Header Ads

  • Breaking News

    Viện Khoa học Công nghệ Hàn Quốc KIST

    MỘT SỐ SUY NGHĨ

    Nguyễn Xuân Xanh trình bày

    13 Tháng Mười Hai, 2024

    https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2024/12/Anh-cua-KIST.jpg?resize=660%2C383&ssl=1

    “Viện KIST, nơi ánh sáng không bao giờ tắt”

    Viện Kist được thành lập ngày 10/2/1966, niềm “kiêu hãnh”, là “máy tạo nhịp tim” của công nghiệp hóa Hàn Quốc.

    KIST, 5, Hwarang-ro 14-gil, Seongbuk-gu, Seoul

    Viện KIST này có lịch sử khá lâu, đã được năm 1966 thành lập ở Hàn Quốc sau một sự thỏa thuận giữa Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson và Park Chung Hee tại D.C. và được Mỹ hỗ trợ trong giai đoạn đầu. Nó được trao cho “Sứ mạng đóng góp cơ bản vào sự hiện đại hóa cuộc sống và công nghiệp ở Cộng hòa Hàn Quốc.”  Nó ra đời trong giai đoạn Hàn Quốc còn nghèo khó thời Park Chung Hee đang thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I, 1962-1966, tập trung xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ. KIST là viện nghiên cứu đa lãnh vực và sẽ có đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc trong hai thập niên quyết liệt 1970 và 1980. KIST còn là nơi thu hút các sinh viên Hàn từ nước ngoài về làm việc với những chính sách phúc lợi ư đãi.

    Viện khoa học công nghệ Hàn Quốc KIST, cơ sở nghiên cứu ban đầu do chính phủ tài trợ, được thành lập năm 1966, đến nay 57 năm, hơn nửa thế kỷ, chỉ 5 năm sau khi Park Chung Hee lên cầm quyền và tiến hành công nghiệp hóa giai đoạn. Nó được thai nghén tại cuộc gặp thượng đỉnh năm 1965 giữa Tổng thống Johnson và Tổng thống Hàn Quốc Park Chung-Hee tại Washington, D.C., và được chính phủ Mỹ hỗ trợ trong giai đoạn đầu, bởi một viện trợ đặc biệt không hoàn lại của chính phủ Hoa Kỳ được mở rộng để đánh giá cao sự tham gia của quân đội Hàn Quốc trong Chiến tranh Việt Nam.

    Nó được trao cho “Sứ mạng đóng góp cơ bản vào sự hiện đại hóa cuộc sống và công nghiệp ở Cộng hòa Hàn Quốc.”  Nó ra đời trong giai đoạn Hàn Quốc còn nghèo khó thời Park Chung Hee, đang thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I, 1962-1966, tập trung xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ.

    KIST là viện nghiên cứu đa lãnh vực và sẽ có đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc trong hai thập niên quyết liệt 1970 và 1980. KIST còn là nơi thu hút các sinh viên Hàn từ nước ngoài về làm việc với những chính sách phúc lợi ư đãi.

    Trên Tháp Tưởng niệm tại KIST có một dòng chữ giải thích sứ mệnh của viện:

    Nhắc lại thỏa thuận năm 1965 về việc hợp tác thành lập một viện mới nhằm mang lại lợi ích của KH&CN ứng dụng cho nền kinh tế và nhân dân Hàn Quốc, hai Tổng thống vui mừng ghi nhận những tiến bộ mạnh mẽ đã đạt được trong việc thành lập Viện Hàn Quốc Khoa học và Công nghệ (KIST), viện được trù định đóng góp cơ bản vào quá trình hiện đại hóa đời sống và công nghiệp ở Hàn Quốc.

    Sau khi phân tích các vấn đề của các cơ sở nghiên cứu trong nước cũng như các yếu tố thành công chính của các phòng thí nghiệm lớn của nước ngoài, chủ tịch sáng lập, TS. Choi Hyung-Sup đã xác định triết lý cơ bản của KIST với ba nguyên lý: tự chủ khỏi sự can thiệp và kiểm soát từ bên ngoài, sự ổn định trong hỗ trợ tài chính dài hạnmôi trường nghiên cứu phù hợp để hỗ trợ tinh thần và năng suất.

