Header Ads

  • Breaking News

    Từ Phát triển đến Dân chủ - Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 2)

     Tác giả: Dan Slater Joseph Wong

    Việt dịch: Nguyễn Quang A

    Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022

    Thứ Tư, 20 tháng 11, 2024 

    https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEh2-dN4JTgBn4B9_qigc_Pz4DEYiIvFqYES5aPWJu_MX4bco8EARApKKUHKvwkK4YWKMyOIMyJGn1BDiD7NjiG3HxUpC8MtZClHSoBTuaAxqCAkQEsQcMuQuMCvcquaxD9c5-HAfhAVo2GaX_f25cY2-zRU9YDdVRUbpfi1cuGqdxixNzkY9XJIg_kPh8XzGwEDJANL4e5t=s0-d

    2. Dân chủ qua sức Mạnh

    Bắt đầu với sự Phát triển

    Phát triển kinh tế là sự thực chắc chắn xảy ra ở châu Á. Hãy tưởng tượng một du khách châu Á dày dạn kinh nghiệm từ đầu các năm 1970 được phóng đi năm mươi năm về phía trước theo thời gian đến bất kỳ thành phố Á châu nào ngày nay.1 Dù họ chạm đất ở Tokyo, Seoul, Hồng Kông, Singapore, Thượng Hải, Đài Bắc, hay thậm chí Hà Nội, Jakarta, Bangkok, hay Kuala Lumpur, đơn giản là không có câu hỏi về sự biến đổi nào đập vào mắt họ đầu tiên. Một trong những vùng nghèo nhất của thế giới đã trở thành một trong những vùng giàu nhất của nó.

    Chúng tôi gọi vùng này là “châu Á kiến tạo-phát triển (developmental Asia).” Nó là một vùng được kinh tế học chính trị, không chỉ địa lý vật lý, xác định. Tất cả các nền kinh tế đâm chồi nằm dọc vành Đai Thái Bình Dương của châu Á, như thế địa lý hầu như không phải là không liên quan. Nhưng không phải tất cả các nước ở Bắc và Nam Á có đủ tư cách. Châu Á kiến tạo-phát triển là một vùng bạn phải “gia nhập” bằng việc theo đuổi các chính sách kiến tạo-phát triển và tích lũy các thành công kiến tạo-phát triển. Cụ thể, mười hai trường hợp của vùng2 tất cả đều đã theo đuổi sự phát triển quốc gia đuổi kịp qua sự ưu tiên chính trị của sự tăng trưởng kinh tế nhanh, có cơ sở trong một mô hình kiến tạo-phát triển ưu tiên xuất khẩu, dùng sự tài trợ nhà nước để khuyến khích công nghiệp hóa, và coi các hãng tư nhân như một nền tảng của sự tiến bộ kinh tế quốc gia.

    Sự tăng trưởng kinh tế khắp châu Á kiến tạo-phát triển đã hết sức ngoạn mục. Thế nhưng nó cũng rõ ràng không đều. Bên trong mỗi xã hội, các thành quả tăng trưởng kinh tế được chia sẻ rất không đều. Hàng trăm triệu người đã thoát nghèo, nhưng hàng chục triệu vẫn chưa thoát. Ngang các trường hợp, một số đã bắt đầu sự phát triển sớm hơn nhiều và đã đạt các mức giàu có lớn hơn các trường hợp khác rất nhiều. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, và Singapore đã tự khoe khoang địa vị thu nhập-cao trong hàng thập niên. Malaysia, Thái Lan, và Indonesia bắt đầu muộn hơn và đã đạt các đỉnh cao phát triển ít cao hơn. Trong khi đó, giữa bốn nước tụt hậu hướng nội đã không “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển bằng việc theo đuổi sự tăng trưởng tư bản chủ nghĩa do xuất khẩu-dẫn dắt, nhà nước-tài trợ cho đến sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc—Trung Quốc, Việt Nam, Cambodia, và, muộn nhất, Myanmar—Trung Quốc đã vút lên vượt qua tất cả phần còn lại, trong khi vẫn chưa đuổi kịp các nước Á châu đi trước của nó về mặt thu nhập trên đầu người.

    Các Hình mẫu

    Tuy vậy, mục đích cốt lõi của chúng tôi trong cuốn sách này không phải là để giải thích sự biến đổi kinh tế của châu Á kiến tạo-phát triển. Nó là để giải thích một hình mẫu ít hiển nhiên hơn rất nhiều. Bất chấp sự hiện đại hóa kinh tế xuất sắc của châu Á kiến tạo-phát triển, chỉ khoảng nửa vùng đã chuyển từ chủ nghĩa độc đoán tới nền dân chủ, ngay cả khi toàn bộ vùng đã chuyển—dù không đều, cả bên trong các nước và giữa chúng—từ nghèo sang giàu có.3

    Hình mẫu không đều này của dân chủ hóa là gần nổi bật và khó hiểu như sự phát triển kinh tế ấn tượng của châu Á. Bởi vì nếu sự phát triển kinh tế là sự thực chắc chắn xảy ra của châu Á, sự liên kết giữa sự phát triển kinh tế và dân chủ hóa là sự tương quan rõ rệt của thế giới hiện đại. Tất nhiên, có những ngoại lệ hiển nhiên và quan trọng: nền dân chủ nghèo thi thoảng ở châu Phi, vài chế độ độc tài giàu ở Trung Đông. Thế nhưng hình mẫu tổng thể toàn cầu vẫn rõ ràng và bền bỉ, như lý thuyết hiện đại hóa từ lâu đã nhận diện: các nước giàu hơn có khuynh hướng là các nước dân chủ hơn. Điều này đặc biệt đúng khi, như ở châu Á kiến tạo-phát triển, sự phát triển kinh tế được các thị trường tư bản chủ nghĩa thúc đẩy và đi cùng với những sự biến đổi giai cấp khổng lồ.

    Chúng tôi theo một quan điểm so sánh và lịch sử để xem xét và giải thích kinh nghiệm dân chủ hóa không đều của châu Á kiến tạo-phát triển. Thật quan trọng, sự không đều trong dân chủ hóa của vùng không ánh xạ trực tiếp lên sự không đều của nó trong sự phát triển. Các mức phát triển kinh tế không tương quan rõ ràng với các mức dân chủ ở châu Á kiến tạo-phát triển. Giả như chúng là, thì câu chuyện dân chủ hóa của châu Á sẽ là một câu chuyện hiện đại hóa thuần túy—nhưng nó rõ ràng không phải thế. Nổi bật nhất, Singapore và Hồng Kông là cực kỳ giàu có nhưng không dân chủ; Trung Quốc không tiến gần hơn tới dân chủ ngay cả khi nó trở nên giàu hơn một cách phi thường; Indonesia đã trở thành một nền dân chủ và vẫn là một nền dân chủ trong hơn hai thập niên bất chấp địa vị thu nhập-trung bình khiêm tốn của nó; và thậm chí Myanmar đã đi các bước đáng kể tới dân chủ hóa trong các năm 2010, trong khi vẫn là nước nghèo nhất của châu Á kiến tạo-phát triển, trước khi một cuộc đảo chính quân sự đã đảo ngược các lợi ích dân chủ mong manh tuy hữu hình đó trong năm 2021.

    Một trong những đề xuất trung tâm của cuốn sách của chúng tôi là dân chủ hóa khắp châu Á kiến tạo-phát triển đã không chỉ không đều; nó đã cụm lại. Tức là, chỉ các kiểu kinh tế học chính trị nào đó ở châu Á kiến tạo-phát triển đã thử nghiệm với các cải cách dân chủ và, trong một số trường hợp, đã hoàn tất và củng cố sự chuyển đổi dân chủ của chúng. Các kiểu khác đã không. Việc giải thích hình mẫu được cụm lại của chủ nghĩa độc đoán và dân chủ hóa của châu Á kiến tạo-phát triển đòi hỏi một sự tư duy lại căn bản về bản thân địa lý Á châu.

    Nó cũng đòi hỏi một sự tư duy lại về sự phát triển định hình dân chủ hóa thế nào. Phát triển kinh tế đã định hình sâu sắc các hình mẫu dân chủ hóa của châu Á kiến tạo-phát triển, như người ta kỳ vọng nói chung. Nhưng điều này chỉ bởi vì các kiểu phát triển kinh tế khác nhau đã liên kết với những kiểu phát triển chính trị khác nhau. Các chế độ độc đoán khắp châu Á kiến tạo-phát triển đã xây dựng được sức mạnh chính trị đáng kể—nhưng các kiểu sức mạnh chính trị khác nhau—trong khi chúng xây dựng các nền kinh tế quốc gia của chúng.

    Đặc biệt quan trọng, các hình mẫu kiến tạo-phát triển khác nhau đã đi cùng với sự lên vị trí nổi trội và thống trị của các tổ chức và các diễn viên chính trị rất khác nhau: các bộ máy quan liêu, các đảng bảo thủ, các Đảng Xã hội, và các quân đội. Chúng cũng định vị mười hai trường hợp của châu Á kiến tạo-phát triển khá khác nhau trong nền kinh tế toàn cầu, nuôi dưỡng các hình mẫu phụ thuộc lịch sử khác nhau vào các cường quốc lớn như Trung Quốc, Đại Anh (Great Britain), Nhật Bản, và Hoa Kỳ. Chính theo cách mạnh mẽ nhưng gián tiếp này mà một hình mẫu phát triển kinh tế bao quát chung vào đầu thế kỷ thứ hai mươi mốt đã chia châu Á, hầu như đều nhau, thành các nửa độc đoán và dân chủ.

    Lý lẽ

    Chúng tôi lập luận rằng con đường phổ biến nhất tới dân chủ của châu Á kiến tạo-phát triển đã bất thường nhưng không phải là độc nhất. Con đường này là dân chủ qua sức mạnh.4 Có thể dường như là một sự thật hiển nhiên để nói rằng dân chủ chỉ có thể nổi lên một khi một chế độ độc đoán trở nên quá yếu để tồn tại. Thế nhưng kinh nghiệm lịch sử dân chủ hóa của châu Á kiến tạo-phát triển cho thấy khác một cách nhất quán. Từ Nhật Bản sau sự chiếm đóng sau-Chiến tranh Thế giới II của Mỹ đến Myanmar trong các năm 2010, và với Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, và Thái Lan ở giữa, các chế độ độc đoán đương nhiệm ở châu Á kiến tạo-phát triển đã lặp đi lặp lại thừa nhận dân chủ mà không thừa nhận sự thất bại. Chúng đã tự mở ra cho sự cạnh tranh bầu cử tự do hơn và công bằng hơn, không phải như một cách để rời khỏi quyền lực và chuyển quyền lực cho các đối thủ của chúng mà như một cách củng cố quyền lực của chính chúng trong một trò chơi dân chủ.

    Đặc tính xác định của dân chủ qua sức mạnh ở châu Á kiến tạo-phát triển đã là sự tự tin chế độ, không phải sự sụp đổ chế độ. Một cách cụ thể, chúng ta thấy các chế độ độc đoán bắt tay vào các cải cách dân chủ khi các sức mạnh được tích tụ về mặt lịch sử của chúng cho chúng hai loại tự tin phân biệt. Loại thứ nhất là sự tự tin chiến thắng. Đấy là sự kỳ vọng giữa các elite độc đoán đương nhiệm rằng họ có thể làm ăn tốt, hay thậm chí tiếp tục thống trị hoàn toàn, trong các cuộc bầu cử dân chủ. Loại thứ hai là sự tự tin ổn định. Đấy là sự kỳ vọng của họ rằng sự ổn định chính trị—và với nó, sự phát triển kinh tế—sẽ tiếp tục dưới các điều kiện dân chủ.

    Như chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết, nguồn lớn nhất của sự tự tin ổn định và sự tự tin chiến thắng nằm trong các tổ chức chính trị, nhất là các đảng chính trị và nhà nước quan liêu. Tuy nhiên bản thân sự phát triển kinh tế cũng đóng góp cho cả sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định cần thiết cho các chế độ độc đoán để dân chủ hóa qua sức mạnh.

    Theo nghĩa đơn giản và quan trọng nhất có thể, hình 1.1 để lộ ra logic cơ bản của chúng tôi. Với một thành tích phát triển ấn tượng, các nhà cai trị độc đoán có thể tạo ra một mức độ chính danh thành tích—một hồ sơ đáng tin cậy về thành tựu phát triển trong quá khứ—để giúp họ thắng các cuộc bầu cử tự do và công bằng tiến tới.5 Và trong chừng mực sự phát triển kinh tế đó giảm nghèo và mở rộng tầng lớp trung lưu, nó làm dịu các áp lực dự kiến cho sự tái phân phối theo hướng xuống mà thường làm những người khá giả khiếp sợ khỏi việc ủng hộ dân chủ hóa.6

    Khi các nhà lãnh đạo độc đoán ở châu Á kiến tạo-phát triển thiếu sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định, họ đã không theo đuổi các cải cách dân chủ, bất luận họ đối mặt với nhiều áp lực dân chủ hóa đến thế nào. Đúng hơn, khi họ đã dân chủ hóa, họ đã làm vậy không phải để từ bỏ quyền lực của họ mà để ổn định nó trên nền tảng vững chắc hơn.

