Hà Văn Ngạc
KẾT QUẢ CỦA TRẬN HẢI CHIẾN
Hoàng Sa Vị Quốc Vong Thân
Một cách tổng quát thì sự thiệt hại của hai đối thủ được kể như tương đương trong trận hải chiến. Mỗi bên bị tổn thất một chiến hạm, như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ tống hạm HQ10, phía Trung cộng là chiếc Kronstad 271 (được coi là chiến hạm chỉ huy) còn một số khác thì chịu một sự hư hại trung bình hoặc trên trung bình. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang theo tôi ước lượng chỉ hư hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hỏa lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn thất nhiều nhân viên hơn vì trúng nhiều hải pháo của Tuần dương hạm HQ5 vào thương tầng kiến trúc, trong khi đó chiếc 274 thì tổn thất được coi là nhẹ hơn cả vì chỉ bị tấn công nhiều bằng đại liên và ít hải pháo về sau này. Tuy nhiên trong các trận hải chiến thì người ta thường kể về số chiến hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là số thương vong về nhân mạng. Riêng trên Hộ tống hạm HQ10, theo các nhân viên đã đào thoát về được đất liền, thì vị Hạm trưởng và Hạm phó đều bị thương nặng, nhưng Hạm trưởng đã từ chối di tản và quyết ở lại tuẫn tiết cùng chiến hạm của mình theo truyền thống của một sĩ quan Hải quân và một nhà hàng hải. Hạm phó được nhân viên dìu đào thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt biển vì vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc tiên sinh, thì khi Hải quân Pháp hành quân trên sông (nếu không lầm thì là Sông Đáy) một chiến hạm loại trợ chiến hạm (LSSL) hay Giang pháo hạm (LSIL) đã bị trúng đạn đài chỉ huy, làm tử thương cả hai hạm trưởng và hạm phó cùng một lúc, sĩ quan cơ khí đã phải lên thay thế tiếp tục chỉ huy. Sau kinh nghiệm này, Hải quân Pháp không cho hạm trưởng và hạm phó có mặt cùng một nơi khi lâm trận. Cá nhân tôi lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh nghiệm mà các bậc tiên sinh đã truyền lại tôi mà áp dụng.
Một điều lạ là Trung cộng có đủ khả năng tuy khiêm nhượng, vào lúc cuối trận chiến, vì có thêm tăng viện đến kịp thời, nhưng đã bỏ rơi cơ-hội truy kích khi lực lượng ta triệt thoái, hay xử dụng hỏa tiễn hải hải vì lực lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu hiệu của loại vũ khí này. Tôi cho rằng có thể họ đã bận tâm vào việc cứu vãn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang Hòa, hoặc họ đã không nhận được lệnh tấn công, và chỉ đương nhiên chống trả tự vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước tính của tôi về phản ứng của địch đã cao hơn như thực tế đã xẩy ra. Việc HQVN khai hỏa tấn công sau khi thất bại đổ bộ đã tạo cho Trung cộng có nguyên cớ vì bị tấn công mà phải hành động, nên đã dùng cường lực cưỡng chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân nhân trú phòng trên đảo Hoàng Sa thì sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng 1, Trung cộng đã huy động một lưc-lượng hùng-hậu kết hợp Hải-Lục-Không-quân đổ bộ tấn chiếm đảo Hoàng Sa và các đảo kế cận mà các chiến binh Hải quân đang chiếm giữ. Theo ký giả Lê Vinh, một cựu sĩ quan Hải quân, đã từng đảm trách chức vụ thư ký của ủy ban nghiên cứu trận hải chiến cho biết, thì vào thời gian trận hải chiến, Hải quân Hoa Kỳ đã chuyển cho HQVN một tin tức về 42 chiến hạm Trung cộng với 2 tiềm thủy đĩnh đang tiến xuống Hoàng Sa. Dù nhiều hay ít thì lực lượng của họ sẽ trội hẳn lực lượng HQVN có thể điều động tới. Nếu hai chiến hạm còn lại của Hải đoàn đặc nhiệm phải lưu lại Hoàng Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả năng chiến đấu đã bị giảm sút nhiều thì sự bảo tồn của hai chiến hạm này rất mong manh. Thế cho nên phản lệnh cho hai chiến hạm phải trở về căn cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực tế hơn.
