Header Ads

  • Breaking News

    Từ Phát triển đến Dân chủ – Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 13)

    Tác giả: Dan Slater và Joseph Wong

    Việt dịch: Nguyễn Quang A

    Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022

    Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2024 

    https://vanviet.info/wp-content/uploads/2024/11/Screenshot-2024-11-15-213056-300x191.png

    Các sức Mạnh Thể chế

    Nền kinh tế Việt Nam đã không thể “đổi mới” thành công dưới đổi mới trừ phi các định chế quản trị của nó được cải cách đáng kể. Cải cách thể chế đã không có nghĩa là dân chủ hóa hay ngay cả sự cạnh tranh đa đảng dưới những sự kiểm soát độc đoán tiếp tục, và chắc chắn không phải là sự phát triển của luật trị (nhà nước pháp quyền). Tuy vậy, nó đã có nghĩa là việc xây dựng lại đảng-nhà nước theo những cách quan trọng. Trong khi sự biến đổi kinh tế của Việt Nam đã tương đối ít trọng yếu hơn của Trung Quốc trong các năm 1990, các định chế cai trị của nó được cho là đã vượt của Trung Quốc về chúng đã được biến đổi đầy kịch tính thế nào kể từ những ngày hoàng kim cộng sản Chiến tranh Lạnh của chúng.

    Cải cách đảng đã bắt đầu với một cuộc dọn dẹp nhân sự kỹ lưỡng từ trên xuống dưới. Vào 1988, đến 80 phần trăm của 400 bí thư quận-huyện ủy của ĐCSVN đã được thay thế khắp đất nước. ĐCSVN cũng đã lập một hệ thống các bầu cử cạnh tranh cho các vị trí lãnh đạo của nó, sao cho một phần ba ban Chấp hành Trung ương sẽ được thay thế trên cơ sở đều đặn.42 Nguyễn Văn Linh đã chẳng hề đến gần việc thiết lập sự cai trị một-người, với một liên minh của các lực lượng nảy sinh vào cuối các năm 1980 để hạn chế, nhưng không đảo ngược hay thậm chí cản trở, những cải cách nội bộ đảng của ông.43

    Đây là thành phần cốt yếu của cái rất có thể là thành tựu thể chế ấn tượng nhất của ĐCSVN: việc củng cố sự lãnh đạo tập thể và sự kế vị được chính quy hóa. Mỗi 5 năm, hàng ngũ ban lãnh đạo Việt Nam được được sắp xếp lại như bộ máy đồng hồ. Trong khi ĐCSTQ đã tìm được cách hơi tương tự trong sự bàn giao được lập kế hoạch của Đặng cho Giang (1993–2003) và sau đó Hồ và Ôn (2003–13), bánh xe chia sẻ quyền lực có thể dự đoán được bị tháo ra hoàn toàn dưới Tập trong 2016, khi ông hủy bỏ giới hạn nhiệm kỳ trên thời gian cố định được phân cho ông như nhà lãnh đạo hùng mạnh nhất của Trung Quốc.44 Mặc dù ĐCSVN chắc chắn bị nứt với chủ nghĩa bè phái, như ĐCSTQ, đảng đưa các định chế vào chỗ, và đã duy trì chúng, để quản lý vấn đề đặc hữu đó.

    Việc chia sẻ quyền lực giữa các elite không chỉ có thể dự đoán được ở Việt Nam hơn ở Trung Quốc; nó cũng bao quát hơn. Việc ra quyết định trong đảng cầm quyền của Việt Nam diễn ra bên trong một ban chấp hành trung ương năm lần lớn hơn Bộ Chính trị của ĐCSTQ ở Trung Quốc, cho phép một dải rộng hơn nhiều của các lợi ích để được bày tỏ trong chính sách quốc gia. Có lẽ quan trọng nhất, tính đại diện lãnh thổ của Ban Chấp hành Trung ương của ĐCSVN khuyến khích các mức cao hơn nhiều của sự chuyển giao thu nhập liên tỉnh, một nhân tố quan trọng đóng góp cho các mức bất bình đẳng thu nhập thấp hơn ở Việt Nam so với ở Trung Quốc.45 Trong chừng mực bình đẳng tương đối về thu nhập tăng cường sự tự tin ổn định của chế độ, ĐCSVN có tiềm năng ở trong một vị trí mạnh để thừa nhận các cải cách dân chủ hơn ĐCSTQ, và để kỳ vọng một sự chuyển đổi ít gập gềnh hơn.

    Việt Nam cũng giống với và, lại lần nữa, được cho là vượt Trung Quốc thời-cải cách trong việc xây dựng các con đường để tham khảo ý kiến công chúng. Cơ quan lập pháp của Việt Nam, Quốc hội Việt Nam (QHVN), tích vực về mặt chính trị và thậm chí có trách nhiệm giải trình hơn trước công chúng theo những cách mà cái tương đương của Trung Quốc, Hội nghị Nhân dân Toàn quốc (NPC), không thể sánh với. Media cũng tự do hơn đáng kể ở Việt Nam so với ở Trung Quốc, nhất là online, cung cấp cho ĐCSVN các tín hiệu công khai không bị đánh véc ni về nơi nó có thiếu sót.46 Giống hầu hết nếu không tất cả các hệ thống xã hội chủ nghĩa, bộ dụng cụ mạnh của ĐCSVN là các tổ chức quần chúng, với Mặt Trận Tổ Quốc của các phong trào xã hội liên kết với ĐCSVN cung cấp một sự kiên kết trực tiếp bền bỉ giữa những kẻ thống trị và những người bị trị. ĐCSVN đã đi xa đến mức để thành lập các định chế địa phương, cấp cơ sở cho sự quản trị hàng ngày mà hoạt động dưới nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân hành động, và dân giám sát.”47

    Việt Nam như thế có một mảng các sức mạnh thể chế cả cho quản lý các xung đột elite và cho việc duy trì sự kết nối quần chúng mà hầu hết các chế độ độc đoán hết sức thiếu, thậm chí kể cả ĐCSTQ ở Trung Quốc. Chắc chắn, chẳng cái nào trong các định chế này có thể thay thế các cuộc bầu cử đa đảng đều đặn trong việc đo chính xác sự ủng hộ dân chúng, giải mã các đòi hỏi công chúng, và tạo ra sự tự tin chiến thắng. Thế nhưng sự thực vẫn là Việt Nam ít “đóng” hơn Trung Quốc láng giềng phương bắc của nó, điều này có các hệ lụy quan trọng cho ĐCSVN dễ tiếp nhận thế nào các tín hiệu và các áp lực cho cải cách chính trị sâu hơn.

    Hấp thụ các cú Sốc đối với Hệ thống

    Theo quan điểm so sánh, thời kỳ cải cách của Việt Nam đã là một chuyện tương đối ít kịch tính. Các tín hiệu rắc rối cho chế độ không xảy ra thường xuyên trong một hệ thống mà, trong khi nó chắc chắn vật lộn và chịu những thoái lui, là một hệ thống cứng cáp đối với cú sốc. Đã không có các cuộc biểu tình đô thị lớn và như thế không có các cuộc đàn áp lớn; không có thất bại bầu cử gây ngạc nhiên nào; không có suy sụp kinh tế lao dốc nào; và không sự đe dọa nào về sự cô lập địa-chính trị. Đấy chính xác là các loại các tín hiệu mà có khuynh hướng kích các cải cách dân chủ phòng ngừa ở nơi khác trong châu Á kiến tạo-phát triển. Đặc biệt khi so với bốn thập niên hỗn độn và gây đau khổ trước đổi mới, bốn thập niên qua đã gần với chuyến đi thuyền chính trị êm thấm cho Việt Nam hơn bất kể chuyến đi nào trong lịch sử hiện đại của nó.

    Tuy nhiên ĐCSVN không phải không bị ảnh hưởng bởi các tín hiệu chắc có khả năng nhất để khơi mào dân chủ hóa qua sức mạnh. Mặc dù Việt Nam không cho phép các cuộc bầu cử đa đảng đều đặn, đặc tính tương đối tự do (ít bị kiềm chế) của quốc hội quốc gia, QHVN, cho ĐCSVN các tín hiệu giống-bầu cử về sự được lòng dân của các chính sách và chính trị gia cụ thể, dù không nhất thiết rõ ràng của chế độ. Ít nhất vài chính trị gia độc lập thường có ghế trong QHVN, cho ít nhất một hương vị của một chính phủ đa đảng có thể trông giống gì, cái gì đó thiếu ở Trung Quốc (nhưng đã quan trọng ở Đài Loan, Hàn Quốc, và Indonesia trước-dân chủ). Có đủ hành động cạnh tranh và phê bình diễn ra trong QHVN để sinh ra một ngành nhỏ thực sự trong khoa học chính trị về có bao nhiêu trách nhiệm giải trình và sự phản ứng nhanh trong các thủ tục của nó.48 Giống các định chế không-dân chủ khác, một quốc hội độc đoán vững chãi có hai lưỡi: nó giúp tạo ra năng lực thể chế để tránh chuyển đổi dân chủ, nhưng nó cũng có thể cung cấp cho các chính trị gia cai trị cầm quyền kinh nghiệm quý báu và làm tăng sự tự tin của họ rằng nền dân chủ đa đảng sẽ không làm mất ổn định hệ thống.