    Lý lẽ này trái ngược hoàn toàn với quan niệm thông thường rằng các nhà độc tài chỉ nhượng bộ dưới các áp lực cùng cực nhất, thậm chí sinh tồn. Như Plato đã kết luận trong cuốn Republic, “Đúng, đó là cách một nền dân chủ được thiết lập, dù bằng bạo lực vũ trang hay bởi vì bên kia bị khủng bố để nhượng bộ.” Gần đây hơn nhiều, một trong những cuốn sách có ảnh hưởng nhất về dân chủ hóa của thế kỷ thứ hai mươi mốt cho đến nay, Các Nguồn gốc Kinh tế của Chế độ độc tài và Dân chủ của Daron Acemoglu và James Robinson, được xây dựng quanh giả thiết rằng các nhà cai trị độc đoán chỉ chấp nhận dân chủ như một cách để ngăn cản việc dân chúng dùng bạo lực lật đổ sắp xảy ra. Ngược lại, lý lẽ của chúng tôi tập trung không vào các mối đe dọa cách mạng mà vào những kỳ vọng ổn định.

    Điều này không phải để nói rằng các kỳ vọng ổn định luôn tuyệt đối hay rõ ràng. Việc thừa nhận dân chủ với sự tự tin không phải là không có rủi ro và sự bất trắc. Chúng tôi không cho rằng các chế độ độc đoán mạnh luôn có sự nhìn xa hoàn hảo và có thể dự đoán chính xác chúng sẽ làm ăn giỏi hay tồi thế nào sau khi thừa nhận các cải cách dân chủ. Sự tự tin chẳng bao giờ là toàn năng cả. Dân chủ qua sức mạnh không phải là một thiết kế thông minh. Nó là một thử nghiệm có thể đảo ngược. Sự tự tin phải là đáng kể cho dân chủ qua sức mạnh để được bắt đầu; nó phải được xác nhận bằng kinh nghiệm suốt thử nghiệm cải cách cho dân chủ qua sức mạnh để được hoàn tất.7

    https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEgHhU2Mdw8NIeD03bGb5B4tio8dtFQzajhH_mi4SEVECAqpkyUg9iWEQdozerpwubdP5njXJOX472lo5zLkpnD0Ryi33Qa3Z7lfQQMK-7KbFfrFqzInDBEZ8JW7t8wnjTB5vkYZDXGo03cczO7jxrpO6YSHzCYGxQeFZty5sw=s0-d

    HÌNH 1.1. Sự phát triển Độc đoán và sự Tự tin Chế độ

    Tuy vậy, sự nhấn mạnh của chúng tôi đến các kỳ vọng ổn định không ngụ ý rằng các áp lực cho dân chủ hóa là không quan trọng. Chúng hết sức quan trọng. Frederick Douglass đã không lầm khi ông tuyên bố một cách nổi tiếng, “Quyền lực không nhượng bộ gì mà không có một đòi hỏi.” Khi các chế độ độc đoán mạnh không đối mặt với áp lực nào cho sự thay đổi, chúng hết sức khó có khả năng để thay đổi hướng đi. Những kẻ chuyên quyền cực kỳ ít có khả năng để ủng hộ các cải cách dân chủ trong sự thiếu vắng các thách thức chính trị.

    Các áp lực cho dân chủ hóa có thể đến từ bên ngoài, như khi Nhật Bản và Đài Loan dân chủ hóa, một phần như một cách để bảo đảm sự ủng hộ an ninh Mỹ đang diễn ra. Chúng có thể đến từ dưới, như khi các cuộc biểu tình dân chủ hóa ồ ạt đã giúp tăng tốc sự thay đổi chế độ ở Hàn Quốc trong cuối các năm 1980. Và các áp lực cho dân chủ hóa có thể đến từ nền kinh tế, như khi sự sụp đổ tai họa của Indonesia trong khủng hoảng tài chính Á châu cuối các năm 1990 đã khiến chiến lược phát triển của chế độ Suharto kiệt sức hiển nhiên một cách đau đớn.

    Các chế độ độc tài đối mặt càng nhiều áp lực như vậy, chúng càng có khả năng hơn để dân chủ hóa. Tuy nhiên là cốt yếu để phân biệt về mặt quan niệm, và để đánh giá thực nghiệm theo cách tách biệt, các áp lực mà các chế độ đối mặt đột ngột từ các sức mạnh chúng có một cách bền bỉ. Các sức mạnh chính trị đáng kể mà các chế độ độc đoán ở châu Á kiến tạo-phát triển tích tụ được trong khi chúng xây dựng nền kinh tế đến đầu tiên và tăng lên từ từ; các áp lực cho sự thay đổi chính trị đến muộn hơn và nổi lên đột ngột hơn, về cơ bản đưa ra các thách thức mới, nhưng cả các lựa chọn mới cho các chế độ độc đoán mạnh.

    Tóm lại, chìa khóa cho cải cách dân chủ trong lý thuyết dân chủ qua sức mạnh của chúng tôi không phải là cảm nhận của các elite độc đoán về một mối đe dọa cách mạng sắp xảy ra và sự sụp đổ chế độ sắp đến. Nó là kỳ vọng có cơ sở của họ về sự ổn định được tiếp tục và thậm chí sự chiến thắng hoàn toàn được tiếp tục sau khi dân chủ hóa xảy ra.8

    Một So sánh Minh họa

    Trước khi trình bày chi tiết hơn lý thuyết của chúng tôi, hãy xét một minh họa. Không trường hợp nào về dân chủ hóa Á châu nhận được sự chú ý toàn cầu lớn hơn phong trào sức Mạnh Nhân dân lật đổ Ferdinand Marcos trong năm 1986 ở Philippines. Một nhà độc tài bị mất tín nhiệm, Marcos bị đuổi khỏi chức vụ, và khỏi đất nước, bởi các cuộc biểu tình ồ ạt làm tê liệt Manila và khiến cho việc giữ quyền lực của ông không thể duy trì được. Bản thân các cuộc biểu tình được thúc đẩy bởi một cuộc đảo chính quân sự chống lại Marcos và bởi một lời cầu xin đầy kịch tính của tổng giám mục Manila, Hồng y Jaime Sin, cho công chúng để tập hợp lại trên các đường phố và buộc Marcos từ chức. Quân đội quá chia rẽ để bảo vệ chức tổng thống của Marcos sau khi ông đã trắng trợn đánh cắp các cuộc bầu cử quốc gia. Những người Mỹ hậu thuẫn cho nhà độc tài già đã làm rõ rằng họ cũng sẽ chẳng giúp ông bám quyền lực.

    Đấy là một ví dụ mẫu mực về dân chủ qua sự yếu kém. Nó là cách được hiểu phổ biến nhất mà dân chủ hóa xảy ra, cả với các học giả nghiên cứu dân chủ hóa và với công chúng rộng hơn mà các hình ảnh đầy kịch tính được phát trên truyền hình, giống những hình ảnh từ phong trào sức Mạnh Nhân dân của Manila, đã khắc vào ký ức của họ. Dân chủ hóa qua sự yếu kém có nghĩa là các đám đông người biểu tình đô thị không ngừng, không thể quản lý được, và đôi khi bạo lực. Nó có nghĩa là một nhà độc tài trốn đi lưu vong, nhận ra không còn con đường nào để giữ quyền lực nữa. Nó có nghĩa một sự thay thế đắc thắng của kẻ bị thất sủng bằng người truyền cảm hứng, như được thấy khi Corazon Aquino, nhân vật mảnh khảnh và khiêm tốn, tuyên thệ nhậm chức giữa một đám đông camera và những người đứng nhìn cổ vũ, trở thành tổng thống được bàu một cách dân chủ của Philippines trong tháng Hai 1986.

    Gần hai năm sau ngày Aquino tuyên thệ như tổng thống Philippines, trong tháng Hai 1988, một sự tuyên thệ tổng thống rất khác xảy ra ở Hàn Quốc gần đó. Mặc bộ âu phục công sở không chê vào đâu được hơn là một bộ quân phục, cựu đại tướng Roh Tae-woo giơ tay phải của mình lên và thề giữ vững nền dân chủ bầu cử mới sinh của Hàn Quốc. Bất chấp dòng dõi quân sự của ông, Roh đã không đảm nhận chức tổng thống như một nhà lãnh đạo quân sự hay như một nhà cai trị độc đoán bất kỳ loại nào. Ông đã được bàu một cách dân chủ vài tháng trước trong năm 1987 như nhà lãnh đạo của Đảng Công lý Dân chủ, mà đã cai trị Hàn Quốc theo cách độc đoán dưới Tướng Chun Doo-hwan. Các cuộc bầu cử dân chủ đã không bị ép buộc bởi một sự đe dọa cách mạng đô thị lật đổ chế độ cũ, bởi một quân đội bị chia rẽ và không trung thành, hay bởi sự bỏ rơi của những người Mỹ hậu thuẫn. Đúng hơn, chúng đã là một sự nhượng bộ chiến lược do các nhà lãnh đạo quân sự và đảng độc đoán của Hàn Quốc, với sự kỳ vọng tự tin tương đối rằng các cuộc bầu cử tự do và công bằng sẽ để cho họ tiếp tục nắm quyền hơn là thừa nhận thất bại hoàn toàn hay, còn tồi hơn, sự lỗi thời của chính họ. Sự tự tin này được thỏa mãn, và Hàn Quốc vẫn là một nền dân chủ hoạt động tốt cho đến ngày nay.

    Không giống Philippines, Hàn Quốc đã trải nghiệm dân chủ qua sức mạnh. Chúng tôi sẽ trình bày tỉ mỉ tất cả những gì điều này muốn nói, về mặt quan niệm và lý thuyết, trong các đoạn tiếp sau. Nhưng vài quan sát về hai trường hợp Á châu cụ thể này đáng đưa ra trước khi làm vậy, để minh họa một số điểm lớn hơn. Thứ nhất, Philippines đã chưa bao giờ là phần của châu Á kiến tạo-phát triển, và vì thế nó không là loại trường hợp chúng tôi xem xét trong cuốn sách này. Sự thực rằng Philippines đã dân chủ hóa qua sự yếu kém là nhất quán với một sự đa dạng rộng rãi của các lý thuyết dân chủ hóa hiện có trong khoa học chính trị. Cũng không ngạc nhiên trong chừng mực Philippines đã không nới lỏng các quan hệ chính trị và kinh tế hậu thuộc địa của nó với Hoa Kỳ theo một cách cho phép nó theo đuổi sự phát triển kinh tế nhanh do nhà nước-lãnh đạo, như nhiều láng giềng Đông Nam Á của nó đã làm.9 Các nước như Philippines, mà không xây dựng được hoặc sức mạnh độc đoán hay sức mạnh kiến tạo-phát triển, đơn giản chưa bao giờ có sự lựa chọn dân chủ hóa qua sức mạnh.

    Hàn Quốc là kiểu trường hợp chúng tôi khám phá trong cuốn sách này. Nó kể một câu chuyện ít quen biết hơn nhiều về dân chủ hóa xảy ra thế nào. Tuy nhiên ở châu Á kiến tạo-phát triển, nó là câu chuyện quan trọng nhất để biết. Các chế độ độc đoán có thể dân chủ hóa từ một vị trí sức mạnh, và các elite độc đoán đó có thể duy trì phần lớn sức mạnh của chúng trong một hình thức dân chủ mới. Trong các ví dụ về dân chủ qua sức mạnh mà chúng tôi xem xét trong cuốn sách này, các cựu elite độc đoán có thể trở thành các elite dân chủ thành công. Thật quan trọng, điều này không có nghĩa rằng nền dân chủ nảy sinh từ các sự nhượng bộ độc đoán là ít có ý nghĩa dân chủ hơn nền dân chủ nảy sinh qua sự sụp đổ độc đoán. Thực ra, Hàn Quốc vẫn là một nền dân chủ lành mạnh hơn Philippines ngày nay rất nhiều, mặc dù sự chuyển đổi dân chủ của nó đã không đến với sự hồi hộp phấn chấn xúc cảm ngay lập tức về sự rời đi ô nhục của một nhà độc tài, được phát trực tiếp trên các làn sóng toàn cầu.