Trung cộng đã bắt giữ tất cả quân nhân và dân chính Việt Nam trên đảo Hoàng Sa và toán Hải quân đổ bộ thuộc Khu trục hạm HQ4 trên đảo Vĩnh Lạc (sát phía nam đảo Hoàng Sa) mà trưởng toán là HQ trung úy Lê Văn Dũng (sau được vinh-thăng HQ đại úy tại mặt trận), làm tù binh đưa về giam giữ đầu tiên tại đảo Hải Nam. Riêng ông Kosh là nhân viên của cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng thì được trao trả cho Hoa Kỳ sớm nhất tại Hồng Kông. Còn các nhân viên Việt đã bị họ nhồi sọ về chủ nghĩa của họ trong suốt thời gian tại Quảng Đông, và trao trả về Việt Nam tại ranh giới Hồng Kông và Trung cộng. Đô đốc Tư lệnh phó HQ đã được đề cử đích thân đến HồngKông tiếp nhận. Các chiến sĩ từ Trung cộng hồi hương đều được đưa vào Tổng Y viện Cộng Hòa điều trị về các bệnh trạng gây ra do các hành động ngược đãi trong khi bị giam cầm trên lục địa Trung Hoa.
Thế là cuối cùng thì VNCH đã mất nốt nhóm đảo Nguyệt Thiềm phía nam của cả quần đảo Hoàng Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến sĩ Hải quân đào thoát từ Hoàng Sa, sau nhiều ngày trôi dạt trên mặt biển, một số đã được chính các tuần duyên đĩnh của Hải quân cứu vớt, một số đã được các thương thuyền trên hải trình Singapore Hồng Kông bắt gặp. Tất cả các chiến sĩ thoát hiểm được đưa về điều trị tại các Tổng Y viện Duy Tân (Đà Nẵng) hay Cộng Hòa, và còn được Thủ tướng Chính phủ, các vị Tư lệnh Quân đoàn, và các vị Đô đốc Hải quân đến thăm hỏi và ủy lạo.
CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ TÁI CHIẾM HOÀNG SA
Khi phần thăm viếng của thượng cấp kết thúc, thì tất cả các chiến hạm bắt tay ngay vào việc sửa chữa và tái tiếp tế đạn dược đề chuẩn bị tấn kích tái chiếm Hoàng Sa. Một toán thợ thượng thặng của Hải quân công xưởng cũng đã được điều động từ Sài Gòn ra để phụ lực với chuyên viên của Thủy xưởng Đà Nẵng. Riêng Tuần dương hạm HQ16, tuy không bị hư hại nhiều trên thượng tầng kiến trúc, nhưng các chuyên viên đã tháo gỡ được đần viên đạn đã xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên phá và không nổ 127 ly của Tuần dương hạm HQ5 bị lạc. Kinh nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn đạo sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư lệnh phó Hải quân mang đến cho tôi. Đó là một điều không may mắn cho Hải đoàn đặc nhiệm Hoàng Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, sự nhầm lẫn về mục tiêu, về bạn và địch, về vị trí tác xạ đều đã xẩy ra ít nhất là tại chiến trường Việt Nam. Hơn nữa trong cuộc hải chiến này, Tuần dương hạm HQ5 đã tác xạ cả trăm đại pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn còn là điều may mắn. Việc chiến hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu hải pháo 76 ly tự động trên Khu trục hạm HQ4 đã bị trở ngại kỹ thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược điểm chiến thuật mà Hải quân VNCH chỉ muốn phổ biến hạn chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân tích đáng tin cho rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã lợi dụng biến cố Hoàng Sa để tránh né sự chỉ trích của các phần tử đối lập lúc đó đang rất mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, thì Tuần dương hạm HQ16 chỉ đủ khả năng tự hải hành về quân cảng Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể. Khu trục hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tự động. Tuần dương hạm HQ5, sau khi tái tiếp tế đạn và hàn vá các hư hại đã cùng HQ6 ra khơi tìm kiếm các nhân viên đào thoát khỏi vùng Hoàng Sa. Các phi cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên hải hạn chế để tránh sự hiểu nhầm về hành động khiêu khích của Việt Nam đối với Trung cộng. Các phi cơ hướng dẫn các chiến hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp cứu được nhân viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự trữ. Tôi vẫn có mặt trên Tuần dương hạm HQ5 để tham dự cuộc tìm kiếm. Riêng hộ tống hạm HQ10, vì mất liên lạc nên tôi đã không biết được tình trạng cuối cùng của chiến hạm, nhưng chúng tôi vẫn còn một hy vọng tuy mong manh là chiến hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên hải miền Trung trong mùa gió đông bắc.
