năng thiện nghệ của Thanh Niên Việt Nam trở thành vô dụng. Các tài năng chất xám của bao lớp người thanh thiếu niên cũng không được xử dụng, không được nuôi dưỡng, không còn cần thiết trong công cuộc Dựng Nước – Giữ Nước của An Dương Vương.


    Có phải đây là một biểu trưng của chính trị gia độc tài độc tôn chuyên chế?


    3. Chấp Nhận Hồn Giặc


    Đã xa nếp sống người dân, đã chỉ cậy vào người ngoài, An Dương Vương lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho hoàng tử Trọng Thủy, con của của đối phương Triệu Đà đang làm giặc nước.


    Đang là một tên xâm lăng khiến cho An Dương Vương phải lo xây thành để chống cự, thì Trọng Thủy bỗng ngang nhiên bước vào tung hoành tới tận thâm cung bí sử của Loa Thành.


    Đang là một tên giặc nguy hiểm Trọng Thủy lại trở thành người đầu gối tay ấp của nàng tiên Mỵ Châu. Trời ơi!


    Như vậy, từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, rồng An Dương Vương bước tới giai đoạn rước giặc vào nhà. Và tiên Mỵ Châu, biểu tượng cho tâm hồn Việt, cũng đã chấp nhận giặc, ôm ấp giặc, nghe lời giặc và thành người của giặc.


    Cớ sự mất nước đã rõ ràng ra như vậy mà Mỵ Châu còn tiến thêm một bước, là nàng yêu và chiều Trọng Thủy đến nỗi đưa vũ khí tối mật của quốc gia là cái nỏ thần cho Trọng Thủy coi. Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước cũng đang được tạm thời sống trong yên ổn nhờ có thành vững vũ khí hiện đại.


    Thế mà sau khi giúp cho giặc phá lũng thành, thì giờ đây Mỵ Châu còn làm theo ý giặc là trao cho Trọng Thủy xem cái nỏ thần, để rồi bị chàng đánh tráo cướp mất.


    Mỵ Châu đã coi ý giặc hơn sự an toàn của dân nước. Nàng đã yêu qúy giặc hơn đồng bào mình, hơn quê hương mình. Vậy thì còn gì Nước, còn chi là Dân? Nhưng nàng vẫn cho là chưa đủ! Trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu còn nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc, để ghi dấu cho Trọng Thủy tìm đường rượt theo.


    Thực là chua chát, đắng cay!


    Nàng Tiên Việt đã hoàn toàn quên mình vì giặc! 

    Giờ đây, trên người của nàng chỉ còn chiếc áo lông ngỗng, hình ảnh cuối cùng của chim Lạc, của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm rứt bỏ để làm dấu dẫn đường cho giặc! 


    Lông đã nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng không còn, nên Mỵ Châu phải gục chết.


    Lâu nay, tuy tâm hồn đã đổi thay, nhưng nàng vẫn còn giữ và khoác chiếc áo Tiên. Giờ đây nàng lộ nguyên hình là giặc.


    Mỵ Châu là Tiên, là biểu tượng cho tinh thần, cho ý thức văn hóa trong việc Giữ Nước. Nay đã mất Tiên, mất Học Thuyết Tiên Rồng, mất theo nàng, mất theo An Dương Vương, là cả một đất nước và cả một dân tộc.


    Thật là Ngày 30 Tháng Tư Đen chua chát và đắng cay cho chúng ta khi phải vào nằm tù cải tạo, và bị phe chiến thắng hành hạ đánh đập các quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa!


    4. Diễn Tiến Mất Hồn Nước


    Thế là An Dương Vương và Mỵ Châu đã làm cho Nước mất Nhà tan. Đó cũng chỉ vì “chàng rồng” An Dương Vương từ bỏ truyền thống, xa lìa hiện trạng dân nước đi cậy nhờ và lệ thuộc người ngoài. Và “nàng tiên” Mỵ Châu lại chấp nhận việc kết thân với giặc, rồi làm theo ý giặc, quên mình vì giặc, và chết cho giặc.


    An Dương Vương và Mỵ Châu đã để Hồn Nước dần dần tiêu hao với những quyến rũ hào nhoáng của những lợi ích hời hợt bên ngoài. Khi nền tảng dân tộc bị phai lạt nơi bất cứ dạng thức nào của đời sống dân nước, thì tại phần đó, từ phần đó nước bắt đầu mất.