    Sức Mạnh versus (đối lại) sự Yếu kém

    Dân chủ qua sức mạnh không phải là kịch bản điển hình qua đó dân chủ được kỳ vọng nảy sinh. Trong tiết đoạn này, chúng tôi tương phản kịch bản dân chủ-qua-sức mạnh ít được xem xét về mặt lịch sử của chúng tôi với con đường quen thuộc hơn về dân chủ hóa qua sự yếu kém độc đoán. Chắc chắn, mỗi chế độ độc đoán có một hỗn hợp của các sức mạnh và những sự yếu kém, và các sức mạnh không như các sự yếu kém cũng chẳng thể được bỏ qua trong bất kể trường hợp thế giới-thực nào của dân chủ hóa. Tuy nhiên có những sự khác biệt nổi bật giữa các trường hợp trong đó sức mạnh chế độ chiếm ưu thế trong quá trình dân chủ hóa và các trường hợp trong đó sự yếu kém độc đoán là nhân tố chủ chốt thúc đẩy sự thay đổi chế độ.

    Trong sự hiểu biết chính tắc về chủ nghĩa độc đoán kết thúc và nền dân chủ bắt đầu như thế nào, mà chúng tôi gọi là dân chủ qua sự yếu kém, câu chuyện kể đại loại thế này: Các elite cai trị bị chia rẽ sâu sắc. Họ đối mặt với một triển vọng sắp xảy ra ngày càng tăng về sự lật đổ bạo lực nếu họ không nhượng bộ. Như thế họ hoặc ngồi lại với các nhà lãnh đạo đối lập để thương lượng một sự rút lui hòa bình bình khỏi quyền lực hay đơn giản chạy trốn khỏi hiện trường và bỏ lại một chế độ bị sụp đổ đằng sau họ. Dân chủ hóa xuất hiện như phương sách cuối cùng của các nhà lãnh đạo độc đoán. Trong các kịch bản này, sự sụp đổ của chế độ là tương đối đột ngột, và tính chính danh của nó hoàn toàn bị từ bỏ khi một nhóm cai trị hoàn toàn mới lên nắm quyền. Chế độ (cũ) trở thành đối lập, nếu nó sống sót cuộc chuyển đổi, và đối lập (cũ) trở thành chế độ (mới). Diễn đạt đơn giản, chế độ sụp đổ, thừa nhận sự thất bại. Cái chết của chế độ Marcos ở Philippines trong năm 1986 là một ví dụ kinh điển.

    Về tất cả các khía cạnh được nhắc tới trước này, dân chủ qua sức mạnh trông rất khác với dân chủ qua sự yếu. Thay cho việc bị chia rẽ vào lúc bắt đầu quá trình dân chủ hóa, các elite cầm quyền tương đối thống nhất. Mặc dù các áp lực cho dân chủ hóa có thể đang tăng lên, không có mối đe dọa sắp xảy ra nào về chế độ độc đoán đương nhiệm bị lật đổ. Thay cho một sự đe dọa cách mạng đối mặt với chế độ và cho nó ít lựa chọn trừ nhượng bộ, các kỳ vọng về sự ổn định và thậm chí sự tiếp tục chiến thắng sau khi dân chủ hóa đặt chế độ vào một tình thế tương đối ít rủi ro. Chế độ độc đoán đương nhiệm như thế thiết lập các quy tắc mới và một sân chơi bình đẳng đáng kể một cách phòng ngừa và đơn phương, mà không bị buộc phải thương lượng các chi tiết với các đối thủ của nó. Điều này thường lấy hình thức của các nhượng bộ liên tiếp của các cải cách dân chủ hóa từ từ. Tính chính danh chính trị của chế độ độc đoán được xác định lại, không phải bị từ bỏ. Thay cho bị ép sang một bên hay bước sang bên để nhường đường cho các đối thủ của họ, các elite cầm quyền thường tiếp tục cai trị, hay ít nhất chia sẻ quyền lực trong một liên minh cầm quyền, bất chấp sự thay đổi chế độ. Chuyển đổi dân chủ của Hàn Quốc trông giống kịch bản sức mạnh này hơn kịch bản yếu kém đã diễn ra ở Philippines gần như đồng thời và giữa sự phô trương toàn cầu lớn hơn nhiều.

    Một cách thêm, mà theo đó dân chủ qua sức mạnh khác với sự hiểu phổ biến, đáng được nhấn mạnh. Cũng giống như cách các học giả quan hệ quốc tế tin các nước có khuynh hướng cẩu thả lao vào chiến tranh, các học giả chính trị so sánh ngày càng cho rằng dân chủ hóa cũng xảy ra tình cờ, hơn là theo thiết kế.10 Loại tính toán sai nào đó đặt một chế độ độc đoán lên một dốc trơn tới dân chủ hóa.

    Quan điểm của chúng tôi không đối lập hoàn toàn với sự diễn giải này về dân chủ diễn ra tuần tự như thế nào, nhưng tuy nhiên nó là khác. Chúng tôi không cho rằng những kẻ chuyên quyền có thông tin hoàn hảo. Họ không thể nhường dân chủ với sự nhìn thấy trước. Đúng hơn, chúng tôi xem dân chủ qua sức mạnh như một quá trình thử nghiệm có thể đảo ngược. Khi các chế độ độc đoán mạnh bắt đầu tự do hóa, chúng không biết chắc chắn quá trình cải cách sẽ dẫn đến đâu. Chúng có một kỳ vọng hết sức am hiểu về sự ổn định và thành công tiếp tục; nhưng chính trị là chính trị, tình hình luôn có thể trở nên tồi hơn và ít suôn sẻ hơn tình hình được kỳ vọng. Nếu thế, chế độ độc tài đang tự do hóa có thể chấm dứt và chí ít thử quay lại hiện trạng độc đoán trước kia. Chúng có thể đảo ngược thử nghiệm.11

    Trong thực tế, một đức hạnh cho các nhà lãnh đạo độc đoán đương nhiệm để dân chủ hóa một cách phòng ngừa và từ một vị thế mạnh là, họ có khả năng hơn nhiều để hướng dẫn quá trình chuyển đổi theo ý thích của riêng họ, duy trì năng lực để sang số nếu và khi sự bất ngờ xảy ra. Chế độ càng mạnh khi nó bắt đầu thử nghiệm, cơ hội của nó càng tốt để kiểm soát sự chuyển đổi. Nếu, ngược lại, chế độ đợi quá lâu và lãng phí cửa sổ cơ hội của nó để biến đổi bản thân mình và hệ thống chính trị theo các điều kiện của riêng nó, nó có khả năng hơn nhiều để mất hoàn toàn sự kiểm soát quá trình. Đấy là cái đã diễn ra trong tiến trình của các năm 2010 ở Malaysia, Cambodia, và Hồng Kông, và cái có thể có tiềm năng diễn ra trong tương lai rất gần ở Trung Quốc, Singapore, và Việt Nam.

    Đối với các chế độ độc đoán mạnh giống các chế độ chiếm ưu thế ở châu Á kiến tạo-phát triển, tính toán sai lớn nhất khi nói đến dân chủ hóa là việc đợi quá lâu để thử dân chủ hóa. Các chế độ chuyển đổi qua sức mạnh phải làm vậy trước khi thời kỳ “tốt nhất trước khi” hết hạn. Mỗi chế độ độc đoán đạt đỉnh cao lịch sử của nó, và bí quyết để dân chủ qua sức mạnh là việc theo đuổi nó khi đỉnh cao đó vẫn còn gần hơn là xa về mặt lịch sử. Chế độ càng gần với đỉnh cao quyền lực của nó, nó càng có khả năng thành công để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh. Các cơ hội cho dân chủ hóa qua sức mạnh hầu như chắc chắn không phải là vô tận bởi vì các sức mạnh độc đoán hầu như chắc chắn không phải là vô tận. Chúng tôi cho rằng điều này khiến cho việc dân chủ qua sức mạnh là một lựa chọn duy lý cho các chế độ độc đoán mạnh.

    Một Vùng của các Cụm

    Châu Á kiến tạo-phát triển được đặc trưng bởi các sức mạnh quan trọng nhưng không tương đương ngang mười hai trường hợp của nó. Trong cụm bao gồm “các nhà nước kiến tạo-phát triển” mẫu mực của thế giới, gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan, các sức mạnh này đã thật đáng chú ý.12 Trong cụm gồm các chế độ quân sự Đông Nam Á—cụ thể là, Indonesia, Myanmar, và Thái Lan—các sức mạnh chính trị này ít ấn tượng hơn rất nhiều.13 Thế nhưng ngang dải chiết trung này của sáu nước Á châu, câu chuyện cốt lõi vẫn như nhau: các cải cách dân chủ đã bắt đầu khi các elite độc đoán cảm thấy sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định đáng kể, và không phải khi chúng ở trong một vòng xóay tử thần của khủng hoảng chính trị và sự sụp đổ sắp xảy ra.14 Hơn nữa, các chế độ độc đoán này càng có sức mạnh trước khi dân chủ hóa, sự tự tin của chúng sẽ càng được thỏa mãn sau khi dân chủ hóa. Chúng tôi chứng minh rằng các chế độ độc đoán này có thể được sắp xếp ngang một phổ sức mạnh trước khi dân chủ hóa mà sau đó sẽ được phản ánh trong phổ thành công dân chủ của chúng sau đó.

    Như thế không phải ngẫu nhiên mà dân chủ hóa đã diễn ra khá suôn sẻ cho các đảng bảo thủ đương nhiệm mạnh ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan sau chiến tranh, còn các chế độ do quân đội-lãnh đạo ở Indonesia, Thái Lan, và Myanmar đã trải qua những sự chuyển đổi chông gai hơn nhiều và có thể đảo ngược từ chủ nghĩa độc đoán sang dân chủ.15 Chắc chắn là điều rõ ràng sau này đã không hoàn toàn rõ ràng lúc đó. Thế nhưng “tính chắc chắn (settledness)” hay “không chắc chắn (unsettledness)”16 tương đối của các quá trình tự do hóa của sáu chế độ này có thể được giải thích rất tốt bởi các mức sức mạnh độc đoán mà từ đó các quá trình song song này bắt đầu. Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc sau chiến tranh—các nước chúng tôi gom lại như cụm “nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (developmental statist)”—đã là các chế độ độc đoán mạnh nhất và đã trở thành các nền dân chủ mạnh nhất, bền bỉ nhất ở châu Á. Chúng tôi khám phá các trường hợp này và cuộc hành trình của chúng từ sự phát triển đến dân chủ hóa chi tiết trong suốt các chương 3 đến 5. Các thử nghiệm dân chủ trong cụm “quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (developmental militarist)” gồm Thái Lan, Myanmar, và Indonesia (chương 7), khi so sánh, đã ít chắc chắn hơn nhiều và dễ bị đảo ngược độc đoán hơn nhiều.

    Trong trường hợp Thái Lan, thử nghiệm với dân chủ qua sức mạnh mà bắt đầu trong đầu các năm 1980 sẽ bị đảo ngược hoàn toàn, mặc dù cần đến hàng thập niên cho sự sụp đổ dân chủ xảy ra. Thử nghiệm dân chủ hóa của Myanmar trong các năm 2010 được cho là đã bị đình trệ để thực sự thiết lập nền dân chủ và sau đó bị đảo ngược hoàn toàn, như ở Thái Lan, trong cuộc đảo chính quân sự 2021. Chỉ ở Indonesia một chế độ do quân đội lãnh đạo đã chuyển từ những sự thừa nhận dân chủ ban đầu sang sự củng cố dân chủ mà không có sự đảo ngược độc đoán. Chúng tôi cho rằng thành công tương đối này phản ánh sức mạnh độc đoán tiền lệ của Indonesia, và đặc biệt vai trò lớn hơn do một đảng cầm quyền có gốc rễ bảo thủ sâu sắc đã đóng trong thời kỳ độc đoán của Indonesia, mà cả Thái Lan và Myanmar đã vô cùng thiếu (và tai họa cho nền dân chủ).