    Việt Nam cũng dễ tiếp thu các tín hiệu bất đồng chính kiến và không tán thành từ xã hội dân sự hơn Trung Quốc, nhất là từ khi Trung Quốc bước vào thời đại Tập đàn áp hơn. Như Benedict Kerkvliet đã ghi lại rằng sự náo động và không hợp tác của nông dân và công nhân từ lâu đã ràng buộc và định hình việc hoạch định chính sách kinh tế của ĐCSVN từ sự thống nhất sau chiến tranh của Việt Nam cho đến nay, và sự bất đồng quan điểm chống-ĐCSVN thường xuyên thấm lên từ các nhà bất đồng chính kiến và các trí thức nhà hoạt động.49 Từ các cuộc phản kháng nông dân dữ dội ở Tỉnh Thái Bình trong 1997, mà đã dẫn đến sự sa thải hơn một ngàn quan chức đảng, đến làn sóng đình công đô thị gây áp lực lên ĐCSVN để làm cho luật bảo hiểm xã hội được đề xuất của nó hào phóng hơn trong 2015, các tín hiệu lôi thôi đã thúc đẩy các cải cách quản trị ở Việt Nam, dù vẫn chưa phải các cải cách dân chủ hóa.50

    Cũng có các dấu hiệu rắc rối rõ rệt với mô hình kinh tế của Việt Nam. Hơn Trung Quốc nhiều, Việt Nam bị mắc kẹt trong cái gì đó của một “cân bằng cải cách một phần,” một tình trạng trong đó những người hưởng lợi ban đầu của cải cách một phần trở thành các trở ngại cho các cải cách sâu hơn mà sẽ trao quyền cho một dải rộng hơn của những người hưởng lợi.51 Kết quả có thể dự đoán trước đã là tham nhũng đặc hữu tràn lan, tập trung vào mối liên hệ hẹp giữa các SOE và các quan chức nhà nước táo bạo.

    Ít nhất cho đến gần đây, áp lực để giải quyết các vấn đề cấu trúc này đã ít đồ sộ hơn bản thân các vấn đề rất nhiều. Trách nhiệm giải trình vì tham nhũng trong ba thập niên đầu của đổi mới đã hầu như vắng mặt. Tính không hiệu quả của các chiến dịch chống tham nhũng được thâu tóm hay nhất bởi một ngạn ngữ địa phương: “tắm mà không gội đầu (chỉ tắm từ vai trở xuống).”52 Thiên hướng của ĐCSVN cho việc tổ chức bỏ phiếu về sự không tin cậy trong QHVN và tạo ra các định chế giám sát trình diễn nhưng rốt cuộc bất lực được một nhà phân tích mô tả như chẳng gì hơn “việc đóng gói lại sự quản trị tồi.”53

    Tuy vậy, ban lãnh đạo hiện thời của Việt Nam đã xem tham nhũng như một vấn đề cấp bách hơn, và đã tiến hành các biện pháp sửa chữa đầy kịch tính hơn. Bắt chước nhưng tuyệt nhiên không sánh được với sự tập trung quyền lực và chiến dịch chống tham nhũng bao quát chống lại elite tham nhũng của Tập ở Trung Quốc, lãnh tụ ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng đã đẩy mạnh đáng kể những cố gắng chống tham nhũng kể từ đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông như người đứng đầu đảng trong 2016. Sau khi được chọn cho một nhiệm kỳ thứ ba chưa từng thấy trong 2021, tác động lâu dài của ông lên ĐCSVN có thể tỏ ra là đáng kể. Tuy nhiên sự lãnh đạo tập thể vẫn còn thâm căn cố đế ở Việt Nam, gợi ý rằng con đường cân bằng tăng trưởng cao, tham nhũng, và bè phái chủ nghĩa sẽ vẫn khó để tháo dỡ và như thế rất có khả năng vẫn còn. Sự cân bằng này, bất chấp các thiếu sót của nó, đã tỏ ra cực kỳ kiên cường đối với, và dễ hấp thụ các cú sốc chính trị và kinh tế mà ở nơi khác khiến cho các cải cách kịch tính hơn có vẻ khẩn cấp.

    Các Khả năng Địa-chính trị

    Cả trước và trong chiến dịch chống tham nhũng đang diễn ra, tăng trưởng ở Việt Nam vẫn đều đặn và nhanh. Khủng hoảng tài chính Á châu 1997–98 đã có ít tác động, và chỗ trũng trong sự phát triển kinh tế trong suy thoái toàn cầu 2008 đã nhân từ lướt nhanh. Mối lo kinh tế chính ở Việt Nam không phải là tốc độ tăng trưởng mà là sự thực rằng sự tăng trưởng kinh tế ngày càng phụ thuộc vào đối thủ lớn nhất của Việt Nam: Trung Quốc. Điều này thúc đẩy ĐCSVN để thể hiện sự quan tâm lớn lao đến các sáng kiến đa phương tới tự do hóa thương mại như TPP (Đối tác Xuyên-Thái Bình Dương), các sáng kiến mà thường loại trừ Trung Quốc.

    Trong khi tự do hóa thương mại sâu hơn chắc chắn sẽ làm tổn hại nhiều hãng Việt Nam không hiệu quả, “Hà Nội sẵn lòng mở rộng sự can dự quốc tế với bất kể nước nào—kể cả Hoa Kỳ—mà có thể ủng hộ sự phát triển kinh tế của Việt Nam và do đó khả năng của nó để tránh sự quá phụ thuộc vào một nước ngoài duy nhất hay một số nhỏ diễn viên nước ngoài.”54 Theo cùng cách mà sự lo lắng về và sự phẫn uất đối với sự thống trị kinh tế Trung quốc tăng lên đã thúc đẩy các cải cách dân chủ hóa phòng ngừa của quân đội Myanmar trong đầu các năm 2010, ĐCSVN chống chủ nghĩa thực dân quyết liệt có thể xem dân chủ hóa như một đặc tính chủ chốt của động lực sinh tồn của nó để đa dạng hóa các sự phụ thuộc bên ngoài của nó.

    Cuối cùng chính trong sự kình địch địa-chính trị của nó với Trung Quốc nơi các triển vọng rõ nhất cho “các tín hiệu cay đắng-ngọt ngào” cho ĐCSVN đã nảy sinh. Một mặt, ảnh hưởng tăng lên của Trung Quốc đối với các láng giềng trực tiếp của nó ở Đông Nam Á là một tín hiệu báo điềm gở (ominous signals) cho chế độ ĐCSVN nếu nó khăng khăng với hiện trạng phát triển của nó. “Mối đe dọa an ninh gần-độc nhất của Việt Nam đến từ sức mạnh kinh tế và quân sự tăng lên của láng giềng phương bắc lớn hơn nhiều của nó, Trung Quốc.”55 Mặt khác, việc tăng cường các đề nghị ngoại giao từ Hoa Kỳ và ba thành viên khác của cái gọi là Quad, Bộ Tứ, (Australia, Ấn Độ, và Nhật Bản) là loại các tín hiệu làm yên lòng báo hiệu sự ủng hộ nhiệt thành Việt Nam nếu nó theo đuổi các cải cách dân chủ hóa dứt khoát. Thật quan trọng, quan hệ của nước Mỹ với và sự ủng hộ nhiệt thành của nó cho Việt Nam đã lấy được đà dưới các chính quyền Dân chủ và Cộng hòa gần đây như nhau ở Hoa Kỳ, gợi ý sự ủng hộ Mỹ cho Việt Nam có một mức có khả năng dự đoán và độ tin cậy lưỡng đảng thường thiếu trong các mối quan hệ song phương Á châu khác và các cam kết đa phương của Mỹ.

    Một bài học cốt lõi từ kinh nghiệm lịch sử dân chủ hóa của châu Á kiến tạo-phát triển là các chế độ độc đoán mạnh có thể chuyển đổi thành các nền dân chủ theo ý muốn riêng của chúng và theo lịch trình riêng của chúng. Chưa chế độ xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển nào đã thử việc này. Nhưng Việt Nam kết hợp cả sức mạnh đáng kể và lợi ích chiến lược trong việc liên kết với Hoa Kỳ và các cường quốc dân chủ lớn khác làm cho dân chủ hóa qua sức mạnh là một kịch bản có vẻ hợp lý, cho dù vẫn chưa chắc xảy ra. Tuy vậy, chừng nào hệ thống độc-đảng hiện thời của Việt Nam vẫn có khả năng hấp thụ các cú sốc tiềm tàng thì những cải cách phòng ngừa như vậy vẫn ít có khả năng xảy ra cho ĐCSVN hơn là chúng sẽ có lợi cho Việt Nam.

    Cambodia

    Không nghi ngờ gì, chế độ độc đoán yếu nhất trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của châu Á là Cambodia. Như chúng ta đã thấy trong các cụm kiến tạo-phát triển khác của châu Á, sự yếu kém độc đoán là bất cứ thứ gì trừ là tin tốt cho dân chủ hóa. Các nhà cai trị mạnh nhất đã có được cơ hội để phát đạt sau dân chủ hóa phòng ngừa, còn các nhà cai trị yếu nhất về cơ bản đã tăng gấp đôi chủ nghĩa độc đoán, rút lui vào các các pháo đài đàn áp của họ do họ thiếu các sự tự tin chiến thắng và ổn định.

