Tác giả: Dan Slater và Joseph Wong
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022
23/12/2024
9. Chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển
SỰ THỐNG TRỊ VÀ TRÁNH DÂN CHỦ
CÁCH ĐÂY KHÔNG LÂU, cách tự nhiên để chia châu Á đã là chia thành châu Á tư bản chủ nghĩa và châu Á xã hội chủ nghĩa. Không đâu trên thế giới Chiến tranh Lạnh đã gây chia rẽ hơn hay quyết định hơn đến sự phát triển của một khu vực bằng ở đây. Hai làn sóng cách mạng cộng sản bạo lực—ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên trong cuối các năm 1940, và Việt Nam và Cambodia trong giữa-các năm 1970—đã chêm một cái nêm ý thức hệ dài và sâu xuyên qua Đông Bắc Á và Đông Nam Á như nhau. Trong ba cụm được thảo luận cho đến nay—các cụm chủ nghĩa nhà nước, Britannia, và chủ nghĩa quân phiệt kiến tạo-phát triển—việc đánh bại chủ nghĩa cộng sản nằm tại trung tâm của các định chế chính trị và kinh tế chiếm ưu thế mà các nhà cai trị đã xây dựng. Nhưng ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, và Cambodia, các đảng cầm quyền đã không tìm cách để xây dựng các sự phòng vệ kiến tạo-phát triển mạnh hơn chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa mà để xây dựng bản thân cách mạng xã hội chủ nghĩa.1
Chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là lời nguyền rủa đối với chủ nghĩa tư bản kiến tạo-phát triển. Chỉ với việc vứt bỏ kế hoạch hóa kinh tế tự cung tự cấp thì châu Á xã hội chủ nghĩa mới có thể “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển và ngừng sự đầy quyết tâm chống lại nó. Như được nêu chi tiết trong chương 6, Trung Quốc đã dẫn đầu. Trong khi chương đó khám phá Trung Quốc trước-1989 như một trường hợp xã hội chủ nghĩa lập dị, chương này đặt Trung Quốc đương thời vào cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển mà đã nổi lên kể từ các năm 1990. Nó sẽ cho thấy rằng Trung Quốc tiếp tục dẫn đường, vút lên về mặt kinh tế trên các láng giềng xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó. Tuy vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cầm quyền không nới lỏng sự bám chặt quyền lực của nó ngay cả khi nó đã làm dịu phong cách quản trị của nó trong các thập niên ngay sau thời kỳ toàn trị Maoist.
Thời kỳ cải cách của Trung Quốc bắt đầu trong cuối các năm 1970. Thế nhưng vào cuối các năm 1980, việc ĐCSTQ đàn áp dữ dội các sinh viên biểu tình dân chủ tại Quảng Trường Thiên An Môn đã làm cho rất rõ rằng cải cách chỉ có nghĩa là kiến tạo-phát triển và kinh tế học tư bản chủ nghĩa, không phải chính trị và bầu cử dân chủ. Sự chuyển đổi của Trung Quốc đã không phải là một sự chuyển đổi kép (kinh tế và chính trị), như ở phần lớn Đông Âu. Như chúng tôi lập luận trong chương 6, Trung Quốc năm 1989 đã quá mạnh để sụp đổ như Liên Xô, nhưng cũng quá yếu để thừa nhận dân chủ như Đài Loan và Hàn Quốc. Không giống các anh em xã hội chủ nghĩa của nó ở Liên Xô và Đông Âu, ĐCSTQ kiên định tránh việc dân chủ hóa qua sự yếu kém.2 Và không giống các trường hợp Á châu lân cận trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, ĐCSTQ đã thiếu sức mạnh và sự tự tin để thử nghiệm với nền dân chủ.