    Tiêu điểm theo lối kinh nghiệm trước tiên của cuốn sách của chúng tôi là để khám phá những cách khác nhau mà dân chủ qua sức mạnh đã diễn ra trong sáu nước Á châu kiến tạo-phát triển. Thế nhưng lý lẽ của chúng tôi rằng các phổ sức mạnh độc đoán chuyển một cách có thể dự đoán được thành các phổ thành công dân chủ cũng có các ngụ ý quan trọng cho sáu trường hợp ở châu Á kiến tạo-phát triển mà đã không theo đuổi dân chủ qua sức mạnh. Không giống cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan) và cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Indonesia, Myanmar, và Thái Lan) được nhắc đến trước của chúng tôi, sáu nền kinh tế chính trị Á châu này đã theo đuổi sự tránh dân chủ (democracy avoidance) hơn là những sự thừa nhận dân chủ từ các vị trí sức mạnh độc đoán của chúng. Nhưng giống sáu trường hợp thừa nhận dân chủ, các trường hợp tránh dân chủ thuộc về hai cụm của riêng chúng: cụm “(thuộc địa Anh) Britannia kiến tạo-phát triển (developmental Britannia)” (Singapore, Malaysia, và Hồng Kông) và cụm “chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển (developmental socialism)” (Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia).

    Các chương kinh nghiệm cuối cùng của cuốn sách của chúng tôi (các chương 8 và 9) giải quyết vấn đề về liệu dân chủ qua sức mạnh có là khả thi cho hai cụm nước cuối này như ở các phần khác của châu Á kiến tạo-phát triển. Đặc biệt lý thú là hai nước Á châu kiến tạo-phát triển, gã khổng lồ Trung Quốc, và gã Tí hon Singapore, thu hút rất nhiều sự chú ý toàn cầu vì chủ nghĩa độc đoán bền bỉ của chúng bất chấp sự mở rộng sự giàu có quốc gia một cách ngoạn mục.

    Bảng 1.1 tóm tắt sự tạo cụm kiến tạo-phát triển và dân chủ của toàn bộ vùng. Dọc theo phía bên trái của bảng chúng ta thấy hai cụm “các trường hợp thừa nhận (dân chủ),” được viết nghiêng, đã theo đuổi dân chủ từ các vị trí của sức mạnh tương đối vào lúc này hay lúc khác. Hai trường hợp ĐƯỢC VIẾT HOA, Thái Lan và Myanmar, là “các trường hợp bị đảo ngược” đã thấy các cuộc đảo chính hủy bỏ các thừa nhận dân chủ đó. Ở bên phải là hai cụm, không được viết nghiêng, đã tránh việc đưa ra các nhượng bộ như vậy, bất chấp việc có sức mạnh độc đoán đủ để làm vậy.

    Trong số sáu “trường hợp tránh” dân chủ này ở bên phải của bảng 1.1, tất cả đều đã phát triển đủ sức mạnh độc đoán để thừa nhận dân chủ và phát đạt; nhưng chẳng nước nào đã chấp nhận. Một số—cụ thể là, Trung Quốc, Singapore, và Việt Nam—vẫn đủ mạnh để làm vậy. Chúng tôi dùng chữ in đậm để nhận diện chúng như “các trường hợp ứng viên” bởi vì chúng vẫn có thể dân chủ hóa qua sức mạnh nếu các ban lãnh đạo độc đoán chọn làm thế.

    Ngược lại, ba trường hợp tránh khác của chúng tôi đều đã để bản thân chúng yếu đi đến mức chúng chỉ có thể dân chủ hóa qua sự yếu kém, không phải qua sức mạnh. Sớm hơn đã là, nhưng không còn là các ứng viên mạnh nữa, Malaysia, Cambodia, và Hồng Kông được gạch dưới như cái chúng tôi gọi là “các trường hợp bị cay đắng,” vì các lý do sẽ trở nên rõ hơn muộn hơn trong chương này. Chúng đã đều bỏ lỡ cửa sổ cơ hội tốt nhất của chúng để thừa nhận dân chủ mà không thừa nhận thất bại ngay lập tức. Các chế độ đương nhiệm đã chọn để bám vào đỉnh cao độc đoán quá khứ xa của chúng, dựa vào các phương tiện ngày càng áp bức để bám lấy quyền lực, đến mức dân chủ qua sức mạnh không còn là một lựa chọn khả thi nữa.

    BẢNG 1.1. Các Cụm Kiến tạo-Phát triển và Các hình mẫu Dân chủ hóa

    Sức mạnh Cao

    Chủ nghĩa nhà nước Kiến tạo-Phát triển


    Britannia Kiến tạo-Phát triển

    1. Nhật Bản


    1. Singapore

    2. Đài Loan


    2. Malaysia

    3. Hàn Quốc


    3. Hồng Kông

    Sức mạnh bậc trung



    Chủ nghĩa quân phiệt Kiến tạo-Phát triển


    Chủ nghĩa xã hội Kiến tạo-Phát triển

    1. Indonesia


    1. Trung Quốc

    2. THÁI LAN


    2. Việt Nam

    3. MYANMAR


    3. Cambodia

    Ghi chú: kiểu được viết nghiêng cho biết các trường hợp thừa nhận (6); kiểu không được viết nghiêng cho biết các trường hợp tránh dân chủ (6); kiểu in đậm cho biết các trường hợp ứng viên dân chủ (3); kiểu được gạch dưới cho biết các trường hợp bị cay đắng (3); kiểu ĐƯỢC VIẾT HOA cho biết các trường hợp đảo ngược (2).

    Chỉ thời gian sẽ mới cho biết liệu “ba trường hợp ứng viên” của châu Á kiến tạo-phát triển (Trung Quốc, Singapore, và Việt Nam) cuối cùng sẽ trở thành “các trường hợp bị cay đắng” (như Cambodia, Hồng Kông, và Malaysia)—tức là, các trường hợp độc đoán mạnh từ chối để dân chủ hóa qua sức mạnh cho đến khi chúng trở nên quá yếu để làm vậy—hay không.

    Bảng 1.1 nên được đọc theo chiều dọc cũng như theo chiều ngang. Một chế độ độc đoán càng giàu có khi đối mặt các áp lực để dân chủ hóa, nó chiếm chỗ càng cao trong bảng. Đại thể, sáu trường hợp thu nhập-cao hơn (cụm nhà nước chủ nghĩa và cụm Britannia tương đối giàu có) đứng trên sáu trường hợp với các mức thu nhập quốc gia cấp trung hơn (các cụm quân phiệt chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đang tăng nhưng đi chậm đằng sau). Vì các lý do cơ bản được trình bày sớm hơn trong hình 1.1, các mức giàu có này liên kết hết sức mạnh nếu không hoàn hảo với sức mạnh độc đoán và sự tự tin. Các chế độ càng giàu thì có khuynh hướng có các hồ sơ thành tích phát triển càng tốt và có được các nguồn sâu hơn của tính chính danh thành tích làm tăng sự tự tin chiến thắng của chúng, kể cả sự giảm nghèo lớn hơn và sự mở rộng quy mô của tầng lớp trung lưu để ủng hộ sự tự tin ổn định của chúng.17

    Chiều dọc của bảng 1.1 như thế đại thể phô bày các mức của sức mạnh cũng như sự giàu có. Một điểm cốt yếu của lý lẽ của chúng tôi nằm ở đây: mặc dù sức mạnh độc đoán là một điều kiện trước cho dân chủ qua sức mạnh, các mức sức mạnh không phải là một sự giải thích cho các nước nào theo đuổi nó và các nước nào thì không. Một cách nghịch lý, dân chủ qua sức mạnh không được giải thích bởi bản thân sức mạnh; các chế độ mạnh không nhất thiết dân chủ hóa. Đúng hơn, khả năng của một nền dân chủ-qua-kịch bản sức mạnh đang mở ra được giải thích hiệu quả nhất bởi cụm kiến tạo-phát triển trong đó nước đó xây dựng dần sức mạnh của nó. Mọi trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển và quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã đều chấp nhận cải cách dân chủ hóa, ít nhất trong một thời gian; mọi nước trong các cụm Britannia và xã hội chủ nghĩa đã tránh các cải cách dân chủ, kiên quyết từ chối thừa nhận dân chủ.

    Vì sao các cụm kiến tạo-phát triển định hình các hình mẫu dân chủ hóa sâu sắc, và thậm chí một cách chính xác đến vậy? Như chúng tôi nêu chi tiết dưới đây, đó là bởi vì các cụm giúp xác định các loại tín hiệu và chiến lược mà, khi kết hợp với bản thân sức mạnh, xác định tốt nhất liệu một sự chuyển đổi dân chủ-qua-sức mạnh có khả năng xảy ra.18 Các tín hiệu làm tăng khả năng của cải cách dân chủ khi chúng truyền đạt hoặc rằng việc duy trì chủ nghĩa độc đoán không phải là thuốc bách bệnh cho bất kỳ bệnh quản trị hiện hành nào hiện thời đối mặt với chế độ (cái chúng tôi gọi là “các tín hiệu báo điềm gở”) hay rằng việc triệu tập các cuộc bầu cử tự do và công bằng sẽ không dẫn đến một kết quả tai hại cho các nhà độc đoán đương nhiệm (cái chúng tôi gọi là “các tín hiệu làm yên lòng”).

    Trong phân tích cuối cùng, dân chủ qua sức mạnh luôn luôn là một sự lựa chọn. Cụ thể hơn, nó luôn là một lựa chọn chiến lược được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo độc đoán đương nhiệm suy ngẫm sự pha trộn và sự cân đối của các sức mạnh họ đã tích tụ được và sở hữu versus (đối lại) các kiểu và sức mạnh của các tín hiệu họ đối mặt. Tuy vậy, nó không luôn luôn là sự lựa chọn mà các nhà lãnh đạo độc đoán đưa ra cho dù chúng có thể mạnh đến thế nào.

    Trước khi đưa ra toàn bộ lập luận đó chi tiết hơn, chúng tôi định nghĩa các khối xây dựng chủ chốt trong lý thuyết của chúng tôi: nền dân chủ, sức mạnh, và sự tự tin.

    Nền Dân chủ là Gì?

    Nền dân chủ là một hình thức chính quyền trong đó các đảng và các chính trị gia đối lập được trao cơ hội không bị cản trở để cạnh tranh vì sự ủng hộ dân chúng, và như thế vì quyền lực, trong các cuộc bầu cử quốc gia. Đấy không phải là tất cả những gì nền dân chủ có nghĩa là, nhưng nền dân chủ không thể tồn tại mà không có nó. Cuốn sách này hoàn toàn tập trung vào vấn đề về làm thế nào các chế độ độc đoán, mà về thực chất cản trở các đối thủ của chúng khỏi việc cạnh tranh vì sự ủng hộ dân chúng và quyền lực quốc gia, lại loại bỏ các sự cản trở thực chất đó. Theo ẩn dụ tình cờ của Steven Levitsky và Lucan Way, nền dân chủ đòi hỏi một sân chơi ngang bằng.19 Cuốn sách này khám phá và giải thích vì sao một số chế độ độc đoán làm ngang bằng sân chơi mà trên đó chúng cạnh tranh với các đối thủ của chúng, còn các chế độ khác thì không.

    Có rất nhiều vấn đề cho sự phát triển dân chủ mà sự tập trung này đặt sang một bên. Một nền dân chủ lành mạnh hoàn toàn tôn trọng các quyền của các thiểu số, áp đặt các ràng buộc lên nhà điều hành chính trị và các tổ chức cưỡng bức của nhà nước, nuôi dưỡng sự tham gia chính trị rộng rãi, cho phép sự minh bạch đáng kể vào các hoạt động bên trong của chính phủ, và tối thiểu hóa ảnh hưởng quá khổ mà những công dân rất giàu thường có đối với quá trình bầu cử. Chẳng gì trong cuốn sách của chúng tôi giải thích vì sao một số nước làm ăn khá hơn các nước khác về các đức hạnh dân chủ vô cùng quan trọng này. Chừng nào các chế độ độc đoán thừa nhận các cuộc bầu cử tự do và công bằng và tôn trọng kết cục của các cuộc bầu cử đó, chúng đã đưa ra một sự thừa nhận dân chủ thực chất, cho dù chúng vẫn còn rất xa việc thiết lập một nền dân chủ chất lượng cao, với tất cả những gì nó đòi hỏi.