Với Tuần dương hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn tất hộ tống Tuần dương hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng Sa Đà nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ trung tá Trần Đình Trụ) điều động từ Trường Sa tới tăng cường đã kết hợp với Tuần dương hạm HQ5 thành một Hải đoàn đặc nhiệm mới với nhiệm vụ chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Mặc dầu nhiều sĩ quan thâm niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ định tiếp tục chỉ huy. Một cuộc thao dượt chiến thuật và thực tập tác xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù lao Chàm phía đông nam Đà Nẵng. Sau cuộc thao dượt, tôi trình bầy kết quả việc huấn luyện trong các buổi thuyết trình hành quân tại BTL Hải quân vùng, vẫn được Tư lệnh phó Hải quân chủ tọa.
Nhưng cuối cùng thì công cuộc tái chiếm Hoàng Sa được hủy bỏ. Tuy vẫn được tín nhiệm để chỉ huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn. Với các Tuần dương hạm cũ kỹ (WHEC) xử dụng trong lực lượng phòng vệ duyên hải Hoa Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang bị vào công tác tuần tiễu hơn là để chiến đấu, vừa chạm chạp và vận chuyển nặng nề, nên khó chống trả lại với các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn. Loại này chỉ có một hải pháo 127 ly, còn 2 hải pháo 40 ly đã được HQVN đặt thêm vào lái tầu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực-thăng.
Trong thời gian tại căn cứ, Tư lệnh phó HQ ít nhất đã hai lần tập hợp nhân viên tất cả các chiến hạm có mặt tại chỗ để chỉ thị không được có hành động kiêu ngạo về chiến-tích của Hải quân VNCH. Để làm gương cho tất cả nhân viên thuộc quyền, tôi đã giữ một thái độ rất khiêm nhượng và im lặng. Tôi chưa bao giờ thảo luận hoặc trình bày chi tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu tố đã đưa đến các quyết định chiến thuật của tôi trong trận đánh.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hơn một tuần lễ, đã được cùng Phó Đề đốc Tư lệnh HQ vùng I Duyên hải xuất hiện trên đài chỉ huy cũng của Tuần dương hạm HQ5 để thực hiện một phóng-sự cho đài truyền hình quân đội. Sau đó tôi trở về nhiệm sở chính tại Sài Gòn. Tôi còn được đến phòng thâu hình của quân đội cùng các vị hạm trưởng và một vài hạ sĩ quan trưởng pháo khẩu để trình bầy các chiến tích. Tuy nhiên tôi không đề cập nhiều chi tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các hạm trưởng vì tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề cao vì đã đích thân huy động tinh thần nhân viên và can đảm trực tiếp chiến đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ huy Tham mưu đặc biệt tại Long Bình, đặc biệt vì khóa gồm nhiều các sĩ quan đang đảm trách những vai trò then chốt của quân lực và các đại đơn vị. Khi Phó Đề đốc Phụ tá hành quân biển của Tư lệnh Hải quân đến thuyết trình tại trường về tổ chức của Hải quân Việt Nam, thì một câu hỏi đầu tiên của khóa sinh là về hải chiến Hoàng Sa. Đô đốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong hội trường, quả thật vị này đã trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vỏn vẹn ngay là: Các quí vị đã nghiên cứu về trận đánh Ấp Bắc, thì trận hải chiến Hoàng Sa cũng gần tương tự. Sau câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp Bắc đã làm cho quân lực bị bất ngờ về chiến thuật cửa địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam tôi được biệt phái giữ chức vụ phụ tá Hải quân cho trung tướng Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu Liên quân đồn trú tại Long Bình.
PHẦN SAU TRẬN HẢI CHIẾN
Sau trận hải chiến, Hải quân được nhiều vinh danh nhờ trận chiến đã nêu cao và nối tiếp được tinh thần chống bắc xâm của dân tộc. Trận hải chiến được liên tục ca ngợi hàng ngày trên các phương tiện truyền thông của quân đội cũng như ngoài dân sự để thêm vào với: Bình Long anh dũng, Kontom kiêu hùng, v.v...
Hoàng-Trường Sa với Việt Nam là một
Cũng nhờ trận hải chiến mà phần đông nhân dân Việt Nam mới được biết đến phần lãnh thổ nằm xa vời trong Biển Đông mà Hải quân VNCH từ ngày thành lập đã âm thầm bảo vệ và tuần tiễu.