    Viện Battelle Memorial Institute (Hoa Kỳ), National Research Council (Canada), Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung (CSIRO; Úc), Max Planck Gesellschaft (Tây Đức) và Viện Nghiên cứu Vật lý và Hóa học (Nhật Bản) nằm trong số các tổ chức lớn nước ngoài từng là tấm gương cho KIST. Sau một cuộc khảo sát thực địa kéo dài mười tháng, một nhóm đặc nhiệm đã quyết định chọn kỹ thuật cơ khí, hóa học và kỹ thuật hóa học, khoa học vật liệu và kỹ thuật kim loại, điện tử, thực phẩm và kinh tế công nghiệp là sáu lĩnh vực nghiên cứu của KIST.

    Một phần lớn thành công ban đầu của KIST có thể là do 3 yếu tố. Đầu tiên là sự quan tâm cá nhân của Chủ tịch Park Chung Hee, người, có lẽ, là quan trọng nhất đối với thành công ban đầu của KIST. Trên thực tế, người ta có thể nói rằng Tổng thống Park là người sáng lập thực tế của KIST. Quyền lực chính trị, được cộng sinh bởi sự chú ý cá nhân từ người lãnh đạo của một chế độ quân sự độc tài, đã biến điều dường như là không thể thành có thể.

    https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2024/12/Anh-Park-Chung-Hee.jpg?resize=626%2C434&ssl=1

    Ảnh nhà lãnh đạo Park Chung Hee (1917-1979), người khai sinh ra Hàn Quốc hiện đại

    Yếu tố quan trọng tiếp theo là khuôn khổ pháp lý được thể hiện trong Đạo luật KIST, đảm bảo “tính độc lập, tự chủ và ổn định” của lãnh đạo KIST. Luật đã cung cấp kinh phí xây dựng và hoạt động của viện cũng như cho thuê tài sản quốc gia miễn phí. Sự giám sát của chính phủ trong quá trình phê duyệt trước và các yêu cầu kiểm toán sau đã bị loại trừ, ít nhất là đối với giai đoạn đầu của sự tồn tại của KIST.

    Yếu tố cuối cùng chịu trách nhiệm cho sự thành công ban đầu của KIST là sự kết hợp toàn diện giữa sự hỗ trợ thân thiện của Hoa Kỳ, sự hỗ trợ tài chính từ chính phủ Hàn Quốc, sự lãnh đạo có tầm nhìn xa của chủ tịch sáng lập Choi Hyung-Sup.

    Hiện Viện có đội ngũ nghiên cứu gồm hơn 1.800 nhà khoa học nghiên cứu, nhà khoa học thỉnh giảng, nghiên cứu sinh, thực tập sinh và các nhà khoa học nước ngoài tham gia nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ.

    https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2024/12/Anh-cua-KIST_Korean-Institute-of-Science-and-Technology.jpg?resize=401%2C226&ssl=1

    Biểu tượng của KIST

    Khi triết lý và cấu trúc cơ bản đã được xác định, KIST bắt tay vào một chương trình tuyển dụng đầy tham vọng. Để lôi kéo những nhân sự chất lượng hàng đầu làm việc ở nước ngoài, KIST, với sự hỗ trợ tích cực từ chính phủ hỗ trợ, đã đưa ra một gói thưởng đặc biệt ưu đãi, đặc biệt trong điều kiện tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người của Hàn Quốc vào thời điểm đó chưa đến 500 đô la. Bên cạnh nhà ở miễn phí, KIST cũng hứa sẽ được nghỉ phép (sabbatical leave) một năm sau mỗi ba năm. Những lợi ích hấp dẫn, cùng với lời kêu gọi yêu nước đóng góp vào sự phát triển của đất nước, đã thành công trong việc đẩy lùi tình trạng chảy máu chất xám; cùng nhiều nhà khoa học và kỹ sư Hàn Quốc đã tập trung tại khuôn viên KIST mới được thiết kế cảnh quang mới. Chẳng bao lâu, KIST nổi lên như một biểu tượng cho nỗ lực KH&CN của Hàn Quốc cũng như một đối tượng ghen tị đối với các nhà nghiên cứu bắt đầu phát triển.