    Dưới khía cạnh Con Người, đây cũng là diễn tiến Con Người đánh mất chính tâm hồn mình. Điều đáng sợ là diễn tiến đó rất tuần tự, nên nhiều khi mình đã đánh mất chính mình, đã trở thành giặc, đã làm hại mình, mà mình cũng không hay không ngờ!


     - Hồn Mất Trước, Nước Mất Sau!


    5. Bài Học Dân Nước


    Việc bỏ mất Hồn Nước luôn luôn kéo theo việc bỏ dân, làm mất dân. Khi giới quyền chức đã tin tưởng và ỷ lại vào ngoại nhân, thì người dân trong nước bị khinh khi rẻ rung, bị coi là phương tiện để phục vụ quyền lợi riêng tư của nhóm người đặc quyền thống trị hay nhóm lợi ích.


    Sự kiện An Dương Vương quyết định xây thành đã tố cáo việc ông bỏ quên trách nhiệm chăm sóc đời sống cho toàn thể mọi người dân trong nước. Trước đây, mọi người đều là con dân, đều được ông chăm sóc, nhưng từ nay, với quyết định xây thành của ông, những kẻ ở ngoài thành sẽ bị phó mặc cho đau thương, cho hoạn nạn, cho bất trắc, cho tiêu diệt.


    Thế mà thành lại hư sập nhiều lần, và gánh nặng lại đổ xuống trên người dân. Toàn Dân phải chịu sưu cao thuế nặng, mưa nắng dãi dầu, gia đình ly tán, vợ con nheo nhóc khi phải sống cảnh chồng đi làm phu phục dịch đào hào đắp lũy.


    Đã hết lo cho dân, An Dương Vương lại hành hạ dân, bắt dân phục vụ ông.


    Khi xây xong thành, An Dương Vương đã thực sự sống xa cách dân. Trước kia, trong suốt mấy ngàn năm các vua dân Việt đã không hề xây thành mà luôn sống với dân, bên dân và cùng dân chia sẻ cuộc sống chung.


    Nhưng nay, An Dương Vương rút mình vào trong vỏ ốc. Đối với ông, toàn dân bây giờ chỉ còn có nghĩa là nhóm người đang lo đóng thuế và phục dịch ông ở trong thành lũy này.


    Được thêm vào vòng thành trôn ốc với chiếc nỏ thần hiếm quý của Thần Kim Qui càng làm cho An Dương Vương vững tâm và xa dân hơn. Đã hết gần dân, giờ đây ông lại không cần dân.


    Một phát nỏ thần bắn ra có thể giết hàng vạn quân giặc, nên sự góp sức của dân không cần thiết nữa. Trong việc giữ nước, người dân đã trở thành vô dụng, thành thừa thãi, thành ngoại cuộc.


    Chẳng những vậy, từ nay, ngoài đám dân phục dịch trong thành, còn toàn thể dân tộc trong nước đều ở trong tầm sát hại của nỏ thần. An Dương Vương coi dân như giặc, và ông đã trở thành giặc, đã bán nước cho Triệu Đà.


    6. Biến Mình Thành Giặc


    Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc. Với việc thông gia giữa hai dòng vua, An Dương Vương đã tạo ra giai cấp đặc quyền.


    Ông muốn từ nay gia đình ông phải là dòng họ cao trọng và giầu sang đặc biệt, không còn liên hệ với dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống văn hóa đặt nền tảng trên bài học Chử Đồng: “Nàng tiên Công Chúa Tiên Dung lấy chàng rồng Chử Đồng nghèo khổ không khố, không mặc quần đùi.”


    Thế là An Dương Vương đã rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành, và bỏ quên những người ở trong thành.


    Giờ đây ông chỉ còn biết có gia đình ông. Quanh ông chỉ còn có hai người: một là Mỵ Châu, hai là tên giặc nằm vùng Trọng Thủy.


    An Dương Vương chỉ còn Mỵ Châu là con, là dân, người dân cuối cùng. Vì vậy, ông giao cho Mỵ Châu trách nhiệm gìn giữ chiếc nỏ thần, báu vật bạo lực thần thánh của ông. Ông tập trung quyền lực vào gia đình, vào những người thân cận ông.