Nói về trận hải chiến, dù Hải quân VNCH giả thử có thắng được trận ngày đầu, thì chúng ta khó lường được sự tổn thất nếu Hải quân còn ở lại để cố thủ Hoàng Sa. Phó Đề đốc Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu về trận hải chiến khi vị này đích thân thăm viếng Khu trục hạm HQ4, khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đã nói riêng với tôi: "... thế là vừa đủ", ý của vị này nói là không nên tiếp tục chiến đấu thêm ít nhất là vào thời điểm đó Hải quân còn phải đảm nhận nhiều công tác tiễu trừ CS trong đất liền. Đó là chưa kể việc tấn chiếm phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi đêm chiến lược của các cường quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc Khu trục hạm HQ4 không bị trở ngại kỹ thuật và trận chiến đã xẩy ra gần như tôi đã dự liệu và mong muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, thì cường lực Hải-Lục-Không quân của chúng huy động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú phòng và lại còn đủ sức truy kích Hải quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đã tin tưởng rằng Quân đoàn I/Quân khu I đã phải đặt trong tình trạng báo động đề phòng sự tấn công của Trung cộng ngay sau khi trận hải chiến diễn ra. Một phi tuần chiến đấu-cơ F5 của sư đoàn I Không quân tại Đà Nẵng đã sẵn sàng trên phi đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm trợ cho Hải quân vì có thể là e ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn chế trận chiến tới mức có thể chấp nhận được trong một thế chính trị.
Một lần nữa, giả dụ rằng ta cứ để Trung cộng có mặt trên đảo Quang Hòa, trận hải chiến đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục hiện-diện trên đảo Hoàng Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng, để tránh sự lấn chiếm, cộng thêm là Hải quân Việt Nam phải thường xuyên tuần tiễu với một hải đoàn tương đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Đông Nam Á. Có thể Trung cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn mẫu VNCH khi ta đã đặt quân trú phòng trên đảo Nam Yết và Sơn Ca nằm phía nam và đông cùng trên một vòng đai san hô với đảo Thái Bình, đã bị Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) chiếm đóng từ khi Nhật Bản thua trận đệ nhị thế chiến. Người Trung Hoa dù là lục địa hay hải đảo, đã từng nhiều lần tuyên bố là lãnh thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng Sa Trường Sa. Phải thành khẩn mà nhận rằng, khi VNCH đặt quân trú phòng trên các đảo còn bỏ trống trong vùng Trường Sa như Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử đông, Song Tử tây, Trường Sa v.v.., chúng ta đã không gặp một hành động đối kháng về quân sự nào từ phía Trung Hoa Dân quốc hoặc Phi Luật Tân hay Mã Lai Á.
Một suy luận nữa là có thể trận hải chiến là một cuộc điều chỉnh sự nhường quyền chiếm giữ từ một nhược tiểu đến một cường quốc theo một chiến lược hoàn cầu mà vài cường quốc đã ngầm thỏa thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn công hùng hậu của Anh quốc trong cuộc tranh-chấp đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập niên 80, mà Á Căn Đình (Argentina) vẫn luôn coi như lãnh thổ của họ. Họ đã chiến đấu mạnh mẽ trên mặt ngoại giao và buộc phải chiến đấu trên mặt quân sự sau khi ngoại giao thất bại. Về mặt quân sự, họ biết trước là khó chống lại Anh quốc với lực lượng khá dồi dào, nhưng họ đã phải chiến đấu trong khả năng của họ, họ biết tự kiềm chế cường độ chiến tranh để giảm thiểu tổn thất. Kết quả là đảo Falkland đã về tay Anh quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện tích và nguồn lợi cũng như dân số, quân lực hai đối thủ đưa vào cuộc đụng độ hùng hậu hơn, mức độ chiến tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng Sa đã gần tương tự nhau về tính chất của một cuộc chiến.
Người Pháp, trong chiến tranh tại Đông-dương sau 1945, vì chiến cuộc gia tăng tại nội địa, đã phải bỏ ngỏ hoàn toàn nhóm đảo Tuyên Đức phía bắc, và bỏ ngỏ nhóm Nguyệt Thiềm phía nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên Đức phía bắc đã do Trung Hoa Dân quốc cưỡng chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất trận củu họ trong lục địa. Về sau, hiệp định Ba Lê 1954 lại đề ra khu phi quân sự dọc theo vĩ tuyến 17, đã làm cho VNCH đã không thể tích cực hiện diện tại nhóm Tuyên Đức bắc đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt Thiềm.