    Vào thời điểm công nghệ công nghiệp của Hàn Quốc còn sơ khai, KIST đã đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực của quốc gia trong việc tiêu hóa và cải tiến công nghệ nước ngoài nhập khẩu. Bằng cách đảo ngược tình trạng chảy máu chất xám ở nước ngoài, KIST đã khai thác khả năng của nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu. Nhiều nhà lãnh đạo ban đầu của cơ sở hạ tầng công nghệ mới chớm nở của Hàn Quốc đến từ nhóm lao động này.

    KIST kể từ đó đã trở thành hình mẫu cho tất cả các viện nghiên cứu do chính phủ tài trợ được thành lập sau này ở Hàn Quốc. Ban đầu, nó tập trung vào việc cung cấp hỗ trợ công nghệ cho các ngành công nghiệp tư nhân trong việc áp dụng, tiếp thu và sửa đổi các công nghệ nước ngoài nhập khẩu. Nó cung cấp dịch vụ xử lý sự cố kỹ thuật cho khu vực tư nhân. Mặc dù phải đối mặt với nhiều trở ngại trong quá trình này, KIST đã và đang thực hiện vai trò hàng đầu trong việc phát triển khoa học và công nghệ tại Hàn Quốc.

     

    CHOI HYUNG-SUP

    NGƯỜI SÁNG LẬP VÀ PHÁT TRIỂN VIỆN KIST NHƯ MỘT HÌNH MẪU CHO HÀN QUỐC

     

    https://i0.wp.com/rosetta.vn/nguyenxuanxanh/wp-content/uploads/sites/6/2024/12/Anh-cua-Choi.jpg?resize=409%2C496&ssl=1

    Tiến sĩ Choi Hyung-Sup (1920-2004), một nhà khoa học, nhà quản lý và nhà hoạch định chính sách, được tưởng nhớ đến vì những đóng góp hàng đầu trong việc thể chế hóa khoa học và công nghệ đương đại của Hàn Quốc. Ông là một người khổng lồ, một trong những người cha dựng nước. Muốn trở thành đối tác trên đấu trường thế giới, quốc gia cần có những người khổng lồ, chiến lược gia, nhà thiết kế hệ thống khoa học & công nghệ như Choi Hyung-Sup, hay tương tự, và trên nhiều lãnh vực khác.

    Tiến sĩ Choi Hyung Sup sinh ngày 2 tháng 11 năm 1920 tại Jinju, Gyeongsangnam-do. Ông

    -Lấy bằng Tiến sĩ kỹ thuật luyện kim tại Đại học Minnesota,

    -Chủ tịch sáng lập Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KIST) trong 5 năm,

    -Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc trong 7 năm, mở đường cho các chính sách phát triển KH&CN của quốc gia.

    -Sau đó, ông giữ chức chủ tịch Liên đoàn Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KOFST).

    -Trong số những thành tích của ông với tư cách là một nhà khoa học trong suốt cuộc đời, ông đã viết 12 cuốn sách, bao gồm “Viện Ánh sáng Bất tử” (“The Institute of the Undying Light”) và 120 bài báo về lĩnh vực chính sách KH&CN cho kỹ thuật kim loại. Năm 1996, ông được chính phủ Hàn Quốc trao tặng Huân chương Công đức.

    -Ông được mai táng tại Nghĩa trang Quốc gia ở Daejeon vào ngày 29 tháng 5 năm 2004.

    Choi Hyung Sup được bổ nhiệm làm chủ tịch đầu tiên của Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KIST), viện nghiên cứu toàn diện đầu tiên của Hàn Quốc và có đóng góp xuất sắc cho việc thành lập và vận hành KIST.

    Ông đã trình bày triết lý hoạt động của “sự tự chủ trong nghiên cứu”, “sự ổn định của nghiên cứu” và “sự hình thành của môi trường nghiên cứu” và đã đóng góp to lớn để biến viện nghiên cứu này trở thành viện nghiên cứu tốt nhất ở Hàn Quốc trong một khoảng thời gian ngắn như vậy bằng cách mời những người Hàn Quốc xuất sắc, các nhà khoa học và kỹ sư.

    Ông đã giới thiệu ‘hệ thống hợp đồng nghiên cứu’ trong việc thiết lập hệ thống hoạt động của KIST và góp phần thiết lập hệ thống phát triển nghiên cứu mới để thúc đẩy công nghệ công nghiệp, ‘sự tham gia tích cực của công ty và hoạt động có trách nhiệm của các nhà nghiên cứu’, thu hút sự tham gia tích cực của các công ty bằng cách miễn thuế cho toàn bộ số tiền ủy thác quỹ nghiên cứu.