    Với việc tập trung quyền lực, từ nay người dân bị tham nhũng, bị bóc lột, và trở thành dân oan hoặc thành miếng mồi ngon cho tham vọng không đáy của nhóm quan chức. Ai làm chủ nỏ thần, làm cò đất, và ai nắm giữ quyền lực thì người đó có toàn quyền sinh sát và cướp đoạt tài sản nhân dân.


    Vì vậy, Trọng Thủy đã dùng thủ đoạn, đoạt cái lãy nỏ khỏi tay Mỵ Châu một cách dễ dàng. Sau đó nhóm đặc quyền tranh nhau xương máu của dân, va người dân trở thành mối lợi, món hàng, của bọn quan chức chỉ còn biết tư lợi và quyền lực.


    Kết qủa của tranh chấp quyền lực là tai họa giáng xuống trên người dân. Ách thống trị theo chân Trọng Thủy và Triệu Đà trùm phủ lên toàn thể dân nước.


    Bài Học Dân Nước thực thấm thía. Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, hành hạ dân, xa lánh dân, coi dân như thù địch, để chỉ dựa vào thành lũy, vào nỏ thần, vào nhóm đặc quyền, vào bạo lực, thì rồi, việc giữ nước chỉ còn là những thủ đoạn tranh quyền đoạt lợi.


    Người dân trở thành mục tiêu cho bóc lột, cho bạo hành. Và Giữ Nước trở thành Cướp Nước.


    Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân. Dân không giữ nước thì giặc giữ!


    Không cho dân giữ nước thì chính quyền đó chỉ là kẻ cướp nước.


    7. Bài Học Sức Nước


    Dưới khía cạnh Sức Nước, khi An Dương Vương từ bỏ truyền thống và xa lìa cuộc sống người dân, để quyết định xây thành, chính là lúc ông làm băng họai sức mạnh xã hội của nước. Việc xây thành làm hao tổn của cải, tài năng và nhân lực trong nước.


    Vậy mà thành còn bị hư xụp đổ nhiều lần, nên sức mạnh kinh tế lại càng suy sụp thêm, nghèo đói thêm. Khi sống trong thành, xa dân, không còn biết đến đời sống người dân, An Dương Vương bỏ mất sức mạnh chính trị: Tổ Chức & Lãnh Đạo. 


    Khi được nỏ thần, khi không còn vận dụng sức dân, khi làm cho dân thấy mình trở thành người ngoại cuộc thừa thãi, chính là lúc An Dương Vương đánh mất sức mạnh tinh thần trong công cuộc Giữ Nước. Làm mất dân, An Dương Vương đã bỏ mất những sức mạnh nền tảng của việc Giữ Nước. 


    Nhưng ông cũng chưa thấy nguy cơ vì ông đặt trọn niềm tin vào Loa Thành và Nỏ Thần, Loa Thành bảo đảm thế thủ an toàn, và Nỏ Thần đang làm mọi người khiếp sợ. Loa Thành và Nỏ Thần là biểu trưng của sức mạnh quân sự, khả năng giữ nước cuối cùng của An Dương Vương.


    Nhưng rồi ông thua kém trên mặt trận ngoại giao, khi bị rơi vào thủ đoạn của giặc. Sau khi hao tốn biết bao công qũy để xây thành ngăn giặc, ông lại long trọng rước giặc vào tận thâm cung.


    Chính ông đã loại bỏ công dụng sức mạnh phòng thủ của ông.


    Thành đã bị phá lũng, An Dương Vương chỉ còn chiếc Nỏ Thần. Nhưng ông lại bị thua ở mặt trận gián điệp.


    Trọng Thủy đã biến vợ mình là Mỵ Châu thành nội tuyến, và nàng đã tiết lộ bí mật quốc phòng. Khi để Trọng Thủy đánh tráo lãy nỏ, trao vũ khí giữ nước cuối cùng vào tay giặc, An Dương Vương đã để mất luôn sức mạnh kỹ thuật.


    Không Sức Mạnh Lấy Gì Giữ Nước?


    8. Bài Học Đất Nước


    Công cuộc giữ nước bộc lộ rõ ràng nhất trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thế mà An Dương Vương dám bỏ mất dần.