Xét về sự phòng thủ, so sánh với đảo Thái Bình trong vùng Trường Sa thì thế bố trí trên đảo Hoàng Sa của VNCH đã thua kém rất xa, và không thể đủ sức để cố thủ chống lại một cuộc cường kích thủy bộ. Trên đảo không có công sự nặng, chỉ có khoảng một trung đội địa phương quân với vũ khí cá nhân và một vài quan sát viên khí tượng. Trong khi đó đảo Thái Bình, khi Nhật chiếm đóng trong đệ nhị thế chiến, họ đã xây cất nhiều công sự nặng. Sau này khi Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) chiếm đóng, chắc chắn họ đã tăng cường mọi cơ cấu phòng thủ, lại có trang bị các khẩu đại pháo chống chiến hạm, đưa quân số trú phòng có thể tới cấp hơn tiểu đoàn và do một vị đại tá Thủy quân lục chiến chỉ huy.
Ngoài ra việc tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được nhận xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm viếng Trung cộng của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa Kỳ và Trung cộng đã ngầm có nhiều thỏa thuận về chiến lược hay ít nhất cũng đồng ý là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào các hành động của Trung cộng trong vùng. Đối với VNCH, Hoa Kỳ đã không muốn can dự vào sự bảo vệ lãnh-thổ. Trong ngày hải chiến thì các đối tác viên tại Bộ Tổng Tham mưu đã khẳng định đó là công chuyện riêng của Việt Nam.
Quan niệm của Hoa Kỳ trong việc mở rộng lực lượng Hải quân chỉ là vừa đủ để hành quân yểm trợ hỏa lực và ngăn chặn trong vùng sông ngòi và duyên hải mà thôi. Cộng cuộc xây cất một hệ thống thám báo liên tục từ Bến Hải đến vịnh Thái Lan là một công tác cao, cả về kỹ thuật lẫn tài chánh với mục tiêu duy nhất là kiểm soát hữu hiệu sự xâm nhập lén lút bằng đường biển của CS Bắc Việt vào vùng duyên hải. Việc viện trợ hai chiếc Khu trục hạm, vì là loại tấn công, nên sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò tiềm thủy đĩnh như đã trình bầy, làm như vậy là sẽ giảm khả năng của loại này một nửa. Vũ khí tấn công trên mặt biển và trên không của Khu trục hạm là hai dàn hải pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ khoảng 60 viên một phút. Với hỏlực tấn công mạnh mẽ như vậy, Hải quân Hoa Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song song với kế hoạch rút lui, đã không bỏ sót cơ hội cắt đứt hay ít nhất cũng trì hoãn việc tiếp tế cơ phận thay thế cho loại hải pháo tối tân này.
Sau trận hải chiến, để nêu gương hy sinh của các chiến sĩ bỏ mình trên đại dương, Bộ Tư lệnh Hải quân đã có nghiên cứu một kiến trúc dự định xin phép Đô thành Sài Gòn Chợ Lớn xây cất trong khu vực cột cờ Thủ Ngữ bên sông Sài Gòn. Riêng Hội đồng Đô thành đã đồng ý trên nguyên tắc là sẽ có một đường phố mang tên Ngụy Văn Thà. Một buổi lễ kỷ niệm lần thứ nhất trận hải chiến Hoàng Sa đã được tổ chức vào ngày 19 tháng 1 năm 1975 do Tư lệnh Hải quân, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh chủ tọa nhưng tôi không được thông báo để đến tham dự.
* * *
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên đán đến, dù vào tháng Giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng niệm dành cho các liệt sĩ đã hy sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến sĩ đã anh dũng cùng tôi chiến đấu trong trận hải chiến Hoàng Sa, mà số đông đang lưu lạc trong vùng đất tự do. Họ là những anh hùng đã xả thân để bảo vệ lãnh thổ của tiền nhân xây dựng từ bao thế kỷ. Mong rằng tài liệu này sẽ mang lại niềm hãnh diện cho toàn thể các chiến sĩ Hải quân đã tham dự trận đánh mà tôi đã có vinh dự chỉ huy.
Hà Văn Ngạc
Không có nhận xét nào