    Chế độ Hun Sen đã tích tụ đủ sức mạnh vào giữa- đến cuối các năm 2000 cho chế độ cầm quyền để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh. Tuy vậy, đảng CPP cầm quyền đã bỏ lỡ vùng cay đắng-ngọt ngào cho cải cách dân chủ, như đảng UMNO-BN (United Malays National Organization–Barisan Nasional) của Malaysia đã bỏ lỡ trong cùng thời kỳ, như được khám phá trong chương 8. Việc này đã bỏ chế độ của Cambodia trong một trạng thái của cái mà chúng tôi gọi là chủ nghĩa độc đoán cay đắng, không có khả năng phát đạt trong hoặc chủ nghĩa độc đoán hay nền dân chủ. Thay vì thừa nhận dân chủ, Hun Sen đã bám lấy quyền lực bằng việc nghiền nát đối lập ghê gớm của Cambodia và tăng cường đàn áp xã hội dân sự sôi động của đất nước, cả hai tàn tích đang phai dần của thời gian ngắn ngủi của nó như một hệ thống chính trị đa nguyên hơn trong thời kỳ tạm ngừng đầu các năm 1990 dưới lực lượng giữ gìn hòa bình của LHQ. Về mặt địa-chính trị, chiến lược này để đàn áp, hơn là để thừa nhận dân chủ đã đòi hỏi sự phụ thuộc sâu hơn của Cambodia vào Trung Quốc, gắn nó chặt hơn với cụm kiến tạo-phát triển xã hội chủ nghĩa và kiên định độc đoán và khiến nó xa lánh các nền dân chủ giàu có và đông hơn nhiều của thế giới.

    Bất chấp các thành công kinh tế của nó kể từ việc gia nhập châu Á kiến tạo-phát triển trong các năm 1990, đảng cầm quyền CPP của Cambodia đã rơi vào một chế độ độc-đảng một-người, cay đắng, hơn là phát triển các tổ chức chính trị mạnh hơn để gặt hái tính chính danh thành tích được tạo ra từ việc tăng cường nền kinh tế của nó. Sau khi đã thua phiếu phổ thông hoàn toàn trong năm 2013, chế độ Hun Sen không còn cơ sở nào cho sự tự tin rằng dân chủ hóa phòng ngừa sẽ cho phép CPP đóng một vai trò lãnh đạo trong chính trị Cambodia. Giống Trung Quốc trong các năm 1980, chế độ cầm quyền của Cambodia sau sự thất bại bầu cử 2013 kết luận rằng nó đã quá yếu để thừa nhận dân chủ với sự tự tin. Xã hội Cambodia—nhất là đối lập chính trị của nó—đã phải trả một giá cao ngất.

    Nổi lên từ một Biến động lớn

    Không nước nào đã phải leo cao thêm để gia nhập châu Á kiến tạo-phát triển hơn Cambodia. Vào đầu các năm 1970, nó chỉ còn là một nước bị tai họa ném bom-rải thảm. Nó bị cai trị bởi tướng Lon Nol được Mỹ hậu thuẫn, bị các lực lượng Việt Cộng dọc theo Đường Mòn Hồ Chí Minh đuổi chạy tán loạn, và bị bom và vũ khí hóa học Mỹ, để truy đuổi các lực lượng Việt Cộng nhưng vô ích, làm cho tan nát.

    Rồi tình hình trở nên thậm chí tồi tệ hơn. Khmer Đỏ cộng sản đã lật đổ chế độ được Hoa Kỳ hậu thuẫn trong năm 1975 và đã tiếp tục gây ra một cuộc diệt chủng hàng loạt chống lại nhân dân Cambodia kéo dài bốn năm và đã dẫn đến hàng triệu cái chết. Khmer Đỏ bị lật đổ trong năm 1979 bởi ĐCSVN và quân đội quốc gia do nó chỉ huy. Với Khmer Đỏ và lãnh tụ của nó, Pol Pot, tháo chạy, ĐCSVN đã dựng lên một chế độ cộng sản bù nhìn ở Phnom Penh do Heng Samrin, một Khmer Đỏ đào ngũ, đứng đầu.

    Trong thập niên tiếp, Cambodia đã là bãi cỏ mà đàn voi dày xéo trong chính trị cuối Chiến tranh Lạnh. Một bên, Việt Nam được những người Soviet hậu thuẫn và chế độ Cambodia tay sai mới của nó do Heng Samrin đứng đầu, còn ở bên kia Khmer Đỏ được Trung Quốc, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), chế độ quân chủ lưu vong của chính Cambodia, và thậm chí LHQ và Hoa Kỳ hậu thuẫn, như chính phủ hợp pháp của Cambodia, bất chấp các tội ác không thể tả xiết của nó, tất cả đều nỗ lực để hạn chế ảnh hưởng Soviet và Việt Nam.

    Rõ ràng, Chiến tranh Lạnh đã không thể chấm dứt đủ sớm cho nhân dân Cambodia. Khi nó chấm dứt, LHQ đã giúp để môi giới một thỏa thuận hòa bình giữa Khmer Đỏ và chế độ do Việt Nam hậu thuẫn trong các Hiệp định Hòa bình Paris tháng Mười 1991. Giữa sự phấn khích và sự lạc quan toàn cầu tiếp sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu, LHQ đã hứa hàng tỉ dollar viện trợ để ủng hộ sự chuyển đổi của Cambodia sang nền dân chủ đa đảng dưới con mắt cẩn thận của Blue Helmets và các cố vấn dân sự nước ngoài của LHQ.56

    Không giống Trung Quốc và Việt Nam, vì thế, Cambodia đã không ra khỏi Chiến tranh Lạnh như một chế độ cộng sản độc-đảng hoạt động, sản phẩm của một cuộc cách mạng xã hội cây nhà lá vườn. Nó đã là một vùng tai họa. Đã không có một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thâm căn cố đế nào cần được cải cách; đã là một vùng chiến tranh cần xây dựng một nền kinh tế. Đã không có đảng cách mạng đắc thắng nào phơi mình trong tính chính danh dân tộc chủ nghĩa đáng kể; đã có một chế độ bù nhìn mà nguồn chính danh chủ yếu của nó là nó không phải là Khmer Đỏ.

    Sau khi thay thế Heng Samrin như lãnh tụ của Đảng Xã hội chủ nghĩa cai trị Cambodia do Việt Nam dựng lên, cuối cùng đổi tên thành CPP, Hun Sen đã trở thành nhà lãnh đạo sự chuyển đổi hỗn loạn của Cambodia từ bãi mìn Chiến tranh Lạnh theo nghĩa đen thành một nhà nước-quốc gia hiện đại với một nền kinh tế hoạt động. Xét rằng Cambodia đã vẫn quay cuồng trong hậu quả ý thức hệ của Khmer Đỏ, và hãy nhớ rằng bản thân Việt Nam đã không còn phấn đấu nữa để xây dựng bất kể không tưởng cộng sản nào theo đúng nghĩa của nó, không ngạc nhiên rằng Hun Sen và CPP đã mang chỉ rất ít cam kết ý thức hệ của họ với chủ nghĩa xã hội.

    Với hàng tỉ $ viện trợ nước ngoài đổ vào để bôi trơn các bánh xe của quá trình hòa bình mong manh của Cambodia, và với chủ nghĩa xã hội quốc tế bị sự sụp đổ Soviet làm mất tín nhiệm, CPP đặt tầm nhìn của nó vào việc thắng các cuộc bầu cử cạnh tranh trong năm 1993, và như thế lấy lại sự bám chặt quyền lực bằng bàn tay sắt nó đã giữ—nhờ sự ủng hộ Việt Nam—từ 1979 đến 1991. Đảng cầm quyền đã coi các cuộc bầu cử 1993 như một bài tập về sự cưỡng bức cũng như huy động. CPP đã lợi dụng sự kiểm soát của nó đối với bộ máy nhà nước để tuyển mộ hai triệu đảng viên mới gây kinh ngạc vào đảng, nhưng cũng thả các đội tử thần giết vài trăm nhà vận động đối lập.57 Đối thủ chính của CPP đã là một đảng bảo hoàng gọi là Funcinpec, do Hoàng thân Norodom Ranariddh, con trai của vua Norodom Sihanouk đang già đi, lãnh đạo. Vì các mối quan hệ mật thiết với Trung Quốc và sự tích cực ủng hộ cho Khmer Đỏ của nhà vua chống lại những người Việt Nam xâm lấn và các đại diện địa phương của họ, sự kình địch giữa CPP và Funcinpec đã khốc liệt ngay từ đầu.

    Các cuộc bầu cử 1993 đã tạo ra một thế bế tắc. Bất chấp sự đe dọa những người ủng hộ của nó đối mặt, Funcinpec được hưởng vừa đủ sự bảo vệ vật lý từ LHQ để giúp nó thêm vào một chiến thắng hẹp đối với CPP, 45 phần trăm trên 38 phần trăm phiếu phổ thông và một lợi thế 58–51 về ghế lập pháp.