Việt Nam đã bắt đầu tiến hành một sự thay đổi kiến tạo-phát triển tương tự khoảng một thập niên sau Trung Quốc, trong cuối các năm 1980. Với sự sụp đổ của Liên Xô, siêu cường đỡ đầu của nó, Việt Nam đã dứt khoát chia tay sự đi cùng với Bắc Triều Tiên, nơi triều đại gia đình Kim nhất quán từ chối các cải cách chính trị và kinh tế như nhau. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền đã cải cách và mở cửa nền kinh tế bị bần cùng hóa và hướng nội của Việt Nam, nó cần quyết định liệu để đi theo một con đường bầu cử và dân chủ tới tính hiện đại chính trị hậu-cộng sản (như ở phần lớn Đông Âu) hay để cứu mô hình chính trị của chủ nghĩa xã hội độc-đảng bằng việc dứt khoát từ bỏ mô hình kiến tạo-phát triển kinh tế chủ nghĩa xã hội (như ở Trung Quốc). Việt Nam đã chọn con đường sau, và ĐCSVN cầm quyền đã đạt được một kỳ công rất giống với kỳ công của ĐCSTQ: duy trì sự thống trị độc-đảng trong khi thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia nhanh chóng.
Con đường của Cambodia tới sự phát triển đã gập nghềnh hơn nhiều. Đến đầu các năm 1990, Khmer Đỏ cộng sản diệt chủng đã vẫn nổi dậy chiến đấu chống lại Đảng Nhân dân Cambodia (CPP) xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam dựng lên ở Phnom Penh qua cuộc xâm lấn trong cuối các năm 1970. Sự can thiệp LHQ đưa Khmer Đỏ khỏi rừng rậm và buộc CPP chấp nhận các cuộc bầu cử đa đảng tương đối tự do và công bằng để có đủ tư cách cho viện trợ đa phương to lớn. Trong hơn hai mươi lăm năm, chính trị Cambodia đã là một câu chuyện của CPP do Hun Sen–lãnh đạo cố gắng phát triển nền kinh tế quốc gia và phá hủy, không đơn giản đánh bại, đối lập của nó. Bất chấp tất cả các sự khác biệt quan trọng của nó với Trung Quốc và Việt Nam, Cambodia tương tự đã đi một con đường từ chủ nghĩa xã hội tự cung tự cấp đến chủ nghĩa kiến tạo-phát triển kinh tế dân tộc chủ nghĩa tăng trưởng-cao dưới sự cai trị độc-đảng suốt thời kỳ sau–Chiến tranh Lạnh. Quỹ đạo độc đoán của Cambodia đã không khác biệt một cách có ý nghĩa với quỹ đạo của Trung Quốc và Việt Nam, bất chấp các cuộc bầu cử đa đảng.
Vào các năm 2010, tất cả ba trường hợp xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã trở thành các ứng viên khả thi để theo đuổi dân chủ qua sức mạnh, với Trung Quốc là ứng viên mạnh nhất trong số đó. Tuy nhiên như trong cụm Britannia kiến tạo-phát triển, chẳng nước nào đã làm vậy. Điều gì về cụm chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển khiến nó tránh dân chủ hơn các trường hợp trong các cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc) và cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Indonesia, Thái Lan, và Myanmar)?
Sự phát triển tổng thể thấp hơn của cụm xã hội chủ nghĩa là một phần cần thiết của câu chuyện, nhưng không phải toàn bộ câu chuyện. Nếu cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã không quá kém phát triển để thử nghiệm với các cải cách dân chủ, thì cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển cũng chẳng. Quả thực, nếu bất kể nước nào trong cụm xã hội chủ nghĩa đang trên con đường để trở thành một chế độ độc tài thu nhập-cao, nó chắc chắn là Trung Quốc. Khi nó tiếp tục trở nên giàu với tốc độ chưa từng thấy, tuy nhiên Trung Quốc có vẻ ngày càng thiên về tránh dân chủ như Singapore. Có vẻ nó không thích chọn dân chủ qua sức mạnh, như các đối thủ của nó, Nhật Bản và Đài Loan, đã chọn một khi các chế độ của chúng đã tích tụ đủ sự tự tin rằng chuyển đổi dân chủ sẽ không báo hiệu cái chết của chính chúng cũng chẳng làm cho quỹ đạo kiến tạo-phát triển của chúng mất ổn định.