    Bí quyết và kinh nghiệm của ông trong việc thành lập và vận hành thành công KIST với tư cách là chủ tịch đầu tiên của nó đã được áp dụng cho các viện nghiên cứu do chính phủ tài trợ khác được thành lập sau đó. Nguyên tắc hoạt động này của KIST được đánh giá là một trường hợp kiểu mẫu cho sự phát triển công nghệ của đất nước.

    Choi Hyung Sup đã thành lập nền tảng phát triển khoa học và công nghệ tại Hàn Quốc, giữ chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trong 7,5 năm kể từ năm 1971. Ông đã đề xuất và thực hành 3 khái niệm cơ bản để phát triển khoa học và công nghệ, trong đó có

    1) “đặt nền móng cho sự phát triển khoa học và công nghệ’,

    2) “phát triển chiến lược cho công nghệ công nghiệp (industrial technology)” và

    3) “phát triển môi trường thuận lợi cho khoa học và công nghệ”.

    Trong quá trình thực hiện các khái niệm cơ bản này, ông đã tiến hành xây dựng thành phố giáo dục và nghiên cứu Daedeok, nơi các viện nghiên cứu và các viện giáo dục cùng tồn tại và ổn định hệ thống nghiên cứu khoa học và công nghệ để phát triển công nghiệp, bao gồm việc thành lập bộ phận công nghiệp thông tin tại Bộ Khoa học và Công nghệ để chuẩn bị cơ sở cho phát triển công nghiệp thông tin. Ngoài ra, ông đã nỗ lực thành lập Quỹ Khoa học và Kỹ thuật Hàn Quốc nhằm thúc đẩy khoa học cơ bản và thiết lập một hệ thống hỗ trợ thực hiện nhất quán hoạt động nghiên cứu và phát triển từ cơ bản đến ứng dụng và nghiên cứu phát triển.

    Tiến sĩ Choi Hyung Sup cũng đã trình bày các chiến lược phát triển khoa học và công nghệ cho các nước đang phát triển trên cơ sở kinh nghiệm của mình và giúp các nước đang phát triển xây dựng kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ. Sau khi nghỉ hưu, ông đã tư vấn về các chính sách và kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ cho các nước đang phát triển theo yêu cầu của các cơ quan trực thuộc Liên Hợp Quốc, được mời tham dự nhiều cuộc họp quốc tế để phát biểu quan trọng và chủ trì các cuộc họp với tư cách là chủ tọa trong nhiều trường hợp. Năm 1988, lĩnh vực hoạt động của ông phát triển hơn sau khi được bầu làm cố vấn của Tổ chức Phát triển Khoa học và Công nghệ của Liên hợp quốc, và ông đã có đóng góp to lớn trong việc nâng cao vị thế của Hàn Quốc trong xã hội quốc tế, đã đi thăm và giúp đỡ tích cực các nước đang phát triển ít nhất 5 lần trung bình mỗi năm. Kết quả của những hoạt động này, ông đã tổ chức và xuất bản nghiên cứu của mình trong lĩnh vực này dưới dạng sách như ‘Nghiên cứu về công nghệ công nghiệp của các nước đang phát triển‘ (‘Research on industrial technology of developing countries’) và ‘Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của các nước đang phát triển‘ (‘Science and technology  development strategy of developing countries’) và được bầu làm thành viên nước ngoài của Hàn lâm viện Khoa học Nga vào năm 1994, lần đầu tiên với tư cách là người Hàn Quốc.

    Choi Hyung-Sup có thể được liệt vào danh sách những người cha lập quốc, founding fathers, của Hàn Quốc. Không có sự phát triển khoa học, công nghệ mạnh mẽ, với các chính sách có tính chiến lược mà ông đã đóng góp rất nhiều, khó quan niệm được một Hàn Quốc mạnh mẽ như ngày nay.