    Tuy vậy, CPP từ chối thừa nhận thất bại. Vì CPP vẫn kiểm soát bộ máy nhà nước, và quan trọng nhất các cơ quan cưỡng bức của nó, sự từ chối để thừa nhận đã nhanh chóng trở thành một fait accompli (việc đã rồi). Đối mặt với sự ngoan cố của CPP, được một nhà nước đàn áp hậu thuẫn, Funcinpec và CPP đã tạo ra một sự dàn xếp chia sẻ-quyền lực, được mô tả như sự sống chung hơn là liên minh. LHQ đã miễn cưỡng ủng hộ cả các cuộc bầu cử 1993 và thỏa thuận tiếp sau chúng, rời đi với sứ mệnh của nó được thực hiện chỉ một phần và rất mong manh.

    Sự sống chung đã tỏ ra là quá nhiều cho CPP của Hun Sen để chịu. Rất giống quân đội Myanmar trong năm 2021, CPP cầm quyền của Cambodia đã cho nổ tung hiệp ước chia sẻ-quyền lực được thỏa thận một cách dân chủ bẵng vũ lực trong tháng Bảy 1997. Funcinpec bị trục xuất khỏi sự điều hành chính trị, hàng tá sĩ quan quân đội bảo hoàng đã bị xử tử ngoài thủ tục tư pháp, và Hoàng thân Ranariddh trốn sang Pháp trước khi lưu vong định cư ở Thái Lan.

    Với quyền lực cướp được như vậy, Hun Sen và CPP bắt đầu xây dựng các sức mạnh độc đoán của họ đối lại các cơn gió ngược gay gắt của sự lên án toàn cầu vì cuộc đảo chính bạo lực 1997 của họ. Việc Cambodia được lợi từ vị trí của nó giữa rất nhiều láng giềng giàu có và phát triển nở rộ đã cho phép CPP để sắp đặt một phép màu kinh tế nhỏ trong các thập niên tiếp sau. Thành công kiến tạo-phát triển bắt đầu trong cuối các năm 1990, kết hợp với sự cưỡng bức đang diễn ra đối với một đối lập ngày càng bị phân mảnh và đang yếu đi, đặt CPP cầm quyền vào một vị trí đủ chi phối để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh vào giữa-các năm 2000. Tuy vậy, như ở Malaysia hầu như đồng thời, nó đã không thừa nhận.

    Tích lũy sức Mạnh Kinh tế

    Sự biến đổi kinh tế sau–Chiến tranh Lạnh của Cambodia đã là đáng chú ý. Với không nền kinh tế chỉ huy được thiết lập hay các lợi ích xã hội chủ nghĩa thăm căn cố đế nào tại chỗ để chặn tự do hóa kinh tế, chế độ Hun Sen đã biến sự phát triển kinh tế nhanh qua “chủ nghĩa tư bản sống lại” làm mục tiêu cốt lõi của nó.58 Ngay cả trước khi nội chiến và Chiến tranh Lạnh chấm dứt, chế độ được Việt nam dựng lên đã mang lại một sự chấp nhận giống-Việt Nam cho các doanh nghiệp nông thôn và sản xuất thực phẩm độc lập quy mô nhỏ ở nông thôn. Sau khi lật đổ Khmer Đỏ, chế độ CPP mới đã tìm cách ổn định hóa tình tình “đơn giản bằng việc làm cho những người Cambodia thích thú trong việc quay lại các thực hành trước-cách mạng của họ.”59 Bất chấp diễn ngôn xã hội chủ nghĩa, các chính sách CPP thực sự đã luôn được mô tả đặc trưng bởi cái sử gia nổi tiếng về Cambodia David Chandler gọi là “unrevolutionary caution (sự thận trọng không-cách mạng).”60

    Tuy nhiên, Cambodia đã vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ Soviet cho sự sống sót của nó suốt các năm 1980 và đã chuyển sang sự phụ thuộc khốn khổ tương tự vào viện trợ phát triển toàn cầu trong các năm 1990. Ngay sau nội chiến tàn phá, nhu cầu của nó đã quá lớn. Ngay cả vào 1998, những người Cambodia đã có tuổi thọ kỳ vọng thấp nhất ở châu Á. Hai phần ba dân số đã vẫn mù chữ, làm cho Cambodia “có thể so sánh được với các nhà nước bị chiến tranh-tàn phá của châu Phi hạ-Sahara hơn là với các con hổ kinh tế của Đông Nam Á.”61

    Tuy vậy, như chúng ta đã thấy ở các phần khác của châu Á kiến tạo-phát triển sự nghèo không phải là một trở ngại không thể vượt qua cho sự biến đổi kinh tế nhanh. Ngay cả các nước nghèo nhất trong môi trường khuyến khích tăng trưởng của một vùng kiến tạo-phát triển lân cận của châu Á có thể bùng phát bằng việc mở cửa bản thân chúng cho viện trợ và đầu tư, và bằng việc dỡ bỏ các rào cản bên trong cho doanh nghiệp-tư nhân. Về cơ bản đấy là tất cả những gì Cambodia đã làm, và tất cả những gì nó cần làm. Từ 1998 đến 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của nó đã vút lên gần 10 phần trăm, mà đã xếp hạng nó giữa các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất toàn thế giới. Tốc độ tăng trưởng đã nhất quán tiếp tục lên xuống quanh 7 phần trăm trong thập niên tiếp sau. Trong 2019 tốc độ tăng trưởng của Cambodia “nhanh nhất giữa các nước ASEAN.”62

    Trong khung cảnh của sự cai trị người-mạnh-tay và tham nhũng tràn lan, phép màu phát triển của Cambodia đã chẳng hề làm lợi cho tất cả mọi người. Bất bình đẳng đang tăng lên, sự thoái hóa môi trường lan tràn, và sự đàn áp lao động là tầm thường. Nền kinh tế Cambodia ngày nay vẫn hết sức phụ thuộc vào viện trợ và đầu tư nước ngoài cũng như vào các nguồn lực tự nhiên.63 Tuy nhiên, trong khi thừa nhận rằng Cambodia rõ ràng thuộc về phía đáy của phổ sức mạnh kinh tế trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển—bản thân cụm là một trong hai cụm nghèo nhất ở châu Á kiến tạo-phát triển, cùng với cụm chủ nghĩa quân phiệt kiến tạo-phát triển—là rõ rằng nước bị què quặt, căng thẳng, bị chiến tranh-tàn phá trước kia đã gia nhập một cách hợp pháp dù muộn màng vào hàng ngũ của châu Á kiến tạo-phát triển. “Một nước mà đã không có tiền giấy 35 năm trước bây giờ có một khu vực ngân hàng bán lẻ phồn thịnh, trong khi các quỹ đầu tư huy động vốn cho các dự án kinh doanh thêm nữa,” Sebastian Strangio lưu ý. “Nền kinh tế đang từ từ bắt đầu đa dạng hóa khỏi sản xuất quần áo kỹ năng thấp sang các hình thức công nghiệp tinh vi hơn, như chế tác xe cộ, điện tử, và thiết bị thể thao.”64

    Tuy nhiên, theo góc nhìn so sánh khu vực, sự biến đổi kiến tạo-phát triển do CPP-lãnh đạo của Cambodia đã vừa phải về nó đã đạt tới bao nhiêu công dân Cambodia trung bình. Và như bây giờ chúng tôi cho thấy, sự biến đổi kiến tạo-phát triển bậc trung này đã tạo ra chỉ các mức bậc trung của tính chính danh thành tích cho chế độ, mà đã chuyển sang thành tích bầu cử bậc trung của CPP.

    Dùng sức Mạnh tới sự Thống trị

    Mặc dù rất khác với hoặc ĐCSTQ hay ĐCSVN trong sức mạnh tổ chức và tính chính danh lịch sử cách mạng của nó, CPP đã tìm được cách để giành quyền lực độc đoán trong 1997 với gần hai thập niên đương nhiệm và kinh nghiệm dưới dây thắt lưng của nó. Được xây dựng bởi ĐCSVN theo hình ảnh riêng của nó, CPP vào các năm 1990 đã là “một tổ chức cố kết với các mạng lưới chính trị trải dài vào vùng nông thôn.” Theo đúng mốt của một Đảng Xã hội chủ nghĩa, hơn nữa, CPP “đã tiếp tục kiểm soát quân đội, cảnh sát, bộ máy quan liêu, và các tòa án.”65 Câu hỏi là liệu nó sẽ tiếp tục đặt các sức mạnh của nó để test (kiểm tra) các cuộc bầu cử đa đảng, hay liệu nó sẽ dựng lên một chế độ độc-đảng rõ ràng theo hình ảnh của nhà sáng lập của nó, ĐCSVN.

    Cả thời khắc lịch sử-thế giới và sự phụ thuộc sâu vào viện trợ của Cambodia đã khuyên cái trước. Sẽ cần một cuộc bầu cử đa đảng để đưa Cambodia quay lại sự chiếu cố tốt của thế giới. Cuộc bầu cử 1998 đã là một chuyện độc đoán hơn cuộc bầu cử 1993 rất nhiều, vì CPP có được quyền lực được thả cương để chi phối sự đưa tin media và triển khai các cơ quan nhà nước để hăm dọa các ứng viên đối lập và các cử tri. Tuy nhiên, thắng lợi của CPP đã là một thắng lợi tương đối hẹp. Sau khi đã thua Funcinpec với một sự chênh lệch 45 phần trăm trên 38 phần trăm trong 1993, CPP đã thắng với một sự chênh lệch 41 phần trăm trên 32 phần trăm trong năm 1998, với Đảng Sam Rainsy mới nổi lên giành được 14 phần trăm khác của phiếu bàu. Hơi giống đảng độc đoán đương nhiệm của Hàn Quốc, mà đã mở ra các cuộc bầu cử cạnh tranh trong cuối các năm 1980, đảng cầm quyền của Cambodia trong cuối các năm 1990 đã tính đến sự phân mảnh đối lập để giúp mở đường của nó cho sự thống trị đang diễn ra.