    Mặc dù việc làm ngang bằng sân chơi đơn thuần có thể dường như là một sự thay đổi khiêm tốn, tuy nhiên nó đòi hỏi sự biến đổi thực chất và đáng kể của hệ thống chính trị và các quy tắc trò chơi của nó. Việc làm ngang bằng sân chơi là không tầm thường. Đặc biệt quan trọng là các quyền tự do mà phải đi trước và đi cùng một quá trình bầu cử tự do và công bằng. Các đảng chính trị phải được phép tự do để hình thành, huy động, và truyền đạt; báo chí phải không bị kiểm duyệt; các cử tri phải có khả năng để đưa ra các sự lựa chọn trên cơ sở của thông tin tự do-lưu thông hơn là sự ép buộc và sự hăm dọa. Khi các chính phủ được bàu không thỏa mãn các tiêu chuẩn này, chúng ta thường gọi chúng là “chế độ độc đoán bầu cử,” và như thế thậm chí không còn là dân chủ tối thiểu nữa.20

    Ít quan trọng trong phân tích của chúng tôi là các quyền tự do mà chúng ta hy vọng và tin phải tiếp sau các cuộc bầu cử dân chủ. Các nhà hành pháp chóp bu có thể chà đạp quốc hội; cảnh sát có thể được trao giấy phép để giết các nghi phạm mà không có thủ tục tố tụng hợp pháp; các đa số sắc tộc có thể tấn công thân thể các thiểu số tôn giáo với sự miễn hình phạt và không có sự can thiệp chính quyền; và vân vân. Đáng chú ý, các hành động như vậy thường được mô tả như “nền dân chủ phi-tự do.” Dù những hành động và không-hành động chính phủ có thể kinh khủng đến thế nào, chúng không có nghĩa rằng một nước đã mất thực chất dân chủ cốt lõi của nó: cơ hội không bị cản trở cho những người bên ngoài chính quyền để cạnh tranh trong các cuộc bầu cử dân chủ vì quyền lực bên trong chính quyền.21

    Tóm lại, sự cạnh tranh bầu cử mà không có các trở ngại thực chất có thể không là khía cạnh quan trọng nhất hay đáng mong muốn nhất của nền dân chủ. Nhưng nó là một khía cạnh trung tâm của nền dân chủ, và nó là khía cạnh chúng tôi tập trung vào trong cuốn sách này. Như một thành tựu dân chủ, nó đủ quan trọng để đáng được giải thích.

    Sức mạnh là Gì?

    Sau khi đưa ra cách tiếp cận của chúng tôi đến vấn đề về nền dân chủ, chúng tôi tiếp cận thế nào đến câu hỏi về sức mạnh độc đoán? Sức mạnh độc đoán trong khuôn khổ của chúng tôi chủ yếu là tuyệt đối hơn là tương đối. Nói cách khác, sức mạnh của một chế độ độc đoán đương nhiệm không tự động giảm khi sức mạnh đối lập tăng lên. Một đối lập mạnh hơn có nghĩa là các áp lực lên một chế độ độc đoán đang gia tăng. Thế nhưng nó chẳng nói gì cho chúng ta về chế độ có bao nhiêu sức mạnh, và đã tích tụ được trong hàng thập niên phát triển, để đương đầu với thách thức tăng lên đó. Trong thực tế, các nhà hoạt động chống chủ nghĩa độc đoán có thể ủng hộ “đảng độc đoán kế nhiệm” sau dân chủ hóa bởi vì thành tích kiến tạo-phát triển của nó, và do đó lời kêu gọi của nó cho các cử tri muốn thấy hàng thập niên phát triển tiếp tục.22 Điều này được chứng minh rõ ràng nhất trong trường hợp Quốc Dân Đảng của Đài Loan.

    Sức mạnh của bất kỳ chế độ độc đoán nào là một đối tượng di động và khó để đo. Chúng tôi tập trung vào các định chế và các liên minh chống đỡ chế độ theo thời gian. Các định chế là tâm của sức mạnh độc đoán. Với điều này, chúng tôi chủ yếu muốn nói các tổ chức hơn là các quy tắc. Các quy tắc ít quan trọng dưới chế độ chuyên chế hơn dưới nền dân chủ vì là dễ cho ban lãnh đạo độc đoán hơn cho một chính phủ dân chủ để vội vã thay đổi chúng. Tuy nhiên các tổ chức chính trị thường tồn tại trong khung cảnh độc đoán, và có ảnh hưởng lớn.23 Ví dụ, “quy tắc” ở Trung Quốc rằng các chủ tịch nước chỉ có thể phục vụ hai nhiệm kỳ trong hàng thập niên đã được xem là một viên đá tảng của sự thể chế hóa của chế độ Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Tập Cận Bình đã xóa bỏ “định chế” này trong năm 2018, cho phép ông cai trị suốt đời—chí ít về nguyên tắc. Sự cai trị của ông chỉ có thể tiếp tục chừng nào ông lãnh đạo bản thân ĐCSTQ. Trong quá khứ, hiện tại, và trong tương lai gần, ĐCSTQ là định chế quan trọng nhất ở Trung Quốc.

    Bản chất của các định chế là chúng cấu trúc các tương tác chính trị theo thời gian, đến mức ngay cả khi thế hệ lãnh đạo hiện thời rời khỏi hiện trường, chúng ta có thể kỳ vọng các hình mẫu tương tác được xác lập và nền tảng lâu dài của sự thống trị ít nhiều vẫn tiếp tục. Trong khung cảnh độc đoán, chính các tổ chức hơn là các quy tắc là cái trao cho chế độ một cảm giác liên tục và tính có thể dự đoán được theo thời gian. Chúng là nơi các tương tác lặp đi lặp lại, ngay cả khi các nhà lãnh đạo độc đoán thay đổi các quy tắc tương tác bên trong và giữa các tổ chức này một cách đột ngột. Các tổ chức độc đoán này trải từ cực kỳ mạnh đến yếu một cách thảm hại. Tại châu Á kiến tạo-phát triển, chúng đã có khuynh hướng là đặc biệt mạnh và có khả năng, mặc dù phổ trải từ các trường hợp mạnh nhất của chúng ta, như Đài Loan, Singapore, và Nhật Bản, đến các trường hợp yếu nhất của chúng ta, như Cambodia, Thái Lan, và Myanmar, là khá rộng.

    Tổ chức quan trọng nhất trong bất kể khung cảnh độc đoán nào là bộ máy nhà nước.24 Trong khi các nhà lãnh đạo và các chế độ đến và đi, “cái lồng sắt” của nhà nước—với nhiều cơ quan quan liêu của nó như các song sắt riêng lẻ giữ vững nó—vẫn còn. Khi nhà nước tuyển mộ nhân sự của nó theo cách trọng dụng nhân tài, trao cho các nhân viên đó mức độ tự chủ nào đó khỏi sự can thiệp hàng ngày của ban lãnh đạo chính trị, và đầu tư cho các nhân viên đó với các nguồn lực tài chính và cơ sở hạ tầng tổ chức cần thiết để thực hiện các mục tiêu chính sách quốc gia, thì nhà nước là khá mạnh.

    Các nhà nước với các đặc trưng này nói chung được gọi là Weberian hay quan liêu.* Ngược lại, khi nhân viên nhà nước được tuyển mộ trên cơ sở cá nhân hơn là trọng dụng nhân tài và bị từ chối sự tự trị, các nguồn lực, và cơ sở hạ tầng cần thiết để quản trị hiệu quả xã hội, nhà nước là yếu. Các nhà nước yếu như vậy thường được mô tả như nhà nước gia sản (patrimonial).

    Các hệ lụy của sức mạnh versus sự yếu kém nhà nước là khổng lồ. Chỉ các nhà nước Weberian có thể là các nhà nước kiến tạo-phát triển, trong khi các nhà nước gia sản thường suy thoái thành các hình thức cai trị săn mồi hơn. Trong khi các nhà nước thế giới-thực thường kết hợp các đặc tính quan liêu và gia sản, thể hiện sức mạnh trung gian như một kết quả, sự phân biệt vẫn có nhiều thông tin và hữu ích về mặt giải tích.25

    Tính trung bình, các nhà nước Á châu kiến tạo-phát triển là Weberian hơn và ít gia sản hơn các đối tác đương thời của chúng khắp thế giới hậu-thuộc địa. Tuy nhiên phổ sức mạnh quan liêu ngang vùng này là rất rộng. Bên trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan, các chế độ quan liêu từ lâu đã ở giữa các nhà nước mạnh nhất và hiệu quả nhất của thế giới. Trung Quốc kể từ cuối các năm 1970 cũng nổi bật bên trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển vì chế độ nhân tài, sự tự trị, và sự tháo vát tương đối của bộ máy quan liêu của nó, chí ít so với các trường hợp khác trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, Việt Nam và Cambodia. Sức mạnh quan liêu cũng rất cao ở Singapore, và so sánh thuận lợi với láng giềng và đồng bạn cựu thuộc địa Anh của nó Malaysia, mà từ lâu đã kết hợp các đặc tính Weberian và gia sản. Cuối cùng, trong cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, Myanmar đứng tách biệt vì sự yếu kém tương đối của các tổ chức quan liêu của nó, còn bộ máy quan liêu của Thái Lan, và đặc biệt bộ máy quan liêu kinh tế của nó, có một lịch sử ấn tượng hơn về năng lực và sự tự trị. Indonesia nằm đâu đó ở giữa, với một di sản thuộc địa ban đầu của một bộ máy quan liêu mạnh, tiếp sau bởi các hình mẫu hết sức gia sản của sự cai trị độc đoán. Sức mạnh nhà nước không chỉ thay đổi ngang các nước mà cả theo thời gian bên trong các nước nữa.

    Tuy vậy, các nhà nước không chỉ cai trị dân cư qua bộ máy quan liêu. Đặc biệt trong khung cảnh độc đoán, chúng cũng cưỡng bức họ qua bộ máy an ninh của nhà nước, kể cả các tổ chức kiểm soát bằng cảnh sát, các cơ quan tình báo, và cuối cùng quân đội. Hệt như với các tổ chức quan liêu, sức mạnh cho các tổ chức cưỡng bức này phụ thuộc vào các nguồn lực sẵn có và một cơ sở hạ tầng được xây dựng rộng rãi cho sự cai trị. Tuy nhiên nó không phụ thuộc vào các đặc trưng Weberian. Ngược lại, một bộ máy cảnh sát, tình báo, hay quân sự, mà hưởng sự tự trị đáng kể để bỏ qua các áp lực chính trị từ trên, không phải là loại bộ máy cưỡng chế mà một ban lãnh đạo độc đoán thường muốn. Vì vậy, khi nói đến các tổ chức cưỡng bức, sức mạnh độc đoán phụ thuộc không phải vào các đặc trưng Weberian trụ đỡ một bộ máy quan liêu mạnh, vì nó phụ thuộc vào sự cố kết chính trị của những người chỉ huy và triển khai lực lượng.26

    Trên mặt trận này, chúng ta thấy ít sự biến đổi hơn nhiều trong sự cố kết chính trị của các tổ chức cưỡng bức trong các chế độ độc đoán của châu Á kiến tạo-phát triển hơn chúng ta thấy trong năng lực Weberian của các tổ chức quan liêu của chúng. Hầu như không nơi nào ở châu Á kiến tạo-phát triển sự không trung thành hay chủ nghĩa bè phái đã là một sự cản trở lớn ngăn chặn các chế độ độc đoán khỏi việc dựa vào các tổ chức cưỡng bức để dập tắt và đàn áp sự bất đồng chính kiến. Các nguồn lực cưỡng bức của sức mạnh đã thật ấn tượng hầu như khắp toàn bộ khu vực.

    Đấy là một lý do chính vì sao dân chủ hóa đã không diễn ra ở châu Á kiến tạo-phát triển qua sự sụp đổ độc đoán. Những kẻ chuyên quyền trong khu vực không tự do hóa bởi vì họ đã nghi ngờ năng lực của quân đội và cảnh sát của họ để bảo vệ họ chống lại các mối đe dọa dân chúng. Họ đã làm vậy bởi vì họ đã có lý do rất chính đáng để kỳ vọng các tổ chức chính trị và kinh tế quan trọng nhất của chế độ đương nhiệm để kéo dài và thậm chí phồn thịnh dưới các điều kiện dân chủ mới. Khi nền dân chủ được theo đuổi từ một vị trí sức mạnh, nền dân chủ mang lại cho các bộ máy quan liêu, các quân đội, và các lực lượng cảnh sát một cuộc sống mới hơn là việc rung lên một hồi chuông chết chóc. Dân chủ hóa cũng có thể tỏ ra nhất quán hoàn hảo với các lợi ích của các nhà lãnh đạo và những người đi theo quan trọng nhất của chế độ độc đoán, như chúng ta khám phá bây giờ.

    Sự Tự tin là Gì?