Sự ghanh đua của Trung Quốc với Nhật Bản và Đài Loan dân chủ là quan trọng. Một trong các lý do chính cho sự khăng khăng tránh dân chủ của Trung Quốc, chúng tôi lập luận, là địa-chính trị. Sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã cải thiện đầy kịch tính các quan hệ của Trung Quốc với Hàn Quốc, nhưng không phải với Nhật Bản hay Đài Loan. Những mối bất bình lịch sử đối với Nhật Bản, một khát vọng mạnh để thống nhất Đài Loan với Trung Quốc, và những nhận thức lâu dài rằng Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc đều là những con rối yếu của Hoa Kỳ tiếp tục định hình quan điểm của Trung Quốc về dân chủ. Hơn nữa, khi các quan hệ Mỹ-Trung xấu đi trong thời kỳ hiện tại của Tập Cận Bình và của đồng thuận lưỡng đảng tăng lên ở Washington rằng Trung Quốc là một mối đe dọa cho trật tự quốc tế hiện hành, thì các triển vọng rằng địa chính trị có thể ủng hộ cải cách dân chủ ở Trung Quốc, như chúng đã ủng hộ các láng giềng của nó trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, trở nên thậm chí xa vời hơn.
Địa chính trị diễn ra theo cách khác ở Việt Nam và Cambodia. Khi Cambodia thử quăng sang một bên hệ thống đa đảng do sự can thiệp LHQ đưa vào, chế độ Hun Sen đã đúc số phận địa-chính trị của nó hầu như hoàn toàn với Trung Quốc. Như thế có sự khuếch tán và sự mô phỏng chế độ bên trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển mà phản chiếu những gì chúng ta thấy sớm hơn trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển. Nhưng trong khi dân chủ hóa qua sức mạnh thành công của Nhật Bản đã giúp truyền cảm hứng tự tin vào những cải cách tương tự ở Đài Loan và Hàn Quốc, sự tránh dân chủ độc-đảng thành công của Trung Quốc đã làm cho Cambodia (như Việt Nam trước nó) bạo dạn để mô phỏng tấm gương độc đoán của Trung Quốc.
Câu chuyện địa-chính trị của Việt Nam đang đổi theo một hướng rất khác. Hà Nội ngày càng xem Bắc Kinh với cùng loại oán giận và sự lo lắng mà Bắc Kinh xem xét Tokyo và Washington.3 Khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên, Việt Nam đã trở nên gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Nếu Việt Nam tin rằng sự ủng hộ Mỹ là cả thiết yếu cho sự sống sót của nó và tùy thuộc vào việc làm sâu sắc các cải cách chính trị, các tín hiệu địa-chính trị sẽ làm cho dân chủ qua sức mạnh có khả năng hơn. Sự ganh đua địa-chính trị tăng lên giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đang định hình lại cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển vào đúng lúc này, với một hỗn hợp của các hệ lụy thuận lợi và không thuận lợi cho các triển vọng dân chủ trong vùng.
Với rất nhiều sự khác biệt giữa chúng, liệu có hợp lý không để coi Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia là một cụm kiến tạo-phát triển duy nhất? Chúng tôi tin là có, vì vài lý do chủ chốt. Rõ ràng nhất, tất cả ba trường hợp đã đều thử các sự chuyển đổi từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản, và sự liên kết giữa các mô hình kiến tạo-phát triển và các phương thức dân chủ hóa—con đường từ phát triển đến dân chủ—là ở tâm của phân tích so sánh của chúng tôi. Quan trọng nhất cho các mục đích giải thích của chúng tôi, mà tập trung vào sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định, Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia chia sẻ các lịch sử cách mạng bạo lực. Trong tất cả ba trường hợp, các chế độ xã hội chủ nghĩa cầm quyền có thể xác nhận một cách đáng tin cậy là đã mang lại hòa bình và trật tự tương đối cho một xã hội trước kia bị chiến tranh tàn phá. Các bóng ma kéo dài của xung đột lịch sử không chỉ cho các Đảng Xã hội chủ nghĩa này một loại thô của tính chính danh Hobbesian; chúng cũng làm cho sự tự tin ổn định đặc biệt khó để có được, và các cải cách dân chủ đặc biệt mạo hiểm để ủng hộ.