    Trong thập niên tiếp theo, CPP của Hun Sen đã dựa vào lợi thế bầu cử ít ỏi này để trèo lên một đỉnh cao mới của quyền lực độc đoán. Ngoài sự kìm kẹp của nó đối với bộ máy nhà nước trung ương ra, CPP cũng đã tích lũy sức mạnh bằng việc tận dụng việc nó kiểm soát chặt chẽ vùng nông thôn. Điều này được chứng kiến trong các cuộc bầu cử địa phương xã năm 2002, trong đó CPP đè bẹp Funcinpec với một sự chênh lệch 68 phần trăm trên 20 phần trăm. Bị mất sự tiếp cận đến cả khối cử tri nông thôn trung thành và sự bảo trợ nhà nước, Funcinpec bắt đầu nao núng và vỡ ra từng mảnh. Trong các cuộc bầu cử quốc gia 2003, nó lại lần nữa ở phía thua, nhưng với một sự chênh lệch còn lớn hơn, với CPP giành được 47 phần trăm phiếu bàu và gần như 60 phần trăm ghế quốc hội, hay 73 trong số 123 ghế. Funcinpec và Đảng Sam Rainsy đã giành được khoảng 20 phần trăm phiếu mỗi đảng.

    Như thế đã rõ ràng vào 2003 rằng CPP có thể dựa vào một sự kết hợp của quyền lực nhà nước cưỡng bức, cơ sở hạ tầng đảng nông thôn, sự phân mảnh đối lập, và tính chính danh thành tích tăng lên được tích lũy từ nền kinh tế bột phát để chi phối các cuộc bầu cử đa đảng của Cambodia. Trong trường hợp cuộc bầu cử 2003, tín hiệu về sức mạnh của chế độ đã không đủ rõ, cuộc bầu cử 2008 đã tạo ra một chiến thắng long trời lở đất còn mạnh hơn cho CPP. Với Funcinpec bị đổ vỡ và Đảng Sam Rainsy là nạn nhân của sự thao túng và hăm dọa nhà nước, CPP giành được 58 phần trăm phiếu bàu toàn quốc và 73 phần trăm số ghế quốc hội.

    Vì thế, giống UMNO-BN ở Malaysia, CPP đã dùng sức mạnh cưỡng ép và quản lý một cách thành thạo con đường của nó tới một đỉnh cao quyền lực bầu cử vào giữa-các năm 2000. “Nhiều cử tri đã thực sự vui sướng với sự ổn định và phát triển do sự cai trị CPP mang lại.”66 Nhưng cũng giống UMNO-BN, CPP bỏ lỡ cơ hội vàng này để tự do hóa hệ thống vào thời khắc sức mạnh, và bị một suy thoái nhanh mà sẽ làm cho hầu như không thể cho chế độ Hun Sen để thừa nhận dân chủ với sự tự tin vào giữa-các năm 2010.

    Việc bỏ qua tín hiệu bầu cử 2008 đã quay lại cắn chế độ Hun Sen trong 2013. Sự quấy rối gia tăng của chế độ và sự lưu vong bị ép buộc của Sam Rainsy chỉ nâng cao yêu sách của ông ta cho sự lãnh đạo đối lập, vọng lại kinh nghiệm của Malaysia từ việc đàn áp Anwar Ibrahim vào khoảng cùng thời đó. Nhà hoạt động nhân quyền Kem Sokha đã hợp lực với Rainsy để thành lập Đảng Cứu nguy Dân tộc Cambodia (CNRP-Cambodian National Rescue Party) trong 2012. Việc này đã thống nhất đối lập và đã biến cuộc vận động 2013 thành một cuộc chiến trực diện giữa CPP của Hun Sen với sức mạnh át hẳn và có gốc rễ lịch sử ở vùng nông thôn, và CNRP đối lập cải cách chủ nghĩa, mà đã huy động một liên minh chống-CPP do những người đô thị, chủ yếu là thanh niên lãnh đạo.

    Kết quả đã là một cú sốc đối với Hun Sen và CPP, nhưng đã rất giống với những gì diễn ra ở Malaysia chỉ năm năm trước. CPP đã không giành được một đa số phiếu, thắng CNRP sít sao 49 phần trăm trên 44 phần trăm về phiếu bàu và 55 phần trăm trên 45 phần trăm về số ghế. Kết quả đã sít sao đến mức CNRP có mọi lý do để tin rằng nó đã thắng một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Trong mười tháng, nó đã tẩy chay quốc hội để phản đối.

    Các năm từ 2013 đến 2018 chứa nhiều ngoắt nghéo, nhưng quỹ đạo tổng thể của chế độ đã rõ: Hun Sen và CPP của ông không cho phép mình đối mặt với một thách thức mặt-đối-mặt với CNRP về bất cứ thứ gì hơi giống một sân chơi bằng phẳng. Sau khi tránh cơ hội để chuyển đổi sang nền dân chủ khi CPP đã mạnh vài năm trước, chế độ đương nhiệm thấy mình bị bám sát gót, với ít sự tự tin hơn và ít khuyến khích hơn để thừa nhận dân chủ. Hồi chuông báo tử cho sự cạnh tranh đa đảng được gióng lên trong 2017, khi CNRP đột nhập vào nơi họ đã kỳ vọng ít nhất trong các cuộc bầu cử địa phương cấp xã, mà CPP đã thống trị hoàn toàn 5 năm trước trong 2012. Mặc dù CPP đã vẫn giành được 70 phần trăm tất cả các vị trí địa phương, CNRP đã làm ăn tốt hơn quá khứ của nó rất nhiều, đạt được một kết quả “không thể tưởng tượng nổi trong năm 2012.”67

    Một chế độ rõ ràng đã vượt qua đỉnh cao của nó, CPP đã đánh lại thay vì thừa nhận cải cách. Trong vòng mấy tháng, CNRP đã bị giải tán một cách cưỡng bức, với cả Rainsy và Sokha chịu toàn bộ sức nặng đàn áp của chế độ Hun Sen. CPP đã không đối mặt với một kẻ thách thức bầu cử ghê gớm duy nhất trong 2018, như nó đã đối mặt trong 2013, mà đúng hơn là hai mươi đảng vỡ ra từng mảnh với không sự ủng hộ quần chúng nào. Ban lãnh đạo CNRP đã kêu gọi một sự tẩy chay bỏ phiếu. Kẻ thu được phiếu lớn thứ hai trong 2018 không phải là một đảng đối lập mà là các phiếu bị hỏng, chiếm 8,5 phần trăm tổng số phiếu.68

    Về bản chất, CPP của Hun Sen đã quay lại chủ nghĩa độc đoán độc-đảng đóng hoàn toàn vào 2018. Nó đã thấy các tín hiệu bầu cử giảm sút và đã đáp lại bằng việc để lộ các móng vuốt sắt của nó. Nhìn lại, người ta có thể kết luận một cách hợp lý đấy là kết quả Hun Sen đã luôn luôn muốn. Nhất quán với vị trí của Cambodia trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, chế độ cầm quyền đã luôn luôn dường như được thúc đẩy bởi một chương trình nghị sự về thiết lập lại sự cai trị độc-đảng nó đã có trong các năm 1980. Một cách hợp lý các cuộc bầu cử cạnh tranh đa đảng đã được dung thứ chừng nào viện trợ phát triển toàn cầu là một vấn đề kinh tế sống-chết và tiếp tục chảy vào nền kinh tế sau–nội chiến. Nhưng khi Trung Quốc đóng một vai trò áp đảo và vô điều kiện trong việc ủng hộ nền kinh tế Cambodia, Hun Sen có được độ tự do ông cần để tránh dân chủ hóa qua sức mạnh trong các năm 2000, như thế ông có thể làm sâu sắc sự cai trị-một người của ông sau khi sự yếu kém của ông bị phơi bày đầy đủ trong các năm 2010.69

    Kết luận

    Cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển là một cụm tránh dân chủ hoàn toàn. Điều này có lẽ một phần bởi vì ba trường hợp này vẫn sớm trong các quỹ đạo phát triển kinh tế của chúng. Có lẽ lý thuyết hiện đại hóa sẽ trông tốt hơn trong dài hạn, với Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia cuối cùng đều di chuyển theo hướng dân chủ hơn khi chúng trèo lên chiếc thanh của sự giàu có quốc gia.

    Tuy nhiên có các đặc tính phân biệt của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển khiến cho quỹ đạo lạc quan, đầy hy vọng này ít có khả năng xảy ra hơn trong những trường hợp chúng tôi xem xét trong các cụm nhà nước chủ nghĩa và quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, ngay cả khi Trung quốc xã hội chủ nghĩa vượt sự giàu có của của cụm cuối và cuối cùng đuổi kịp sự giàu có của cụm trước. Trong suốt cụm, sự vắng mặt của các tín hiệu rõ ràng và mạnh về sự giảm sút chớm nở, các di sản ý thức hệ của sự phát triển và cách mạng xã hội chủ nghĩa, những nỗi lo có căn cứ về mặt lịch sử về sự bất ổn định tái diễn, và sự thù nghịch ngày càng tăng với Hoa Kỳ (đặc biệt cho Trung Quốc) làm cho một con đường tới tính hiện đại chính trị—dân chủ qua sức mạnh—đặc biệt ít có khả năng diễn ra.