    Cho lý lẽ của chúng tôi, rốt cuộc, sức mạnh là quan trọng bởi vì sự tự tin là quan trọng. Hai khái niệm có liên quan nhưng khác biệt. Trong một số trường hợp, một chế độ độc đoán có thể thiếu sức mạnh nhưng quá tự tin vào năng lực của nó để phát đạt sau khi đưa ra những thừa nhận dân chủ. Điều này phù hợp với lý lẽ rằng dân chủ hóa thông thường là một sự tính toán nhầm của những kẻ chuyên quyền kỳ vọng nền dân chủ phục vụ các lợi ích của họ tốt hơn nó cuối cùng mang lại.27 Ngoài ra, một chế độ có thể có sức mạnh gây ấn tượng mạnh mẽ thế nhưng lại thiếu sự tự tin rằng các sức mạnh đó có thể sẵn sàng chuyển thành sự thống trị và sự ổn định tiếp tục dưới nền dân chủ. Điều này là hiển nhiên nhất ở Trung Quốc và Singapore, các nhà nước mạnh và các chế độ thống trị đã kiên định tránh nền dân chủ. Giống một đồng tiền (ngoại tệ) phải được đổi trước khi được tiêu, sức mạnh phải được chuyển thành sự tự tin nếu muốn dân chủ qua sức mạnh xảy ra.

    Nếu các chế độ độc đoán không tự tin rằng chúng có thể tiếp tục phát đạt sau khi dân chủ hóa, chúng sẽ không thừa nhận dân chủ từ một vị thế sức mạnh. Sức mạnh nhà nước như vừa được thảo luận là đặc biệt quan trọng bởi vì nó làm tăng sự tự tin ổn định: kỳ vọng rằng các sự thừa nhận dân chủ sẽ không làm xói mòn hoặc sự ổn định chính trị hay sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên sự tự tin ổn định chỉ là nửa câu chuyện. Nửa kia là sự tự tin chiến thắng. Nếu sự tự tin ổn định đến chủ yếu từ các tổ chức nhà nước mạnh, bởi vì chúng có thể được kỳ vọng cẫn còn ngay cả nếu kiểu chế độ thay đổi, sự tự tin chiến thắng đến chủ yếu từ đâu? Câu trả lời của chúng tôi là các đảng độc đoán cầm quyền mạnh, được trụ đỡ bởi các liên minh ủng hộ rộng và các hồ sơ thành tích kiến tạo-phát triển ấn tượng.28

    Tại một mức, sức mạnh của bất cứ đảng chính trị nào là một vấn đề tổ chức thuần túy. Giống các nhà nước Weberian, các đảng mạnh là các tổ chức được chuyên nghiệp hóa, vạch ra các ranh giới rõ ràng giữa các đảng viên và không-đảng viên, gán cho các đảng viên các vai trò chính thức trong đó họ được kỳ vọng để theo các quy tắc có thể dự đoán được. Các đảng mạnh kiêu hãnh có các đảng viên trung thành và các nhà lãnh đạo có kinh nghiệm. Chúng được xây dựng như các tháp tổ chức, bắt đầu rộng ở dưới đáy và thu hẹp dần dần gần đỉnh, khi các cán bộ trung thành và có trình độ được tưởng thưởng bằng những sự cất nhắc và những người ngoài bị ngăn chặn khỏi việc nhảy dù vào tổ chức ở các mức cao.

    Tuy nhiên một đảng độc đoán cầm quyền mạnh và tự tin không thể được xác định thuần túy từ một sơ đồ tổ chức. Chúng ta cần xem xét lịch sử tương tác của một đảng, cả bên trong bản thân đảng và giữa đảng và xã hội, để đo sức mạnh và sự tự tin có thể vào một kịch bản thừa nhận dân chủ của nó. Một cách mà các cán bộ đảng có thể thu được kinh nghiệm và thể hiện sự trung thành trong khung cảnh độc đoán là bằng việc cạnh tranh và thắng thế trong các cuộc bầu cử độc đoán. Đấy là những sự luyện tập điển hình có ý nghĩa, dù méo mó. Nếu một đảng cầm quyền có một lịch sử ấn tượng về chiến thắng các cuộc bầu cử mà nhìn chung nắm bắt được ý chí của các cử tri, có lý là đảng có sự tự tin hơn rằng nó có thể mang sự mến mộ của dân chúng đó sang một đấu trường bầu cử dân chủ, công bằng hơn. Các cuộc bầu cử độc đoán cạnh tranh cung cấp một phương tiện đánh giá đặc biệt quan trọng về sức mạnh của chế độ đương nhiệm và sự tự tin chiến thắng của nó trong nền dân chủ.

    Các đảng cầm quyền mạnh cũng đạt được sự cố kết nội bộ trong mức độ lớn bằng việc thúc đẩy một ý thức hệ nhất quán, hấp dẫn ngang các sự phân chia giai cấp và sắc tộc. Chúng không phải là các đảng “chia tách,” thu hút một mảng cử tri cụ thể như một giai cấp kinh tế duy nhất hay một cộng đồng sắc tộc, mà là các đảng “gom-tất,” cố gắng để tạo ra sự ủng hộ và sự mến mộ dân chúng giữa toàn bộ chính thể quốc gia. Tại châu Á kiến tạo-phát triển, chúng hứa hẹn sự phát triển kinh tế như một phương tiện để mở rộng sức mạnh quốc gia, dùng đòn bẩy can thiệp nhà nước một cách thực dụng và giải phóng các lực lượng thị trường khi cần, thay vì ưu tiên cái này hơn cái kia một cách cứng nhắc. Nói cách khác, không ý thức hệ nào quan trọng hơn sự phát triển quốc gia.

    Một lịch sử phát triển kinh tế là một nguồn của sức mạnh đảng. Các đảng độc đoán, cầm quyền, mạnh, định hướng kiến tạo-phát triển này cũng thường được gắn bó chặt bởi một ý thức chung về chủ nghĩa anh hùng và mục đích lịch sử, thường dựa vào kinh nghiệm chiến thắng một cuộc cách mạng, đánh đuổi các đế quốc, hay xây dựng lại nền hòa bình và sự ổn định từ mảnh vụn của nội chiến. Tại Trung Quốc và Việt Nam, thực ra, các đảng cộng sản cầm quyền từ lâu khẳng định một cách đáng tin cậy công lao lịch sử cho tất cả ba trong số các thành tựu này.

    Cuối cùng, và lần nữa giống các nhà nước mạnh, các đảng cầm quyền mạnh xây dựng một cơ sở hạ tầng quốc gia bao quát theo thời gian, tại hầu hết các mức địa phương và trong các ngõ ngách xa xôi nhất của lãnh thổ quốc gia. Các đảng mạnh là các đảng quốc gia. Bộ máy đảng này có thể được chuyển đổi và được triển khai trong sự cạnh tranh bầu cử dân chủ sau khi các sự kiểm soát độc đoán được bãi bỏ. Mặc dù các sự thừa nhận dân chủ luôn luôn kéo theo những rủi ro, tính vững chãi của cơ sở hạ tầng được xây dựng của đảng cầm quyền giảm thiểu các rủi ro đó. Các đảng viên riêng lẻ có thể bỏ sang các đảng khác hay ứng cử như những người độc lập dưới nền dân chủ; nhưng đảng hầu như chắc chắn sống tiếp như một đảng kế vị đảng độc đoán khi nền dân chủ được một chế độ độc đoán vẫn còn mạnh thừa nhận.

    Để là một loại tổ chức mạnh trao cho các elite độc đoán sự tự tin chiến thắng khi cân nhắc các cải cách dân chủ, một đảng cầm quyền phải mạnh về bên ngoài cũng nhiều như bên trong. Nói cách khác, nó cần một liên minh ủng hộ đáng tin cậy mà cả đủ rộng để thắng các cuộc bầu cử quốc gia và đủ chặt chẽ để tạo ra một tập hợp trung thành của các cử tri và những người đi theo cốt lõi. Trong mức độ nào đó, và trong một số trường hợp nhiều hơn những trường hợp khác, đấy là một sản phẩm của ý thức hệ nhất quán được nhắc tới sớm hơn. Các cử tri và những người theo, rốt cuộc, được thúc đẩy bởi những sự lôi cuốn ý thức hệ và huyền thoại lịch sử cũng nhiều như, nếu không nhiều hơn, bản thân các đảng viên, mà được hưởng các lợi ích chọn lọc từ tư cách đảng viên mà những người không-đảng viên không có. Tuy vậy, các liên minh đảng mạnh cũng là kết quả của các liên kết lâu dài giữa đảng và các tổ chức xã hội như các công đoàn lao động, các hiệp hội kinh doanh, các liên đoàn nông dân, và các cộng đồng tôn giáo. Cơ sở hạ tầng xã hội này, đứng bên cạnh cơ sở hạ tầng nội bộ của bản thân đảng, trao cho các nhà lãnh đạo đảng năng lực để huy động một mạng lưới người ủng hộ toàn quốc, và sự tự tin mà có thể tiếp tục làm vậy sau khi dân chủ hóa.

    Các sức mạnh nhà nước, đảng, và liên minh này là nền tảng của sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định cho các chế độ độc đoán. Chúng là các sức mạnh làm cho dân chủ qua sức mạnh là có thể. Nhưng chỉ bởi vì các nhà lãnh đạo độc đoán có thể kỳ vọng một cách hợp lý để phát đạt dưới nền dân chủ không giải thích đầy đủ vì sao họ thực sự đã từng dân chủ hóa một cách phòng ngừa. Thật nghịch lý, bất kể chế độ độc đoán đủ mạnh nào để phát đạt dưới nền dân chủ là đủ mạnh để giữ lại quyền lực độc đoán của nó trong ngắn hạn nếu nó chọn vậy. Trong tiết đoạn tiếp theo chúng tôi đưa ra một sự giải thích cho những lựa chọn như vậy, và vì sao một số chế độ độc đoán mạnh thừa nhận các cải cách dân chủ trong khi các chế độ khác—thực ra chắc hầu hết—lại không.

    Vì sao Dân chủ hóa từ Sức mạnh?

    Lý lẽ cốt lõi của chúng tôi trong cuốn sách này là tại châu Á kiến tạo-phát triển, con đường, phương thức tới dân chủ hóa đã là qua sức mạnh. Tuy vậy, “qua sức mạnh” không có nghĩa “bởi vì sức mạnh.” Trong số mười hai trường hợp chúng tôi xem xét ở châu Á kiến tạo-phát triển, tất cả đã thể hiện sức mạnh độc đoán đáng kể, chính xác một nửa đã theo đuổi dân chủ qua sức mạnh lúc nào đó hay lúc khác, và một nửa đã không.

    Sự khác biệt giữa hai nửa không phải là các mức sức mạnh độc đoán của chúng, như chúng tôi đã chứng minh về mặt thị giác trong hình 1.1. Thoạt nhìn, sự khác biệt chủ yếu giữa các chế độ độc đoán đã dân chủ hóa qua sức mạnh và các chế độ đã không chọn làm vậy đơn giản là cụm kiến tạo-phát triển trong đó nước được định vị. Ba trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan) và các trường hợp quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Indonesia, Myanmar, và Thái Lan) tất cả đều đã thừa nhận dân chủ từ một vị trí sức mạnh. Ngược lại, ba trường hợp Britannia kiến tạo-phát triển (Singapore, Malaysia, và Hồng Kông) và ba trường hợp xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia) tất cả đều không. Chúng tôi gọi tập hợp các ca đầu tiên là sáu “trường hợp thừa nhận” của chúng tôi bởi vì tại điểm nào đó chúng đã thừa nhận dân chủ; chúng tôi gọi tập hợp thứ hai là sáu “trường hợp tránh” bởi vì chúng tôi cho rằng tại điểm nào đó chúng đã thể hiện đủ sức mạnh để thừa nhận dân chủ mà không thừa nhận thất bại, thế nhưng tất cả đã tránh nhảy vọt.

    Trong chương tiếp theo, chúng tôi xem xét các lý do đa dạng vì sao sự tạo thành cụm kiến tạo-phát triển đã định hình sự tạo thành cụm dân chủ. Tại lõi của nó, câu chuyện nhân quả của chúng tôi đơn giản hơn nhiều. Diễn đạt rõ ràng nhất, chúng tôi cho rằng dân chủ qua sức mạnh nảy sinh như kết quả từ một sự kết hợp của các sức mạnh, các tín hiệu, và các chiến lược.

    Các cụm kiến tạo-phát triển quan trọng cho dân chủ hóa theo nhiều cách, như chúng tôi sẽ nêu chi tiết không lâu sau đây. Nhưng chúng quan trọng đáng kể nhất bởi vì cách chúng định hình ba thành phần cốt lõi này trong công thức nhân quả của dân chủ qua sức mạnh. Chúng tôi đã thảo luận rồi sự phát triển kinh tế và các nhà nước, các đảng, và các liên minh mạnh thường đi cùng với nó tạo ra sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định như thế nào. Nhưng một mình các sức mạnh này, để nhắc lại, không giải thích vì sao một số chế độ độc đoán mạnh chọn để dân chủ hóa một cách phòng ngừa, trong khi các chế độ khác lại không. Cái gì định hình sự lựa chọn định mệnh này? Để hiểu sự biến đổi này, chúng tôi chuyển sự chú ý của mình sang các tín hiệu và các chiến lược.