     

    Ý NGHĨA CỦA VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ KIST

    Và Vài suy nghĩ về Việt Nam

    KIST chính là cửa ngõ của khoa học, công nghệ, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng vào kinh tế đi vào Hàn Quốc, như là Viện nghiên cứu đầu tiên tạo hình mẫu, prototype (sau này có thêm KAIST, và các thanh phố công nghệ mọc lên trên đất HQ), giúp HQ du nhập công nghệ nước ngoài, tiêu hóa, và ứng dụng, cũng như tự đẩy việc nghiên cứu từ bên trong giải quyết những vấn đề khó khăn về công nghệ cho công nghiệp. Tôi nhớ vai trò này có lẽ một phần quan trọng giống như vai trò của Viện nghiên cứu ITRI trong khuôn viên Tân Trúc của Đài Loan (xem bài Tân Trúc và Cuộc hóa rồng của Đài Loan): Du nhập công nghệ mới vào, tiêu hóa, làm prototype, cải tiến và đưa ra thị trường cho startup, đào tạo kỹ sư chuyên ngành để hỗ trợ doanh nghiệp khi sản xuất.

    Một cửa ngõ như KIST là hết sức quan trọng để người Việt làm chủ công nghệ, nghiên cứu và phát triển cho những ứng dụng kinh tế. KIST còn có thêm những nhánh là những tiểu viện nghiên cứu chuyên đề lớn.

    Một Viện KIST đáng lẽ ra đời tại Việt Nam từ đầu của giai đoạn ĐỔI MỚI KINH TẾ, để đồng hành với các doanh nghiệp. Nhưng chúng ta đã không có. Bây giờ cần phải lập một Viện mới. Có Viện, người Việt mới học làm chủ công nghệ và phát triển. Nếu các khu Công nghệ cao chỉ cho các Cty nước ngoài thuê đất và người, thì người Việt không bao giờ làm chủ công nghệ và kinh tế.

    Không làm chủ, phát triển công nghệ từ nội lực, thì kinh tế không thể mạnh lên, và luôn luôn lệ thuộc vào nước ngoài.

    Để có một KIST của Việt Nam, cần phải có đầu tư, có một thể chế như Choi Hyung Sup đã phát triển cho Hàn Quốc, có những điều kiện hấp dẫn, và chiêu mộ được những nhà khoa học, công nghệ xuất sắc từ trong và ngoài nước, phải tiến hành xác định những lãnh vực nền kinh tế cần cho trung và dài hạn. Phải là “người thật việc thật”, và “thù lao thật, năng suất thật” để bảo đảm phát huy óc sáng tạo. Tính khoa học và học thuật phải là những phẩm chất của công việc nghiên cứu, làm việc của Viện công nghệ. Các nhà khoa học phải có vị trí độc lập với chính trị, vị thế của họ được xác định bằng phẩm chất khoa học và đạo đức lao động.

    Chính trị gì, lý thuyết gì, cơ chế gì, ý thức hệ gì đi nữa, nhưng nếu khâu then chốt như những gì diễn ra ở KIST thất bại, thì tất cả chỉ là vô nghĩa, đất nước thiếu đòn bẫy tiến lên. Những thành công mà Park Chung Hee để lại sau khi ông mất là một di chúc có tính phổ quát. Các đời tổng thống sau, thật vậy, ra sức vun xới và đầu tư nhiều hơn nữa vào những thành công mà KIST đã mở ra.

    Trong context này, vài con số từ Hàn Quốc. Với sự ra đời của KIST, nhà nước bắt đầu một cuộc chiêu mộ các nhà khoa học và kỹ sư Hàn Quốc kinh nghiệm hồi hương bằng gói đền bù (compensation package) hấp dẫn. Đây là điều chưa từng có trong văn hóa hành chánh HQ, nơi giới hành chánh văn chương (literati-bureaucrats) có quyền lực đối với giới kỹ thuật. Mười tám người được chiêu mộ năm 1966 như những thành viên sáng lập của KIST. Đến năm 1975, con số này lên đến 68. Số người hồi hương vĩnh viễn cho đến năm 1980 đạt 276.

    Số người Hàn học và nghiên cứu tại các trường đại học Mỹ trong năm 1993 chiếm 31.076 đứng thứ năm sau TQ, Nhật Bản, Đài Loan, và Ấn độ. Chưa nói con số 13.000 sinh viên Hàn Quốc theo học ở Nhật Bản đứng hàng thứ hai sau TQ.