    Tại Cambodia, bóng ma của dân chủ hóa qua sự sụp đổ tiếp tục treo trên chế độ khi nó suy ngẫm về cái chết của Hun Sen. Không còn rõ nữa liệu CPP có thể kỳ vọng để phát đạt trong bất kể kịch bản hậu-độc đoán nào, như nó đã có khả năng nếu giả như chế độ đương nhiệm đã khởi xướng các cải cách chính trị thật khi nó ở tại điểm mạnh nhất của nó sau 2008.

    Tại Trung Quốc và Việt Nam, ngược lại, khả năng cho dân chủ hóa qua sức mạnh và bằng sự thừa nhận dân chủ vẫn luôn hiện diện. Các tín hiệu to tiếng hơn và rõ ràng hơn về sự sa sút chớm nở của chế độ tương phản với một nền chính trị ổn định nói chung và sự tự tin của chế độ là những thứ đưa ra triển vọng tốt nhất cho ĐCSTQ và ĐCSVN để đi theo con đường được nhiều người đi này. Chừng nào các chế độ này vẫn giữ được và không phung phí các sức mạnh được tích lũy của chúng bằng việc tránh dân chủ quá lâu, thì nền dân chủ ổn định qua sức mạnh vẫn là một con đường có thể được chọn, và là một con đường, chúng tôi lập luận, rất đáng để chọn.

    Kết luận

    TÍNH PHỔ QUÁT VÀ TÍNH CÓ THỂ BỊ TỔN THƯƠNG CỦA DÂN CHỦ

    CÂU HỎI VỀ các triển vọng dân chủ trong dài hạn phụ thuộc vào các câu hỏi về sự ổn định chính trị và sự phát triển kinh tế. Ở đâu nền dân chủ không thể đóng góp cho sự ổn định, nó không thể được kỳ vọng để kéo dài. Ở đâu nền dân chủ không thể được kỳ vọng cùng tồn tại với sự phát triển kinh tế, nó không thể được kỳ vọng để được đưa vào trước tiên. Dân chủ rất có thể là một giá trị phổ quát, bởi vì người dân ở khắp mọi nơi thích được cai trị, khi tất cả các thứ khác ngang nhau, một cách dân chủ hơn là một cách chuyên chế.1 Nhưng không ở đâu trên thế giới dân chủ là giá trị tột cùng, theo nghĩa rằng người dân ở bất cứ nơi đâu có thể được kỳ vọng để ưu tiên dân chủ trên cách sống yên bình và thịnh vượng. Không có hòa bình, sự thịnh vượng, và sự ổn định, thì nền dân chủ là mỏng manh, như chúng ta đã chứng kiến trong các thập niên gần đây, với ngày càng nhiều sự tăng thêm dân chủ được tạo ra trong làn sóng thứ Ba trong nửa sau của thế kỷ thứ hai mươi đang nhường đường cho suy thoái dân chủ ở rất nhiều nơi trên thế giới.

    Cũng như sự xuống cấp dân chủ có thể là không phân biệt về mặt địa lý—từ những sự mặc cả dân chủ có ít ý nghĩa nhất trong thế giới đang phát triển đến những người được cho là tích cực ủng hộ dân chủ giữa các xã hội giàu có—khả năng dân chủ cũng là phổ quát và không giới hạn. Cuốn sách này đã chứng minh rằng nền dân chủ là một hiện tượng “Đông phương” cũng nhiều như một hiện tượng “Tây phương”; nó không có hướng chính nào. Sự thực rằng dân chủ là một giá trị phổ quát nhưng không phải giá trị tột cùng là đúng bất luận người ta đứng trên lục địa nào. Tuy nhiên như chúng tôi cho thấy trong cuốn sách này, nó đã chủ yếu lan ra trong các phần của “châu Á kiến tạo-phát triển” nơi các nhà cai trị độc đoán đã tự tin rằng dân chủ hóa sẽ không dẫn đến sự bất ổn định chính trị hay đến sự loại bỏ họ không kèn không trống khỏi quyền lực.

    Ở nơi những kỳ vọng tự tin đó được thực hiện, nhất là trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc), nền dân chủ đã kéo dài và vẫn ổn định. Trong các chế độ ít tự tin hơn về sự ổn định và chiến thắng tương lai, tuy vậy, nền dân chủ có thể đã được đưa vào, nhưng con đường củng cố của nó đã gập nghềnh và đôi khi có thể đảo ngược, một hình mẫu được cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Indonesia, Thái Lan, và Myanmar) minh họa bằng ví dụ. Ở nơi nền dân chủ đã mang lại những sự bất ngờ không được hoan nghênh cho các elite độc đoán cũ, hoặc bằng việc đe dọa họ với một sự mất hoàn toàn ảnh hưởng và địa vị hay với việc làm xói mòn sự ổn định chính trị, thì các thử nghiệm dân chủ nói chung đã kết thúc với những sự đảo ngược độc đoán. Các chế độ độc đoán yếu mà thiếu hoàn toàn sự tự tin như vậy, chúng tôi cho thấy, nói chung đã tránh dân chủ, sợ rằng sau dân chủ hóa các xã hội của chúng có thể sụp đổ hay rằng việc đưa nền dân chủ cạnh tranh vào có thể báo hiệu sự lỗi thời chính trị mãi mãi của họ.

    Bằng việc xem xét mười hai trường hợp trong cái chúng tôi gọi là châu Á kiến tạo-phát triển, chúng tôi đã cho thấy làm sao nền dân chủ có thể cả truyền cảm hứng phổ quát lẫn kích động sự sợ hãi phổ quát. Cảm hứng đến từ lời hứa của nền dân chủ để đóng góp cho quyền tự do và sự hưng thịnh con người. Sự sợ hãi đến từ tiền năng phá vỡ vốn có của nền dân chủ. Bằng việc giải phóng những sự đam mê cạnh tranh vào quảng trường công cộng, nó có thể dễ dàng chìm vào sự bế tắc, sự phân cực, và sự hỗn loạn.

    Tuy vậy, không có gì về các cảm hứng và sợ hãi đối đầu nhau này là độc nhất Tây phương hay Đông phương; chẳng gì về chúng là hoặc hiện đại hay cổ xưa. Số phận của nền dân chủ trong phần còn lại của thế kỷ thứ hai mươi mốt, vì thế, tùy thuộc vào cùng các nhân tố và các lực lượng đã xác định số phận của nó trong mọi thế kỷ cho đến tận nay. Hoặc nền dân chủ tìm được một cách để nói về các câu hỏi muôn thủa của hòa bình và sự thịnh vượng, hay những kẻ chuyên quyền cuối cùng sẽ khuất phục nó vào im lặng, và tìm thấy sự ủng hộ công cộng rộng cho các quyết định của họ để làm vậy.

    Nền dân chủ và Sự ổn định

    Thập niên thứ hai của thế kỷ thứ hai mươi mốt đã làm cho rất rõ rằng chủ nghĩa độc đoán cũng mắn đẻ như dân chủ. Một mình các giá trị dân chủ không phải là sự bảo vệ chống lại sự lên của chủ nghĩa độc đoán ở bất cứ đâu, ngay cả trong các nền dân chủ “được củng cố” hay “trưởng thành” nhất, bởi vì chủ nghĩa độc đoán có thể xuất hiện để đưa ra một giải pháp làm sẵn cho các vấn đề về chia rẽ xã hội, sự bất ổn định chính trị, sự suy thoái kinh tế, và xung đột bạo lực. Chủ nghĩa độc đoán cũng là một cám dỗ thường xuyên cho các nhà lãnh đạo, mà hoặc say mê với các tầm nhìn của riêng họ cho một xã hội đúng đắn hay thèm muốn quyền lực không bị kiềm chế đến mức nền dân chủ cung cấp các quyền chính trị đầy đủ cho các kẻ thù của họ, bị coi là một sự cản trở sự tiến bộ của quốc gia của họ thay vì là một trong những trụ cột của nó.

    Tuy vậy, các tiền lệ độc đoán không nhất thiết là lời nguyền rủa đối với các triển vọng dân chủ. Thành công độc đoán không đóng cửa một tương lai dân chủ. Một cách cụ thể, trong cuốn sách này chúng tôi cho rằng nền dân chủ có thể nảy sinh từ sức mạnh độc đoán mỗi khi nhà nước và các định chế đảng độc đoán có trước (antecedent) là mạnh. Các sức mạnh được tích tụ là kết quả từ một thành tích phát triển truyền sự tự tin giữa các nhà lãnh đạo bên trong chế độ đương nhiệm về tính chính danh phổ biến của họ, trong khi tạo ra nhiều công dân đòi hỏi khắt khe hơn bên trong xã hội. Khi các chế độ độc đoán nhận được các tín hiệu rõ ràng và sớm về sự nắm chặt quyền lực của chúng đang yếu đi, chúng có khả năng hơn để thử nghiệm với một con đường dân chủ nếu chúng tự tin rằng chuyển đổi dân chủ sẽ không làm mất ổn định quỹ đạo của đất nước cho hòa bình và sự thịnh vượng cũng chẳng kích vòng xoáy tử thần chính trị của riêng chúng. Các chế độ với nhiều sự tự tin vì thế có thể lập chiến lược rằng một con đường dân chủ để giành được quyền lực có thể giúp chúng duy trì sự thích đáng, hay thậm chí thế thống trị chính trị của chúng.

