Dương Quốc Chính - Liệu người đồng bào có tâm tư ?
16/3/2025
Nhập tỉnh nghe cải lương ông Cò quận 9
Tâm Chánh
Phương án nhập tỉnh vừa rồi, nếu là thật, thì mình thấy người đồng bào sẽ tâm tư nhất luôn. Không hiểu sao lại có phương án nhập đó?
Bởi vì các tỉnh Tây Nguyên hiện tại bây giờ không phải nhập với nhau, mà lại nhập với các tỉnh ven biển, có nguồn gốc dân tộc, lịch sử không như nhau. Nhập kiểu đó có cái hay về mặt kinh tế, là có biển, nhưng cái dở là văn hóa, dân tộc, lịch sử bất tương đồng.
Về lịch sử, các tỉnh Tây Nguyên trước khi về với Đông Dương và Trung Kỳ, rồi Việt Nam là hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá. Vùng đất này vốn độc lập với Chămpa, cũng như Đàng Trong, Đại Nam. Đến khi người Pháp lập Đông Dương thì mới nhập hai nước này về Trung Kỳ rồi sau đó thuộc về Việt Nam. Đây là vùng đất cuối cùng về với Việt Nam. Nên văn hóa bản địa cũng đậm nét nhất.
Mình đã thấy có một phương án nhập tỉnh chỉ còn hai tỉnh Tây Nguyên, gần như khớp với hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá (thuộc quốc của Đại Nam trước đó), thì rất khớp về lịch sử, dân tộc. Nhưng biết đâu, bên công an lại tâm tư, sợ đồng bào... Như vụ mấy năm trước.
Thế nhưng phương án này lại nhập mấy tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh ven biển, gốc vốn là đất Chămpa (là nước khác, chưa bao giờ chung quốc gia với Thủy Xá, Hỏa Xá). Tất nhiên dấu tích người Chăm bây giờ không còn đậm nét ở những tỉnh này nữa và dân số không còn bao nhiêu, thay vào đó là người Kinh. Kiểu này là pha loãng người đồng bào ở Tây Nguyên ra.
Chúng ta thấy rằng, có lẽ chỉ còn ở Tây Nguyên, là văn hóa bản địa còn đậm nét nhất và đặc trưng nhất, dù người Kinh di cư đã pha loãng đi nhiều. Người Tây Nguyên về mặt nhân chủng, là rất khác người Kinh và các chủng đông dân khác ở Việt Nam. Họ gần với gốc Nam Dương (Indonesia, Malaysia hơn).
Nhưng việc nhập tỉnh kiểu này là chưa từng có trong lịch sử, kể cả chế độ cũ. Ở Tây Nguyên có lẽ chỉ có Lâm Đồng là nhạt màu nhất, do có Đà Lạt. Nhưng về lịch sử, Đà Lạt lại không hề là vùng đất đông đồng bào thiểu số từ trước mà vốn hoang vu, do người Pháp tìm ra và đưa người Pháp và người Kinh đến ở. Nên nếu Lâm Đồng nhập với tỉnh khác còn chấp nhận được.
Thời Quốc gia Việt Nam, Tây Nguyên còn tách riêng thành Hoàng triều cương thổ cơ.
Vừa rồi nghe đồn Quảng Bình không muốn về Hà Tĩnh, dù trước đó có phương án nhập lại. Quả thực là nếu nhập lại thì rất kỳ cục, do văn hóa, lịch sử không hề tương đồng, do có đèo Ngang chia đôi.
Quảng Bình là vùng đất mới, trước thuộc Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành, cực Bắc của nước này. Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh thì đây cũng là biên ải của Đàng Trong. Còn Hà Tĩnh vốn là cực nam của Đại Việt, Đàng Ngoài. Sông Gianh ở đây chia cắt hai đàng nên mấy trăm năm phân tranh coi như hai nước. Thế mà lại có ý tưởng nhập tỉnh thì quá là máy móc! Cũng may là vừa rồi đã lại tách ra, Quảng Bình về với Quảng Trị.