Ý thức hệ xã hội chủ nghĩa cũng quan trọng theo cách tiềm năng khác có hại cho sự tự tin ổn định. Trong các cụm nhà nước chủ nghĩa và Britannia kiến tạo-phát triển, các công dân đã trải nghiệm tiêu chuẩn sống tăng lên qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Bất bình đẳng thu nhập và của cải đã là một sản phẩm phụ của sự tăng trưởng tư bản chủ nghĩa do nhà nước-lãnh đạo. Ngược lại, trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, hàng thập niên hòa nhập xã hội chống-tư bản chủ nghĩa và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa đã hợp pháp hóa sự bác bỏ các chính sách nâng cao tăng trưởng nhưng làm sâu sắc bất bình đẳng. Chuyển đổi dân chủ vì thế có thể tăng cường chủ nghĩa dân túy cánh tả trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, và đáng kể hơn thế so với trong bất kể cụm nào khác ở châu Á kiến tạo-phát triển, với những hậu quả tai hại cho sự phát triển kinh tế tiếp tục.
Chuyển từ sự tự tin ổn định sang sự tự tin chiến thắng, sự thực rằng Trung Quốc và Việt Nam độc đoán thiếu các cuộc bầu cử đa đảng cạnh tranh đặt chúng vào một hạng hoàn toàn khác với các cụm kiến tạo-phát triển khác. Quan trọng nhất, Trung Quốc và Việt Nam được miễn khỏi các tín hiệu bầu cử rõ ràng về sự suy giảm chớm nở. Các tín hiệu như vậy đã giúp thúc đẩy các sự thừa nhận dân chủ ở Đài Loan và Hàn Quốc, và vẫn có thể làm vậy ở Singapore. Chế độ độc tài độc-đảng, như chúng ta thấy ở Trung Quốc và Việt Nam, không nhất thiết độc đoán sâu hơn chủ nghĩa độc đoán đa đảng, nhưng nó là độc đoán khác biệt theo ý nghĩa quan trọng này. Sau khi không đáp ứng với các tín hiệu bầu cử rõ ràng về sự sụt giảm bắt đầu trong các năm 2010 với các cải cách dân chủ, Cambodia đã gia nhập lại hàng ngũ của các chế độ độc tài độc-đảng và bây giờ không có các tín hiệu bầu cử rõ ràng về sức mạnh của nó, giống các chế độ ở Trung Quốc và Việt Nam.4
Cuối cùng, các cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa thành công do các đảng cộng sản lãnh đạo ở Trung Quốc và Việt Nam (mặc dù ít hơn thế nhiều ở Cambodia) cung cấp một chuyện kể bình dân và tạo tính chính danh cho sự cai trị độc-đảng lâu dài, có thể được dùng như một thay thế hiệu quả cho dân chủ hóa bầu cử, đặc biệt nếu sự phát triển kinh tế tiếp tục nhanh. Mặc dù nó chắc chắn là vị kỷ cho các chế độ này để tiếp tục tránh dân chủ, không phải hoàn toàn không thành thực để cho rằng sự cai trị độc-Đảng Xã hội chủ nghĩa có thể phản ứng nhanh với các mong muốn bình dân theo những cách mà các nền dân chủ cạnh tranh đa đảng thường không mang lại. Các nền dân chủ đa đảng càng vấp ngã để đáp ứng các thách thức quản trị đương đại, câu chuyện thay thế này sẽ chắc chắn càng trở nên to tiếng hơn, đáng chú ý nhất ở Trung Quốc, mà chúng tôi quay sang bây giờ.
Một Trung Quốc Mạnh
Cho đến 1989, ĐCSTQ đã đơn giản quá yếu để dân chủ hóa qua sức mạnh. Quảng Trường Thiên An Môn đã là câu chuyện không chỉ về tính kiên cường đối với sự sụp đổ mà cũng về sự từ chối để thừa nhận. ĐCSTQ đã thiếu sức mạnh và sự tự tin chế độ tiền lệ cần thiết để đi theo con đường của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc. Đấy là bài học chính của chương 6, trong đó chúng tôi cho rằng Trung Quốc trong 1989 đã chỉ bắt đầu sự chuyển đổi của nó khỏi chủ nghĩa xã hội, tự tách mình ra khỏi các tai họa của thời đại Mao, và muộn màng bước vào hàng ngũ của châu Á kiến tạo-phát triển.