    Nói cách khác, dân chủ qua sức mạnh bày tỏ một nghịch lý: một chế độ độc đoán có khả năng hơn để thừa nhận dân chủ khi nó mạnh, thế nhưng các sức mạnh đang thịnh hành có thể khuyến khích chế độ đó để duy trì sự cai trị độc đoán của nó. Các tín hiệu về sự sụt giảm, cả báo điềm gở và làm yên lòng đối với chế độ, là quan trọng trong việc giúp nó điều hướng mang tính quyết định của nó để tiếp tục hướng độc đoán hay bắt đầu dân chủ qua sức mạnh. Chúng tôi đã thấy điều này diễn ra trong các khung cảnh lịch sử đa dạng, từ các sự chuyển đổi tương đối trơn tru và từ từ ở Nhật Bản và Đài Loan sau chiến tranh, đến những sự chuyển đổi gập nghềnh hơn nhiều và không chắc chắn hơn ở Indonesia và Thái Lan sau–Chiến tranh Lạnh.

    Một cách để diễn giải lý lẽ và bằng chứng được đưa ra trong cuốn sách này là nền dân chủ nên chỉ được theo đuổi qua sức mạnh.2 Chúng tôi quả thực khẳng định rằng sự dân chủ hóa ổn định có nhiều khả năng hơn khi chế độ đương nhiệm ở trong một vị trí tương đối mạnh. Chúng tôi cũng cho thấy rằng các chế độ độc đoán mạnh hơn ở châu Á kiến tạo-phát triển đã dân chủ hóa theo một cách trơn tru hơn và ổn định hơn các chế độ độc đoán yếu hơn của vùng. Tuy nhiên điều này không ngụ ý rằng các chế độ độc đoán yếu hơn phải vẫn ngoan cố độc đoán vì các mục đích ổn định và phát triển. Vì nhiều lý do, ngay cả dân chủ hóa qua sự yếu kém có thể đôi khi giải quyết vấn đề bất ổn định và kém phát triển hiệu quả hơn việc vẫn độc đoán vô hạn định, hay ngay cả trong ngắn hạn.

    Thứ nhất, chủ nghĩa độc đoán yếu là tồi tệ nhất của mọi thế giới. Các quyền tự do bị từ chối, và cũng thế là sự quản trị tốt, bởi vì sự quản trị tốt đòi hỏi các định chế mạnh.3 Để diễn giải James Madison, các chế độ chuyên chế yếu không được trao quyền để quản trị xã hội cũng chẳng được yêu cầu để kiểm soát bản thân chúng. Từ đó, theo nghĩa đen bất cứ thứ gì có thể đều có vẻ giống một sự cải thiện.

    Tuy nhiên chắc chắn, dân chủ hóa không nhất thiết giải quyết vấn đề quản trị nhà nước và sức mạnh nhà nước. Dưới các điều kiện nhất định, việc loại bỏ một chế độ độc đoán có thể thúc giục sự sụp đổ xã hội và thậm chí nội chiến hay xung đột quốc tế.4 Chính bởi vì “après moi le déluge (sau ta là tai họa)” là một khẳng định độc tài vĩnh viễn không có nghĩa nó luôn là một lời nói dối. Quả thực, bọn chuyên quyền yếu thường không rời quyền lực chính xác bằng việc giữ các xã hội của họ chia rẽ và đồi bại, không có khả năng tự-quản mà không có sự điều đình và các chỉ thị của nhà độc tài. Họ khẳng định các xã hội của họ sẽ sụp đổ nếu họ không còn kiểm soát. Các nhà độc tài yếu khiến status quo (hiện trạng) là một sự khốn cùng trong khi cũng khiến bất cứ sự ra khỏi status quo là một cảnh còn rùng rợn hơn.

    Điểm tới hạn là một chế độ độc đoán cần các định chế nhà nước mạnh để ổn định lâu bền. Một nhà lãnh đạo mạnh có thể ổn định một chế độ độc đoán và trông nom sự phát triển kinh tế trong một thời gian; nhưng cũng như không người nào là một hòn đảo, cũng chẳng ai là một định chế. Sự sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông đã đóng góp cho sự yếu thể chế và tổ chức của chế độ Trung quốc vào đêm trước của các cuộc biểu tình Thiên An môn trong 1989, làm cho không thể cho Đảng Cộng sản Trung Quốc để dân chủ hóa từ sức mạnh. Sự cai trị người mạnh-tay (strongman) theo thuyết nhân cách (personalist) làm xói mòn sự tự tin chế độ, từ Trung Quốc của Mao đến Hàn Quốc của Syngman Rhee (Lý Thừa Vãn). Một nắm đấm sắt [nhà độc tài mạnh] chỉ là một cái thay thế tồi và thoáng qua cho một cái lồng sắt [chế độ độc đoán mạnh]. Vì thế khi xem xét các chế độ độc đoán yếu, câu hỏi khẩn cấp là liệu các nhà lãnh đạo của chúng có phấn đấu để xây dựng các định chế chính trị mạnh hơn, cho dù không phải các định chế dân chủ.5 Ở nơi nào họ làm thế, những kẻ chuyên quyền không chỉ cải thiện đời sống của các thần dân của họ trong ngắn hạn; họ cũng vô tình đặt nền móng tiềm tàng cho dân chủ hóa qua sức mạnh trong dài hạn.

    Điều này có nghĩa là chúng ta nên xem xét các chế độ độc đoán qua các lăng kính khác hơn các lăng kính tiêu chuẩn của “sự thúc đẩy dân chủ.” Liệu một chế độ độc đoán có lâu bền không đơn giản là câu hỏi về các thần dân của nó phải chịu đựng sự không có dân chủ bao lâu. Nó cũng là câu hỏi về họ bây giờ sống tốt thế nào, và các triển vọng của họ hứa hẹn ra sao để trải nghiệm một kết cục dân chủ hóa tạo ổn định theo thời gian. Các chế độ độc đoán mà tiến hành các nỗ lực tập thể thực sự để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện phúc lợi của nhân dân, và xây dựng các định chế chính trị có thể dự đoán được và lâu bền hơn, thì nên được cộng đồng quốc tế khích lệ có điều kiện hơn là áp lực không ngừng. Bằng việc đặt một nền tảng mạnh hơn cho chuyển đổi dân chủ ổn định cuối cùng, sự tăng cường độc đoán từ từ nói chung là một kết cục được thích hơn sự sụp đổ độc đoán đột ngột và hoàn toàn.

    Nói cách khác, thật trớ trêu các nhà vận động dân chủ quốc tế nên chú ý đến các triển vọng dân chủ dài hạn trong các chế độ độc đoán mạnh hơn là nuôi dưỡng và khai thác các nguồn yếu kém độc đoán để cổ vũ một sự sụp đổ chế độ mà có thể là thảm họa. Tuy vậy, sự ngụ ý không phải là các chế độ độc đoán phải đơn độc theo đuổi sự phát triển kinh tế trước khi khuyến khích dân chủ hóa. Như chúng tôi đã lập luận trong cuốn sách này, là dễ hơn nhiều và đơn giản hơn nhiều để dân chủ hóa phòng ngừa trong thời gian tương đối ổn định hơn là để tiếp tục gây dựng các định chế chính trị mạnh hơn và tạo ra một thành tích kinh tế ấn tượng dưới các điều kiện độc đoán vĩnh viễn.6 Chúng tôi nhấn mạnh rằng cả hai cách tiếp cận này có thể là những con đường khả thi từ sự cân bằng buồn thảm của chủ nghĩa độc đoán yếu và được cá nhân hóa để cải thiện sự ổn định chính trị và sự phát triển kinh tế.

    Vì sao một nhà nước yếu lại ổn định dưới các điều kiện dân chủ hơn dưới các điều kiện độc đoán? Bởi vì trong khi các chế độ độc đoán cần đến sức mạnh nhà nước để là ổn định vượt xa hơn mệnh lệnh không đáng tin của bất kể nhà cai trị cá nhân nào, thì các nền dân chủ có thể trở nên ổn định về mặt chức năng ngay cả khi vắng một nhà nước mạnh. Chìa khóa cho sự ổn định trong các nền dân chủ chuyển tiếp không chỉ là sức mạnh của nhà nước, mà còn là việc tạo ra một sự dàn xếp chính trị bao hàm ràng buộc tất cả các diễn viên chính trị hàng đầu vào trò chơi dân chủ.7 Ngay cả trong sự hiện diện của các định chế nhà nước yếu, nhịp điệu có thể dự đoán được của nền dân chủ có thể bắt nguồn từ một thỏa thuận cơ bản để chuyển giao quyền lực một cách hòa bình qua các cuộc bầu cử cạnh tranh, và để thực hiện quyền lực một cách thận trọng qua các ràng buộc hành pháp. Nền dân chủ hoạt động khi những kẻ thắng không trừng phạt những người thua, vì họ chấp nhận rằng họ cũng có thể rốt cuộc chịu sự bất tiện của việc thua.8 Sự yên bình và sự ổn định trong nước không cần đến từ sức mạnh của một nhà nước Hobbesian khiến tất cả mọi người khiếp sợ; chúng cũng có thể nảy sinh từ sự tự tin của tất cả các bên rằng không Leviathan (Thủy quái, nhà nước Hobbesian) như vậy nào sẽ bị các đối thủ của họ dùng để chống lại họ.