Việc nhập tỉnh này không hề đơn giản đâu. Những người có trách nhiệm bắt buộc phải cân nhắc các yếu tố văn hóa, dân tộc, lịch sử, kinh tế, mới ra được phương án phù hợp. Việc này gây xáo trộn rất nhiều, không phải một, hai năm lại đảo lại như căn cước công dân được.
Mình cho rằng, phương án nhập các tỉnh Tây Nguyên này có lẽ cần xem xét lại trong kỳ họp Quốc hội tới.
Ngoài ra, nhập Long An với Tây Ninh cũng lấn cấn, do miền Đông với miền Tây văn hóa hơi khác. Vĩnh Phúc với Phú Thọ OK, nhưng thêm ông Hòa Bình là hơi có vấn đề về dân tộc.
DƯƠNG QUỐC CHÍNH 16.03.2025
https://thuymyrfi.blogspot.com/2025/03/duong-quoc-chinh-lieu-nguoi-ong-bao-co.html#more
Nhập tỉnh nghe cải lương ông Cò quận 9
Tâm Chánh
17/3/2025
Phân chia địa giới hành chính tiên quyết phải chú ý đến không gian cư trú của người dân. Không gian ấy tượng hình từ tập tính sinh hoạt đã trải qua thử thách chọn lọc nhiều đời. Cái đã tồn tại là cái có lý, muốn thay đổi phải hiểu biết cặn kẽ cái lý ấy.
Tỷ như ở Nam Bộ, cũng khởi nguyên là đời sống di cư gắn với sinh hoạt giao thương của người Hoa thì Cù Lao Phố không trở thành trung tâm đô thị tầm cỡ như Chợ Lớn?
Những cư dân bản địa như người Mạ, người Stieng, người Mnong… vì sao trong quá trình phát triển ở xứ Gia Định Đồng Nai cứ lùi dần về phía bìa rừng, đồi núi mà làm rẫy, định cư?
Hay người Khmer vì sao thường tổ chức không gian cư trú trên các vùng địa hình cao hoặc thích nghi với vùng ngập nước bằng nhà sàn, gắn bó chặt chẽ với sông nước, ở gần ruộng đồng và chùa chiền, phum sóc có lối tổ chức nhìn vào là thấy khác thôn xóm người Việt?
Trước năm 1945, chính sách tổ chức làng xóm của người Khmer ở Nam Kỳ là sự kết hợp giữa truyền thống tự quản của người Khmer và sự kiểm soát hành chính từ triều Nguyễn, sau đó là thực dân Pháp. Dù chịu nhiều tác động từ bên ngoài, cộng đồng Khmer vẫn duy trì được bản sắc văn hóa và cấu trúc xã hội đặc thù, với chùa là trung tâm gắn kết quan trọng.
Pháp thì áp dụng chính sách “chia để trị”, khuyến khích sự khác biệt giữa người Khmer và người Việt nhằm ngăn chặn sự đoàn kết chống lại chính quyền thuộc địa. Điều này dẫn đến việc các sóc Khmer thường tách biệt về mặt địa lý và xã hội với các làng người Việt, dù trong thực tế hai cộng đồng vẫn có sự giao thoa qua hôn nhân và trao đổi kinh tế.
So với thời kỳ thực dân Pháp, VNCH ít tận dụng cấu trúc truyền thống của người Khmer mà thay vào đó áp đặt mô hình quản lý tập trung kiểu Việt Nam. Chính quyền VNCH cũng đã từng thất bại trong việc tổ chức các khu trù mật hay ấp chiến lược dồn chung cho cả người Việt, người Khmer.
So với thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, chính sách sau 1975 chú trọng hơn đến bình đẳng và hỗ trợ, nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao về sự hòa nhập vào xã hội chung. Mô hình nhập tỉnh có đông cộng đồng người Khmer là Trà Vinh với tỉnh Vĩnh Long là một địa bàn nông thôn được thiết kế chủ yếu theo mô hình làng xóm của người Việt cuối cùng đã không hể duy trì trong tỉnh chung Cửu Long từng được vận hành trong thời trước đổi mới.