    Vì sự sống sót chính trị, các chế độ độc đoán liên tục tìm kiếm và nhận các tín hiệu về sức mạnh thay đổi của chúng. Bằng việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và hiện đại hóa, chúng tạo ra các cơ sở ủng hộ mới, nhưng cũng tạo ra các sự chia tách và các đòi hỏi công dân mới.29 Như thế, cụm từ thông dụng “hiện trạng (status quo) độc đoán” là một sự dùng từ sai. Điều này là đặc biệt thế trong một vùng như châu Á kiến tạo-phát triển, nơi sự cam kết kiên trì của các chế độ độc đoán để theo đuổi sự tăng trưởng kinh tế chóng mặt và sự phát triển có nghĩa rằng các điều kiện nền, mà dựa vào đó sự duy trì chế độ xảy ra, đang chảy như thác, không phải bị đóng băng như một sông băng. Ngay cả đối với các chế độ độc đoán mạnh cực kỳ, sự ổn định đòi hỏi sự thích nghi nhất quán với các tín hiệu thay đổi, không phải “ngoan cố bám” để giữ gìn status quo (hiện trạng) khó nắm bắt và thậm chí ảo tưởng nào đó. Ngay cả hai chế độ độc đoán ổn định và dường như lâu bền nhất trên thế giới, Trung Quốc và Singapore, đã tiến hóa để trông rất khác—và đã đưa ra cho các công dân của chúng nhiều lợi ích hơn nhiều để đổi lấy việc chấp nhận các sự kiểm soát độc đoán—với chúng trông giống thế nào trước khi chuyển sang thế kỷ thứ hai mươi mốt. Các sự thích nghi của chúng phản ánh các xã hội đang thay đổi của chúng, các nền kinh tế chính trị đang tiến hóa của chúng, và các nhà nước định hướng kiến tạo-phát triển đang thúc đẩy chúng.

    Chúng tôi chia các loại các tín hiệu mà các chế độ độc đoán có thể nhận được thành bốn kiểu: bầu cử, lôi thôi (gây tranh cãi- contentious), kinh tế, và địa-chính trị. Các tín hiệu này thay đổi về sự rõ ràng và sức mạnh của chúng. Quay lại sự phân biệt sớm hơn của chúng tôi giữa các sức mạnh bền bỉ và các áp lực đang nổi lên, điều quan trọng cho lý lẽ của chúng tôi là các tín hiệu này thường (nhưng không luôn luôn) mang hình thức các áp lực lên chế độ để xem xét việc thử nghiệm với các cải cách dân chủ.

    Trong số bốn kiểu tín hiệu, các tín hiệu bầu cử là các tín hiệu rõ ràng nhất. Khi một chế độ độc đoán bầu cử trải nghiệm sự tăng lên hay sự giảm sút vận may bầu cử, nó là một tín hiệu về sức mạnh chế độ thay đổi rõ ràng như nó có thể nhận được. Loại thứ hai của các tín hiệu, các tín hiệu lôi thôi (contentious), là các tín hiệu mạnh nhất. Khi hàng ngàn (và đôi khi hàng chục và hàng trăm ngàn) công dân đổ xuống đường để đòi hỏi cải cách hay thậm chí sự loại bỏ một chế độ độc đoán, là không thể cho các nhà lãnh đạo độc đoán để bỏ qua. Chúng tôi đặc biệt chú ý sát đến các tín hiệu bầu cử và lôi thôi trong các chương kinh nghiệm của chúng tôi. Chúng là các hình thức sống động nhất của áp lực đối lập để dân chủ hóa mà một chế độ độc đoán có thể đối mặt.

    Các kiểu thứ ba và thứ tư, kinh tế và địa-chính trị, của các tín hiệu có khuynh hướng thiếu cả sự cực kỳ rõ ràng của các tín hiệu bầu cử lẫn sức mạnh sấm sét của các tín hiệu lôi thôi. Tuy nhiên chúng tỏ ra khá quan trọng trong các cụm kiến tạo-phát triển cá biệt.30 Ví dụ, tín hiệu địa-chính trị về sự ủng hộ Mỹ thay đổi và tàn đi đã là cốt yếu cho các triển vọng dân chủ trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển. Tại Đài Loan, quyết định của Washington để rút lại sự công nhận ngoại giao có lợi cho Trung Hoa đại lục đã tạo ra áp lực mạnh mẽ cho loại tư duy mới của Quốc Dân Đảng về cải cách dân chủ. Tại Hàn Quốc, áp lực ngoại giao Mỹ đã trở nên inh tai hơn trong mùa xuân và mùa hè 1987, làm thay đổi các tính toán chính trị của các elite độc đoán ở Seoul và hích nhẹ đẩy họ hướng tới một chiến lược nhượng bộ. Tại Nhật Bản, “hướng đảo ngược” của Mỹ về chính sách của nó trong 1947 đã báo hiệu sự ủng hộ của nó cho dân chủ hóa do bảo thủ-lãnh đạo. Tương tự, các tín hiệu kinh tế đã tỏ ra đặc biệt có ảnh hưởng trong cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, đặc biệt Indonesia, nơi khủng hoảng tài chính Á châu 1997–98 đã báo hiệu mạnh mẽ rằng những ngày tăng trưởng nhanh và ổn định xã hội của chế độ Suharto đã tan biến.31

    Các tín hiệu làm tăng thế nào các cơ hội mà một chế độ mạnh sẽ dân chủ hóa qua sức mạnh? Logic nhân quả của chúng tôi là các tín hiệu phải giúp xua tan một trong hai ảo tưởng: (1) rằng sự đàn áp độc đoán là một phương thuốc bách bệnh hay (2) rằng dân chủ hóa sẽ là một tai họa cho chế độ độc đoán đương nhiệm. Chúng tôi gọi loại tín hiệu (xua tan ảo tưởng) thứ nhất là các tín hiệu báo điềm xấu (ominous), và loại (xua tan ảo tưởng) thứ hai là các tín hiệu làm yên lòng (reassuring).

    Loại tín hiệu nào có lợi hơn cho cải cách dân chủ phụ thuộc vào sức mạnh của chế độ. Nếu chế độ là cực kỳ mạnh (ví dụ, Singapore), nó không chắc cải cách trừ phi nó nhận được các tín hiệu báo điềm xấu. Nếu chế độ chỉ hơi mạnh (ví dụ, Việt Nam), là quan trọng hơn cho nó để nhận các tín hiệu làm yên lòng nếu nó chịu rủi ro của những sự thừa nhận dân chủ. Quay lại các phần di động cốt lõi của lý thuyết của chúng tôi: các tín hiệu quan trọng bởi vì chúng ảnh hưởng đến sự tự tin ổn định và sự tự tin chiến thắng của các chế độ độc đoán.

    Dân chủ qua sức mạnh trở nên đặc biệt có khả năng khi một hỗn hợp tình cờ của các tín hiệu báo điềm xấu và làm yên lòng chuyển các chế độ độc đoán tương đối mạnh thành cái chúng tôi gọi là “vùng buồn vui lẫn lộn (bittersweet spot).”32 Đấy là vùng nơi một chế độ độc đoán không kỳ vọng rằng các mức đàn áp tiếp tục hay tăng lên sẽ khôi phục sự ổn định chính trị cũng chẳng kỳ vọng rằng việc làm ngang bằng sân chơi với các đối thủ của nó sẽ dẫn tới sự thất bại sắp tới của nó. Khi các tín hiệu—bầu cử, lôi thôi, kinh tế, hay địa-chính trị—mới cho thấy rằng các điều kiện đã thay đổi căn bản, sự đàn áp không thể trông giống một phương thuốc bách bệnh, và dân chủ hóa không thể trông giống một thảm họa, nếu dân chủ qua sức mạnh sắp xuất hiện. Các tín hiệu về sức mạnh chế độ và sự ủng hộ thay đổi có thể không làm yên lòng đến mức không cần làm gì, cũng chẳng xấu đến mức không còn lại gì để làm.33

    Vùng này là “cay đắng (buồn)” cho các chế độ độc đoán bởi vì nó luôn luôn gồm một liều (dose) đáng kể của tin xấu. Các tín hiệu báo điềm xấu đang cho biết rằng không còn bất kể “status quo độc đoán” yên tĩnh và ổn định một cách bền bỉ nữa. Phải làm cái gì đó. Tuy nhiên nó vẫn là một “vùng ngọt (vui-sweet spot)” bởi vì nó chứa hy vọng đáng kể cho sự đổi mới dân chủ của chế độ. Vẫn còn lại cái gì đó để làm, cho chính thể nói chung và đặc biệt cho đảng cầm quyền đương nhiệm. Các tín hiệu làm yên lòng gợi ý dân chủ hóa sẽ có nghĩa là một sự hạ cánh mềm, không phải sự tự sát.

    Tuy vậy, nếu chế độ đương nhiệm không cải cách trong thời khắc cơ hội này nó có thể bỏ lỡ cơ hội hoàn toàn, lao nhanh qua vùng buồn vui lẫn lộn và suy yếu quá xa để theo đuổi dân chủ qua sức mạnh. Đấy chính xác là cái đã xảy ra ở Malaysia, như chúng tôi thảo luật chi tiết trong chương 8. Tại đó, một trong các chế độ độc đoán mạnh nhất châu Á kể từ giữa-các năm 1990 đã cưỡng lại dân chủ hóa qua sức mạnh sau khủng hoảng tài chính Á châu. Việc này đã khởi đầu một sự suy yếu hai-thập niên mà lên đỉnh điểm trong sự thất bại hoàn toàn của đảng Mặt trận Dân tộc cai trị—bất chấp các sự kiểm soát độc đoán còn lại đáng kể của nó—trong các cuộc bầu cử 2018. Chế độ độc đoán của Malaysia đã bỏ lỡ cửa sổ cơ hội của nó để thừa nhận dân chủ với sức mạnh.

    Việc lao nhanh qua và bỏ lỡ vùng buồn-vui lẫn lộn cũng đã là định mệnh của Cambodia. Một chế độ bình dân và kiến tạo-phát triển thành công đủ để thắng các cuộc bầu cử tự do và công bằng trong thập niên đầu tiên của các năm 2000 trong thực tế đã vượt quá thời gian được hoanh nghênh của nó vào các năm 2010. Đảng Nhân dân Cambodia (CPP) của Hun Sen bây giờ chỉ có thể nắm quyền bằng việc để rơi đặc tính bầu cử của nó, tăng gấp đôi các sự kiểm soát độc đoán, và trong thực tế trở thành một chế độ độc-đảng, bắt chước các láng giềng xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó Trung Quốc và Việt Nam.

    Trường hợp đầy kịch tính nhất của việc bỏ lỡ vùng buồn-vui lẫn lộn ở châu Á kiến tạo-phát triển đã diễn ra gần đây ở Hồng Kông. Kể từ khi sự bàn giao hòn đảo từ sự kiểm soát Anh sang sự kiểm soát Trung quốc trong năm 1997, các cuộc bầu cử cạnh tranh đã mang lại các kết quả có thể dự đoán được mạnh mẽ cho các đảng và các ứng viên bảo thủ, thân-Bắc Kinh. Thế nhưng các cuộc biểu tình đối với sự chậm chạp và sự đảo ngược cải cách dân chủ đã vẫn nổ ra định kỳ, báo hiệu những nguy hiểm cho các nhà bảo thủ cai trị của Hồng Kông và những người hậu thuẫn của họ ở Bắc Kinh về việc chờ đợi quá lâu để giải quyết các đòi hỏi cải cách địa phương. Ở mức độ lớn bởi vì số phận của Hồng Kông cuối cùng được quyết định ở Trung Quốc, tuy vậy, sự tránh dân chủ thay cho các sự thừa nhận dân chủ vẫn trên chương trình nghị sự. Vào năm 2019, các cuộc biểu tình quần chúng đã bùng nổ đến một quy mô mà tại đó Hồng Kông trở nên không thể quản trị nổi, và các cuộc bầu cử địa phương đã tạo ra một chiến thắng gây sốc, chưa từng có cho đối lập dân chủ, chống-Bắc Kinh. Như ở Cambodia và Malaysia, các nền tảng cho sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định mà những người bảo thủ ở Hồng Kông có được trong đầu các năm 2000 đã bị xói mòn vào cuối các năm 2010. Vào lúc đó, chính quyền địa phương đã lao qua vùng buồn-vui lẫn lộn. Bất kể triển vọng nào về thử nghiệm dân chủ đã tan biến. “Các trường hợp ứng viên [cho dân chủ]” đã trở thành “các trường hợp cay đắng.”