    Sự ổn định dân chủ dài hạn ở các nơi như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc sau-chiến tranh, và thậm chí Indonesia, đã giành được bởi vì cả các nhà quán quân dân chủ trong đối lập và các đảng kế vị độc đoán đương nhiệm cuối cùng đã đều trở thành các tác nhân tư-lợi cho sự bền bỉ dân chủ. Cùng nhau họ đã chính quy hóa nền dân chủ, bị nhốt vào một trò chơi mà trong đó không bên nào có thể phá hủy bên kia và cả hai bên đều được lợi tiềm tàng. Đấy là cơ sở của tính bền của nền dân chủ.

    Sẽ là ấu trĩ để gợi ý rằng việc đưa nền dân chủ vào nhất thiết và luôn luôn làm tăng sự ổn định; nhưng không ấu trĩ hơn việc tin rằng sự duy trì sự độc đoán nhất thiết cung cấp sự ổn định lâu dài. Các chế độ độc đoán có vẻ ổn định cho đến khi chúng không, và khi sụp đổ, chúng để lộ các vết sẹo của sự suy tàn độc đoán và sự thối nát thể chế bị chế độ che đạy.

    Cho nên, bởi vì dân chủ hóa qua sức mạnh bày tỏ giá trị dân chủ phổ quát mà không làm xói mòn các giá trị tột cùng của hòa bình và sự thịnh vượng, mọi chế độ độc đoán với tiềm năng để xây dựng các định chế mạnh hơn nên được kỳ vọng để đặt các nền móng thể chế cần thiết cho một tương lai dân chủ có thể xảy ra. Và nếu các điều kiện chính trị là không thuận lợi cho một chế độ độc đoán để xây dựng các định chế mạnh hơn và một nền kinh tế giàu có hơn, thì hành động dứt khoát để thương lượng một sự dàn xếp chính trị lâu bền với các lực lượng đối lập đưa ra một con đường đáng tin cậy và lâu bền hơn tới hòa bình và sự thịnh vượng hơn là trò chơi chờ đợi triền miên, vô liêm sỉ của các nhà độc tài: “après moi le déluge.”

    Thảm kịch của các Đảng Thống trị

    Một bài học trung tâm của cuốn sách này là dân chủ hóa không cần nổi lên từ đống tro tàn của một chế độ độc đoán sụp đổ. Thực ra, một diễn giải của phân tích của chúng tôi là chúng ta khấm khá hơn để trồng nền dân chủ từ mảnh đất của các chế độ độc đoán mạnh hiện tồn, để tránh kịch bản khó khăn của việc gieo hạt dân chủ trong đống đổ nát của sự sụp đổ độc đoán. Nếu dân chủ muốn lan rộng đến nhiều xó xỉnh trên thế giới nơi các nhà cai trị độc đoán vẫn tích cực tránh nó, nó sẽ phải thế bởi vì các nhà cai trị độc đoán đó sẽ thấy nền dân chủ là tương thích với tư-lợi riêng của họ.

    Ngay cả khi quần chúng đông đúc lên đến hàng trăm ngàn người lật đổ một nhà độc tài bị khinh bỉ, hầu như luôn có các elite chính trị đương nhiệm ở đằng sau sân khấu khôn ngoan hoan nghênh sự thay đổi dân chủ hóa dứt khoát. Bị cai trị bởi một kẻ chuyên quyền luôn có nghĩa là việc chấp nhận sự bất trắc chính trị sinh tồn của việc sống dưới một chính phủ cả không thể bị loại bỏ bằng bầu cử lẫn không bị ràng buộc và không bị kiềm chế về mặt pháp lý.9 Dân chủ hóa có nghĩa là sự hoán đổi một tập hợp của các rủi ro và bất trắc chính trị cho một tập hợp khác.10 Quan điểm của chúng tôi, tuy vậy, là nền dân chủ không rủi ro thế cho hoặc chế độ đương nhiệm hay xã hội nói chung khi nó được theo đuổi từ một vị thế sức mạnh độc đoán.11

    Có một hệ lụy khác áp dụng cho bất kể chế độ độc đoán nào, ngay cả các chế độ tương đối yếu, mà đã chọn một chiến lược tránh dân chủ trong bất kỳ khoảng thời gian đáng kể nào. Nói đơn giản, thời gian hầu như chẳng bao giờ ở bên của những kẻ chuyên quyền cả. Chẳng gì là mãi mãi, kể cả tuổi thọ của các chế độ chuyên quyền ổn định nhất.

    Việc trì hoãn các cải cách dân chủ không làm cho một chế độ độc đoán bén rễ sâu hơn, mạnh hơn. Theo thời gian, sự bất mãn công chúng với sự cai trị độc đoán có khả năng tăng lên cùng với độ lớn của tầng lớp trung lưu. Thật trớ trêu, chế độ càng thành công về mặt kinh tế, nó càng nhanh tạo ra các điều kiện cho đối lập lớn lên của chính nó, một toàn thể công dân ngày càng đòi hỏi kích động một cách mạng Tocquevillian của các kỳ vọng tăng lên.

    Chỉ các chế độ độc đoán thành công ngoạn mục nhất có thể cung cấp cho tầng lớp trung lưu những lời nịnh hót kinh tế đủ để bù cho sự từ chối nền dân chủ trong dài hạn. Singapore là một trường hợp điển hình. Như chúng tôi đã cho thấy trong cuốn sách này, ngay cả trong các trường hợp hiếm hoi như Singapore và có lẽ Trung Quốc sau-1989, đội ngũ của những người bất mãn có khả năng tăng lên với mỗi năm mà chủ nghĩa độc đoán vẫn còn tại vị, đặc biệt trong dài hạn.

    Trong cuốn sách này, chúng ta đã gặp một tập hợp của các đảng độc đoán thống trị (dominant) mà đã không theo đuổi các cải cách dân chủ khi chúng vẫn ở trên hay gần đỉnh cao quyền lực của chúng, chỉ để thấy sự nổi tiếng, sự yêu mến của nhân dân (populatity) của chúng lao thẳng xuống trong khi chúng vẫn ngoan cố độc đoán. Tại Malaysia, chế độ đã bỏ lỡ vùng cay đắng-ngọt ngào của nó và mất quyền lực hoàn toàn, ít nhất trong một thời gian. Các chế độ ở Hồng Kông và Cambodia tương tự đã bỏ lỡ cửa sổ cơ hội để thừa nhận cải cách dân chủ từ một vị trí sức mạnh, bỏ chúng lại với các lựa chọn ngày càng ít hơn để chấn hưng sự cai trị của chúng, và cuối cùng bị nhấn vào vũng bùn chủ nghĩa độc đoán cay đắng. Các chế độ này cung cấp một bài học và một câu chuyện cảnh báo, thảm kịch của các đảng thống trị (dominant parties), cho các đảng độc đoán cai trị còn lại của châu Á ở Trung Quốc, Singapore, và Việt Nam: sức mạnh độc đoán là một nguồn lực có thể được biến đổi thành sự ổn định dân chủ lâu dài, nhưng việc chờ đợi quá lâu để kiếm chác trên tài nguyên đó bằng dân chủ hóa qua sức mạnh, có thể dẫn đến sự suy giảm không thể đảo ngược của chế độ đó.

    Có lẽ ngụ ý cuối cùng của cuốn sách của chúng tôi cho các chế độ độc đoán khắp thế giới là cải cách phòng ngừa cung cấp sự bảo hiểm tuyệt vời chống lại sự phá hủy hầu như chắc chắn tiếp sau sự sụp đổ chế độ đột ngột và hoàn toàn: một kết cục mà, chúng tôi cho rằng, ngay cả những người thúc đẩy dân chủ nhiệt thành nhất cũng chẳng bao giờ nên thúc đẩy. Thậm chí các chế độ độc đoán thành công nhất nên nhận ra rằng việc xây dựng các sức mạnh thể chế và mở rộng chiếc bánh kinh tế chẳng bao giờ có thể được dùng như sự thay thế vĩnh viễn cho dân chủ hóa, mà rằng việc làm vậy bây giờ có thể đặt các nền móng vững chắc nhất cho dân chủ hóa để thành công trong tương lai.

    Con đường suôn sẻ nhất tới nền dân chủ có thể là khác nhau cho các chế độ độc đoán mạnh và yếu. Chế độ độc đoán mạnh có thể đưa ra những thừa nhận dân chủ mới theo sự định thời gian và các điều kiện riêng của chúng, còn các chế độ độc đoán yếu thường phải tạo ra những dàn xếp chính trị mới với các đối thủ của chúng qua các quá trình thương lượng bao hàm khó chịu và không quen thuộc. Với cả hai con đường, tuy vậy, quá trình biến đổi sẽ hầu như chắc chắn suôn sẻ hơn khi nó bắt đầu sớm hơn.

    https://vandoanviet.blogspot.com/2024/12/tu-phat-trien-en-dan-chu-su-bien-oi-cua_01481378852.html


    Không có nhận xét nào