Rồi miệt vườn, miệt đồng của cư dân người Việt đều được tổ chức làng xóm, không gian cư trú, sản xuất khác biệt. Không phải tự nhiên mà miệt vườn vốn định hình trước ở vùng ven sông Tiền, vùng ven sông Hậu lại quen thuộc với hình ảnh ruộng đồng thẳng cánh cò bay.
Trong thời kỳ chiến tranh, việc phân chia địa bàn chiến khu dường như cũng phản ánh một kinh nghiệm sâu sắc về việc đeo bám không gian cư trú phù hợp. Ngay từ đầu kháng chiến chống Pháp, Vĩnh Long, Trà Vinh thuộc chiến khu 8 nhưng chỉ từ 1946 hai tỉnh này đã phải được điều chỉnh sang chiến khu 9 có địa bàn chủ yếu là phía nam sông Hậu.
Hay Bến Tre tồn tại hẳn một hệ sinh thái vườn dừa thuộc văn minh miệt vườn, trong thực tế luôn gắn với “chuỗi phân phối” sản phẩm dừa và trái cây với Tiền Giang, chứ không phải Vĩnh Long. Giờ nhập chung với Vĩnh Long, Trà Vinh mà đem kinh nghiệm nông thôn Bến Tre đã không còn vết tích Khmer nào (dù biết bao địa danh từ Bến Tre, Mỏ Cày, Sóc Sãi, Cái Mơn… đều là âm đọc từ tiếng Khmer), thì có khi các cộng đồng cư trú ở Trà Vinh lại một phen khốn khó.
Thôi sẵn đây thì kể chuyện Tiền Giang xa cách với Vĩnh Long.
Đó là tấn bi kịch tao loạn mà tuồng cải lương Ông Cò quận 9, đình đám hồi trước 1975, khiến dân tình say như điếu đổ, dù chỉ nghe thâu thanh.
Thời gian dạy học ở trường làng Tân-Ngãi, Long-Hồ, Vĩnh-Long, ông giáo Hương vốn quê Mỹ Tho, đã có vợ nhưng đã đem lòng yêu thương cô giáo Lan đồng nghiệp. Mối tình nồng nàn đã sinh ra hai người con một trai, một gái, lấy tên hai địa danh ở Vĩnh Long mà hai người gắn bó, con gái Trường An và con trai Long Hồ. Chiến cuộc tràn lan, ông giáo Hương về Mỹ Tho thăm gia đình mà đâu biết đó là lần cách biệt tới 20 năm. Rồi ông lên Sài Gòn làm cò (cảnh sát). Trong một phi vụ quận cảnh sát của ông bắt được một gian phạm là một cô thư ký văn phòng. Khi lấy khẩu cung ông nhận ra đó là Trường An đứa con gái của mình và cô giáo Lan. Ông tìm thăm lại người xưa giờ ở một xóm lao động nghèo. Long Hồ, em trai của Trường An, cũng bùi ngùi như mẹ khi gặp được cha mình, nhưng đã ngỏ lời xin cha đừng lui tới viếng thăm gia đình mình nữa.
Trời, nghe Út Trà Ôn vai ông Cò quận 9 vô câu vọng cổ mà xé lòng:
“Tôi đứng đây mà ngỡ như đang đứng bên bờ sông Mỹ-Thuận
Khi mình quay xuồng tách bến để trở lại với hai con
Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn
Con nước lớn lục bình trôi rời rạc.
Chiều đã xuống mặt trường giang còn bát ngát mà bóng người thương còn lẩn khuất giữa sông đầy”.
Long Hồ cách Mỹ Tho chỉ vài chục cây số mà vời vợi cả đời. Phải đâu chỉ vì chiến loạn. Mà lầm lạc của lòng người…
https://baotiengdan.com/2025/03/17/nhap-tinh-nghe-cai-luong-ong-co-quan-9/
Thêm:
Không có nhận xét nào