    Các ví dụ của Malaysia, Hồng Kông, và Cambodia minh họa một cách sống động một bài học thiết yếu của lý lẽ của chúng tôi: dân chủ qua sức mạnh luôn bắt đầu với sức mạnh, nhưng nó cũng luôn đòi hỏi một sự lựa chọn—một lựa chọn mà các nhà lãnh đạo độc đoán có thể đơn giản từ chối để đưa ra. Nhưng sự từ chối này đến với một rủi ro của chính nó: rủi ro rằng một cửa sổ cơ hội hẹp để thừa nhận dân chủ một cách tạo sự ổn định có thể bị lãng phí. Đấy là vì sao chúng ta phải coi các chiến lược của các nhà lãnh đạo chế độ đương nhiệm một cách nghiêm túc như liên kết cuối cùng trong chuỗi nhân quả chạy từ sức mạnh chế độ, được tích tụ trong một thời kỳ dài, đến những sự thừa nhận dân chủ qua sức mạnh, mà có thể được tiết lộ hầu như trong một khoảnh khắc.

    Không thể có một sự giải thích duy nhất nào cho vì sao một số người hùng mạnh nhất trên thế giới—các nhà cai trị độc đoán trong các chế độ mạnh—chọn các chiến lược họ chọn. Dân chủ qua sức mạnh chẳng bao giờ là cái gì đó gần với sự không thể tránh khỏi. Về mặt cấu trúc nó cũng chẳng bao giờ ngăn các nhà cai trị mạnh muốn theo đuổi nó, ngay cả khi không tín hiệu báo điềm xấu hay tín hiệu làm yên lòng nào nảy sinh để nhắc nhở nó. Chúng tôi đơn giản xem các thừa nhận dân chủ như cực kỳ khó xảy ra trong sự thiếu loại các tín hiệu chúng tôi vừa mô tả, và ngày càng có khả năng xảy ra khi các tín hiệu như vậy tăng sức mạnh và sự rõ ràng.

    Cuối cùng, nhân tố quan trọng nhất là các chiến lược của các nhà lãnh đạo. Chúng tôi cho rằng chủ yếu từ các chiến lược hợp pháp hóa (legitimation-tạo tính chính danh) mới mà dân chủ qua sức mạnh cuối cùng xuất hiện. Không quan trọng rằng một lãnh tụ duy nhất có quyền ra quyết định áp đảo; mặc dù quyền như vậy có thể mô tả tốt Tưởng Kinh Quốc của Đài Loan, nó hầu như chắc chắn không áp dụng cho tổng thống yếu của Indonesia B. J. Habibie. Cái dường như là cốt yếu, tuy vậy, là các nhà lãnh đạo và những người đi theo cốt lõi của họ đi đến nhận thức rằng các công thức tính chính danh độc đoán cũ, như một mình thành tích kinh tế, đã qua, và rằng dân chủ hóa phòng ngừa mang lại cho những người nắm quyền lực này một cuộc sống chính trị mới.

    Như một vấn đề quan sát, chúng ta chẳng bao giờ có thể chắc chắn các nhà lãnh đạo nghĩ gì. Tuy vậy, chúng ta có thể biết cái họ làm và cái họ nói. Trong chính trị, các hành động và các lời nó là quan trọng, đặc biệt khi chúng được dùng để biện minh cho những sự đổi hướng lớn. Trong các chương tiếp sau, chúng tôi kỳ vọng để thấy nền dân chủ từ sức mạnh bắt đầu khi các nhà lãnh đạo cho rằng đã đạt “sự kết thúc của một thời đại” và rằng, sau khi đã mang lại sự phát triển và sự ổn định cho quốc gia, dân chủ hóa sẽ là món quà tuyệt vời tiếp theo của chế độ độc đoán. Khi nói đến dân chủ qua sức mạnh, mục tiêu không phải để rút khỏi sân khấu quốc gia và trao quyền lực cho các đối thủ của một chế độ, mà hoàn toàn ngược lại: để tiếp tục cạnh tranh vì quyền lực, và thật lý tưởng để tiếp tục giành được quyền lực hoàn toàn, nhưng làm vậy trong một nền dân chủ thay vì một chế độ độc tài.

    Cuốn Sách tiếp Theo

    Mục tiêu chính của chương dẫn nhập này là để trình bày lý lẽ của chúng tôi, kể cả các khái niệm mà nó dựa vào và địa hình địa lý mà trên đó nó sẽ diễn ra.

    Chương 2 có nhiều hơn để nói về địa hình đó: châu Á kiến tạo-phát triển và bốn cụm phân biệt nó bao gồm. Các chương 3–5 nêu chi tiết chủ nghĩa nhà nước kiến tạo-phát triển đã mở đường như thế nào cho một hình thức ổn định hóa đặc biệt của dân chủ qua sức mạnh ở Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc sau chiến tranh. Mặc dù cả ba trường hợp biểu lộ dân chủ qua sức mạnh, chúng tôi cũng nêu bật các sự biến đổi về sức mạnh giữa các chế độ đương nhiệm và các thứ này đã định hình thế nào những sự chuyển đổi dân chủ tương ứng của chúng.

    Chương 6 cho thấy rằng Trung Quốc đã không tích tụ được các sức mạnh so sánh được với sức mạnh của các láng giềng nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó ở Đông Bắc Á vào thời gian cuộc khủng hoảng 1989 ở Quảng Trường Thiên An Môn, dẫn đến một sự đàn áp từ một vị thế yếu kém hơn là các sự thừa nhận từ một vị thế sức mạnh. Xuất phát từ quan điểm chuẩn rằng ĐCSTQ đã mạnh hơn các anh em xã hội chủ nghĩa của nó trong khối Soviet rất nhiều, và vì thế đã không sụp đổ, chúng tôi cho thấy ĐCSTQ kể từ 1989 đã cũng yếu hơn các láng giềng của nó trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển gồm Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc rất nhiều, và vì thế đã không thể thừa nhận dân chủ một cách tự tin từ một vị thế sức mạnh. ĐCSTQ trong 1989 đã quá mạnh để sụp đổ, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh.

    Chương 7 chuyển sự chú ý của chúng tôi đến cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển gồm Indonesia, Thái Lan, và Myanmar. Ở đây, các mức trung gian hơn của sức mạnh kiến tạo-phát triển và độc đoán đã mang lại các thử nghiệm dễ lung lay hơn nhiều và có thể đảo ngược so với các cải cách dân chủ phòng ngừa hơn ở Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc. Chúng tôi chuyển sự chú ý của chúng tôi trong chương 8 đến cụm Britannia kiến tạo-phát triển gồm Singapore, Malaysia, và Hồng Kông, nơi, thật khó xử cho lý thuyết hiện đại hóa, các mức phát triển kinh tế thật sự ngoạn mục đã đi cùng với sự tránh dân chủ thay cho các sự thừa nhận dân chủ. Chương 9 đưa sự tập trung của chúng tôi trở lại Trung Quốc như gã khổng lồ của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, lập luận rằng sức mạnh ấn tượng của ĐCSTQ đã không đi kèm với các tín hiệu thiết yếu rằng các cải cách dân chủ là hoặc thích đáng hay đủ cấp bách để đáp ứng các thách thức quản trị tăng lên mà Trung Quốc đối mặt. Nói cách khác, Trung Quốc ngày nay có sức mạnh để thừa nhận dân chủ một cách ổn định, nhưng nó thiếu các tín hiệu. Việt Nam và Cambodia cũng kiên trì với sự tránh dân chủ bên trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, như chúng tôi trình bày chi tiết ngắn gọn hơn.

    Chúng tôi kết thúc cuốn sách với một thảo luận lý thuyết rộng hơn về mối quan hệ đầy trắc trở giữa nền dân chủ và sự ổn định. Dân chủ có thể không là giá trị tối cao của thế giới, chúng tôi sẵn sàng thừa nhận, nhưng nó vẫn là một giá trị phổ quát. Bất cứ nơi nào nền dân chủ không thể giải quyết các vấn đề hòa bình và thịnh vượng, nó sẽ mãi mãi dễ bị tổn thương. Việc làm rõ vô số cách mà theo đó nền dân chủ có thể tỏ ra tương thích với sự ổn định chính trị sẽ là sống còn nếu dân chủ muốn có một tương lai bằng quá khứ của nó.

    3. Định hình Châu Á kiến tạo-Phát triển

    CHÂU Á VÀ CHỦ NGHĨA ĐỘC ĐOÁN liên kết chặt trong trí tưởng tượng bình dân về chính trị toàn cầu. Hãy hỏi hầu như bất cứ ai để gán một hướng cốt yếu duy nhất cho dân chủ, và câu trả lời hầu như chắc chắn là “Tây phương.” Các thách thức gần đây cho sức khỏe của các nền dân chủ ở châu Âu và Hoa Kỳ đã nêu ra những nghi ngờ chính đáng rằng dân chủ bằng cách nào đó là kiểu chế độ tự nhiên, không thể tránh khỏi trong thế giới Đại Tây dương. Thế nhưng chính bởi vì nền dân chủ không còn được xem là an toàn nữa ở “phương Tây” không có nghĩa rằng nó đã ngừng được cảm nhận như một hiện tượng Tây phương hơn là một hiện tượng Đông phương. Quan niệm rằng “phương Tây” có một lợi thế dân chủ và “phương Đông” có một thế bất lợi dân chủ vẫn còn.

    Thay vì đơn thuần đổ lỗi cho chủ nghĩa Đông phương lỗi thời, chúng tôi ghi nhận rằng sự bền bỉ của những cảm nhận như vậy có cơ sở thực nghiệm. Niềm tin cố chấp rằng châu Á và chủ nghĩa độc đoán đi cùng với nhau được sự ổn định ngoan cường của một chế độ độc đoán khổng lồ và một chế độ bé tẹo nhưng rất giàu duy trì hơn bất cứ thứ gì khác. Về bên lớn, chế độ độc tài bền bỉ của Trung Quốc hiện ra lù lù một cách tự nhiên bất cứ khi nào con mắt hướng tới châu Á, nhất là khi các nhà quan sát-dân chủ phàn nàn rằng nhiều David của châu Á đang ngày càng rơi vào sự ảnh hưởng của Goliath độc đoán ở Bắc Kinh. Về bên nhỏ, sự kết hợp phi thường của sự cực kỳ giàu có và tính hiện đại với những sự kiểm soát chính trị nghiêm ngặt của Singapore một cách có thể hiểu được gợi ý về “sự khác” và thậm chí tính khó hiểu của chính trị Á châu. Sự bị cho là khác này được tăng cường khi các nhà lãnh đạo của quốc đảo tí hon này từ lâu đã hãnh diện mời chào “các giá trị Á châu” như một lựa chọn độc đoán bona fide (thành thật) thay thế cho (các giá trị) “phương Tây” tự do và dân chủ—nhưng suy đồi.

    Sự đánh đồng phổ biến của chính trị Á châu với chính trị độc đoán không chỉ là một sản phẩm của thành kiến văn hóa mà của thành kiến chọn lọc. Trung Quốc và Singapore nổi bật lên như các hình mẫu độc đoán; Nhật Bản và Indonesia, mặt khác, được đối xử như các ngoại lệ (outlier) dân chủ. Tuy nhiên khi chúng ta nhìn toàn diện về châu Á kiến tạo-phát triển, như chúng tôi nhìn trong cuốn sách này, chúng ta nhanh chóng thấy rằng sự chia cấp độ là đều hơn rất nhiều so với người ta có thể tin ban đầu. Sáu trong mười hai nước của khu vực đã theo đuổi các cải cách dân chủ trong thời đại sau-Chiến tranh Thế giới II, còn sáu trường hợp khác đã không. Khi một nửa các trường hợp theo đuổi cải cách dân chủ, chúng không thể là các ngoại lệ; đúng hơn, chúng yêu cầu sự giải thích.


    * quan liêu (bureaucratic), bộ máy quan liêu (bureaucracy) thường được hiểu theo nghĩa xấu trong tiếng Việt đương đại, tuy nhiên trong cuốn sách này nó được hiểu theo nghĩa trung lập của Weber; bureaucracy có thể được dịch là bộ máy công chức sẽ sát nghĩa hơn, nhưng tôi cố ý dùng bộ máy quan liêu để cho thấy hiện nay chúng ta sử dụng từ, thuật ngữ bị lệch lạc đến thế nào, và sẽ cần nhiều cố gắng để dùng chúng như phần lớn thế giới dùng. 

    https://vandoanviet.blogspot.com/2024/11/tu-phat-trien-en-dan-chu-su-bien-oi-cua_01616367120.html


    Không có nhận xét nào