    Đến năm 1955, Hàn Quốc có 12.088 sinh viên nhận bằng Ph.D từ những định chế giáo dục cao nước ngoài, trong đó hơn 62 phần trăm từ các đại học Mỹ. Khoa học và công nghệ chiếm 57 phần trăm, một tỷ lệ khá cao.

    Chương trình chiêu mộ của KIST đã trở thành mô hình cho khu vực tư nhân khi họ tiến hành chiêu mộ một cách quyết liệt các nhà khoa học, kỹ sư tầm cỡ lớn trong những ngành công nghệ hiện đại nhất trong những năm 1980, 1990. Hoa Kỳ có hàng ngàn nhà khoa học và kỹ sư người Mỹ gốc Hàn hàng đầu. Các chaebol có tiềm lực lớn chiêu mộ được nhiều người giỏi nhất. Nhiều người đã rời Hàn Quốc hơn một thập kỷ trước, lấy bằng tiến sĩ tại các trường đại học tốt nhất của Mỹ và vươn lên những thứ hạng cao trong những công ty hàng đầu của Mỹ như IBM, Fairchild, Intel và National Semiconductor. Các chaebol Hàn Quốc với tiềm năng tài chính lớn đã giao cho họ những công việc đầy thử thách và các chế độ đãi ngộ hấp dẫn với sự độc lập đáng kể. Thống kê nhà nước cho thấy số khoa học gia và kỹ sư từ nước ngoài được tuyển mộ bởi những trung tâm R&D là 427 trong năm 1992. Một số về ngắn hạn, nghĩa là họ sẽ giữ quan hệ kỹ thuật với các Cty Hàn Quốc.

    Một chương trình khác của chính phủ có tên Brain Pool, trong đó chính phủ cung cấp trợ cấp cho những Viện R&D và đại học nếu họ chiêu mộ được các nhà khoa học và kỹ sư từ nước ngoài cho những chương trình R&D ngắn hạn 6 tháng đến 2 năm. Ở đây, người Hàn cũng như người nước ngoài đều được phép tham gia.

    Cần cấp học bổng từ bây giờ cho sinh viên các trình độ đi học chuyên ngành về công nghệ, trong sự chọn lựa ưu tiên về ngành học của TP, ở trình độ kỹ sư, hay tiến sĩ, hay nhờ Hoa Kỳ nhận một số nhà công nghệ Việt Nam thực tập tại một số Cty công nghệ Mỹ, nếu đước. Cho đến nay, đây là chỗ yếu của Việt Nam. Sinh viên đi học hoàn toàn không có định hướng của nhà nước theo những yêu cầu của cuộc công nghiệp hóa, bởi vì nhà nước không tiến hành công nghiệp hóa nên không biết nhu cầu đối với các nhà khoa học và lãnh vực cần thiết trong năm, mười năm. Ở đây, thiếu khâu kế hoạch hóa ngay từ đầu. Nhà nước đã buông bỏ kế hoạch hóa cho kinh tế thị trường, nhưng quên rằng họ cần có kế hoạch phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và ở đó rất cần lực lượng khoa học, công nghệ, và phải nhìn thấy trước nhu cầu để đào tạo, hoặc khuyến khích sinh viên tự túc đi học theo định hướng. Đây là một sự hụt hẫng to lớn. TQ đã làm rất tốt việc này. Đài Loan và Hàn Quốc cũng như thế.

    Chúng ta bây giờ dường như ở giai đoạn đầu những năm 1960 của Hàn Quốc, xét về mặt công nghiệp hóa và phát triển KHCN, tuy GDP có lớn hơn GDP của thời Park Chung Hee gấp nhiều lần. Cuối đời Park, GDP của Hàn Quốc mới chỉ được $1.000, sau một giai đoạn phát triển thần kỳ, vẫn còn nghèo so với VN, nhưng nền tảng khoa học công nghệ của họ rất vững chắc và tiếp tục phát triển nhanh sau đó, trong khi VN lại bị thiếu. Đó là cái nghịch lý, mà giờ đây, nếu muốn quốc gia có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và quốc phòng để theo kịp các con rồng châu Á, chúng ta phải bắt đầu xây dựng lại một cách hệ thống. Không có con đường nào khác.

    https://rosetta.vn/nguyenxuanxanh/vien-khoa-hoc-cong-nghe-han-quoc-kist/


    Không có nhận xét nào