    Trước kia, chưa xây Loa thành, An Dương Vương đã để tâm chăm sóc toàn thể đất nước. Nhưng khi xây thành, ông chỉ còn giữ lại mảnh đất trong thành.


    Đối với ông, đất nước ta không còn trải rộng ra khắp bờ cõi, mà thu hẹp lại trong hào lũy. Ông chểnh mảng trong việc giữ nước, để chỉ chú tâm tới cái làng mà ông đang ở để mà sống hưởng thụ.


    Thế nhưng, khi lo cưới chồng cho Mỵ Châu, rước tên giặc Trọng Thủy vào nội cung, An Dương Vương lại vì tình nhà mà hủy bỏ sự phòng thủ của thành. Ông chỉ còn thấy có cái nhà của ông.


    Và rồi, khi để Mỵ Châu trao nỏ thần vào tay giặc, ông đã không giữ nổi mấy chục thước đất cuối cùng. An Dương Vương đã thực sự không còn đất sống.


    9. Ảo Tưởng Giữ Nước


    Thế là hết, An Dương Vương đã để mất Hồn Nước, để mất Dân Nước, để mất Sức Nước, và cũng đã mất Đất Nước. Tuy nhiên, ông vẫn không ngờ, ông vẫn tưởng rằng ông đang giữ nước.


    Thực vậy dầu Hồn Nước có mất, cũng chỉ có nghĩa là ông đã thực hiện quan niệm của riêng ông. Cho dù người Dân đã bị loại ra khỏi việc giữ nước, nhưng nhờ đó ông lại càng dễ thống trị hơn.


    Cho dù Trọng Thủy là con giặc, nhưng đã trở thành con ông. Cho dù Mỵ Châu nằm trong tay giặc, nhưng nàng vẫn còn mặc áo lông ngỗng.


    Cho dù giặc có tung hoành ở thâm cung, nhưng vòng thành bên ngoài vẫn kiên cố vô song. Và cho dù lẫy thần đã bị tráo, chiếc nỏ vẫn còn nguyên hình dạng cũ.


    Tất cả đều cho An Dương Vương ảo tưởng là đất nước vẫn an toàn, là ông đang hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách tuyệt hảo. Nhưng qủa thực, sở dĩ đất nước còn, và ông vẫn còn như đang giữ nước, không phải là vì ông phòng thủ hữu hiệu, mà vì giặc chưa xua quân tiến chiếm.


    Vì vậy, khi Triệu Đà xua quân tới, An Dương Vương chỉ còn cách lên ngựa chạy trốn. Ông không còn gì.


    Tất cả đã bị giặc chiếm. Cả đứa con ngồi sau lưng cũng đã thuộc về giặc, cũng đã là giặc.


    Ôi dân tộc đồng bào! Ôi giang sơn gấm vóc!


    Tuy rằng Chính Thuyết Tiên Rồng đang liệt kê nhiều nhân vật góp phần làm mất nước, nhưng mọi nhân vật đều có thể quy về một mình An Dương Vương. Chính An Dương Vương đã lìa bỏ truyền thống dân tộc mà quyết định xây thành.


    Chính ông đã nhờ thần Kim Quy, đã xin nỏ thần. Chính ông đã hành hạ dân, đã từ khước dân.

    Ông cũng đã đón rước Trọng Thủy, đã đặt nỏ thần trong tay Trọng Thủy. Chính ông đã dành cho Triệu Đà mọi điều kiện để đặt ách nô lệ lên toàn dân.


    Trong diễn tiến đó, chúng ta có thể thấy tất cả đều chỉ là những giai đoạn của con người An Dương Vương.


    Từ chỗ là một người chăm lo cho cuộc sống an thịnh của dân nước, như Tiết Liêu, ông đã để tham vọng cho ông ảo tưởng ông là thần thánh. Qua việc ông cấu kết với thần Kim Quy, qua việc xây xong thành và làm chủ chiếc nỏ thần, ông muốn toàn dân suy phục ông như một vị thần.


    Ông đã bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của người làm việc nước, là phải xác tín Thân Phận Là Người của mình.


    Từ chỗ coi mình là thần thánh, An Dương Vương khinh rẻ người dân, không còn nhớ tới điều kiện thứ hai của người làm việc nước, là mình đang Mang Nặng Trách Nhiệm. Ông dùng thành lũy để bảo vệ ông, và dùng nỏ thần để uy hiếp mọi người. Ông quyết tâm hưởng thụ, và bắt toàn dân phục vụ ông.


    Thay vì cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, An Dương Vương chỉ còn chuyên dùng bạo lực của thành Ốc và nỏ thần. Từ đó, ông tạo ra giai cấp đặc quyền.


    Ông chọn một hoàng tử để làm phò mã, dầu đó là con của giặc. Ông còn tập trung quyền lực vào gia đình của riêng ông, và ông giao trọn việc giữ nước, giờ đây chỉ còn cái nỏ thần, vào tay đứa con gái ngờ nghệch của ông.


    Từ đây, đối với ông, dân chỉ là một lũ nô lệ phải luôn luôn cúi đầu khuất phục. Thế là, đối với nước, đối với dân, ông không còn là người giữ nước, mà đã trở thành tên giặc cướp nước.


    Ông trở thành Triệu Đà. Như vậy, làm vua, làm việc nước, nhiều khi còn có nghĩa là giặc nước.


    Người giữ nước tuyệt hảo là người cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống. Mọi người đều chung phần trách nhiệm giữ nước, tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.


    Nếp sống này đã được thể hiện trong nhiều giai đoạn của lịch sử Việt, và được kết tinh trong những truyền tích Tiết Liêu, Chữ Đồng, An Tiêm, và Vọng Phu. Là thời suy thoái khi An Dương Vương xây thành và đặt dân dưới sự kìm tỏa của nỏ thần.


    Đó là chế độ, dầu dưới bất cứ danh xưng cao quý nào, mà xây dựng trên võ lực, trên lý của kẻ mạnh, trên mạnh được yếu thua.


    Khi An Dương Vương tiếp nhận hoàng tử ngoại bang và trao nỏ thần cho con gái, chính là lúc thành lập chế độ gồm giai cấp đặc quyền, nắm giữ mọi quyền hành, và hưởng thụ trên xương máu người dân. An Dương Vương thành Triệu Đà là hình thức lộ liễu nhất của thống trị, chuyên chế, đế quốc, thực dân, đảng trị, thủ đoạn, mị dân.


    10. Yếu Tố Giữ Nước


    Muốn giữ Nước thì phải giữ Hồn Nước, giữ Dân Nước, giữ Sức Nước, và giữ Đất Nước. Hồn nước được giữ bằng việc sống thực và phát huy truyền thống cao quý của dân tộc.


    Dân Nước có được là nhờ chăm sóc đời sống người dân và để dân chia sẽ trách nhiệm giữ nước. Sức Nước mạnh được là nhờ các cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, và tổ chức quân sự thích đáng và hữu hiệu.


    Đất nước chỉ còn, khi thực sự được các yếu tố trên bảo vệ một cách trọn vẹn. Có được cả bốn, giữ được cả bốn, thì quê hương thanh bình thịnh vượng, đồng bào hạnh phúc yên vui.


    Nếu mất Đất, vì quân xâm lăng tràn ngập, nhưng vẫn còn Hồn, còn Dân, còn Sức, thì ngày quật khởi ở trong tầm tay.


    Nếu mất Đất, mất Sức, mà còn Dân, còn Hồn, thì lo gì không có ngày vùng dậy.


    Nếu mất Đất, Sức tan và Dân bị phân tán, mà còn Hồn Nước, thì tuy cần thời gian, vẫn còn cơ hội có lại Dân, có lại Sức và có lại Đất.


    Nếu mất Hồn Nước, dầu còn Đất, còn Sức, còn Dân, thì cũng đã khô cạn sức sống, cái xác không hồn, ma giặc sắp ám.


    Nếu mất Hồn, mất Dân, thì Sức và Đất trở thành những khí cụ đầy bất trắc, cực kỳ nguy hiểm. Nếu mất Hồn, mất Dân, mất cả Sức, thì giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên đang là miếng mồi ngon nằm bên miệng giặc.


    Và nếu giặc đã ra tay, như thảm trạng quê hương đồng bào ta hiện nay, thì Tổ Tiên linh hiển hướng dẫn chúng ta tiến sang bài học cứu nước của truyền tích Phù Đổng trong Chính Thuyết Tiên Rồng siêu việt.


    Việt Bào Phạm Văn Bản 


    Không có nhận xét nào