Ba thập niên kể từ đó, Trung Quốc được công nhận trong chương này trong vị trí đúng của nó như nước lãnh đạo không thể tranh cãi của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của châu Á. Giàu vượt quá dự đoán của bất cứ ai, Trung Quốc và chế độ ĐCSTQ lãnh đạo nó, là đủ mạnh để xem xét sự chuyển đổi từ một vị thế sức mạnh. Tuy vậy, ngay cả sau khi tích lũy được sức mạnh chế độ ghê gớm, Trung Quốc vẫn hết sức không chắc để làm vậy, phần lớn do các đặc tính chung với các nước khác trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển.
Giống Việt Nam và Cambodia, Trung Quốc vẫn là một nước kiến tạo-phát triển đến muộn với các vấn đề lần lữa khổng lồ về sự tương đối nghèo và bất bình đẳng, các vấn đề đặc biệt rõ rệt căn cứ vào di sản xã hội chủ nghĩa của chế độ. Nó cũng có một lịch sử của các xung đột nội bộ tàn phá làm cho sự tự tin ổn định được chế độ và nhân dân Trung quốc đặc biệt đánh giá cao, nhưng một sự tự tin mà cũng đặc biệt khó để có được. Thiếu bất cứ lịch sử nào của các cuộc bầu cử đa đảng, ĐCSTQ cũng thiếu cơ sở bằng chứng rõ ràng cho sự tự tin chiến thắng mà đặc trưng cho các đảng thống trị trong các cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển và Britannia kiến tạo-phát triển. Có lẽ quan trọng nhất, sự định vị địa-chính trị của Trung Quốc như đối thủ siêu cường lớn nhất của nước Mỹ trong thực tiễn loại trừ dân chủ hóa trên cơ sở dân tộc chủ nghĩa. Cho dù dân chủ qua sức mạnh sẽ thúc đẩy sự nhảy vọt lớn nhất đến sự tự do dân chủ cho nhân dân Trung quốc, ban lãnh đạo Trung quốc—nhất là dưới Tập Cận Bình—dường như kiên quyết chống lại việc theo đuổi nó.
Củng cố nền Kinh tế
Ngay sau sự đàn áp Thiên An môn 1989, ĐCSTQ bắt đầu một con đường kinh tế cắt bớt, khắc khổ, và củng cố sự kiểm soát nhà nước. Tự do hóa kinh tế, các nhà lãnh đạo Trung quốc lập luận, đã thúc đẩy các đòi hỏi cho tự do hóa chính trị. Toàn bộ hệ thống như thế cần được kiềm chế trở lại nếu Trung Quốc muốn tránh một tai họa khác.5
Được Thủ tướng Lí Bằng dẫn đầu, chế độ nhanh chóng tái tập trung nền kinh tế, đặt sự nhấn mạnh đến mô hình kiến tạo-phát triển xã hội chủ nghĩa, kế hoạch hóa nhà nước được phe Lí ưa chuộng. Các năm trước các cuộc biểu tình Thiên An môn, theo quan điểm của Lí, là bằng chứng về nền kinh tế đang tự do hóa chạy điên cuồng. ĐCSTQ, sau 1989, đã ưu tiên tái cân bằng nền kinh tế, cho dù nó có nghĩa là sự tăng trưởng chậm lại. Nhà nước đã giảm lạm phát bằng việc đưa lại các sự kiểm soát giá. Chính phủ đã hồi sinh khu vực doanh nghiệp sở hữu nhà nước (SOE) qua các chính sách bảo hộ và một dòng tín dụng ngày càng tăng cho các hãng nhà nước.
Mặc dù các cải cách cắt giảm đã hiệu quả trong việc làm giảm lạm phát, chúng “đã vượt quá” tác động dự kiến của chúng với các hậu quả tức thì và nghiêm trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Đáng chú ý, năng suất, cũng như tiêu dùng, đã giảm nhanh. Hãy nhớ rằng trong thập niên từ 1979 đến 1988, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Trung Quốc đã lởn vởn quanh 10 phần trăm; trong 1989 và 1990, nó lao xuống còn chỉ 4 phần trăm.
Chẳng bao lâu sau đó, chính phủ lại sang số lần nữa, quay trở lại một chương trình nghị sự cải cách kinh tế tự do. Đặng Tiểu Bình bắt đầu Chuyến Đi Miền Nam nổi tiếng của ông trong 1992, thăm các tỉnh và thành phố miền nam chủ chốt mà đã nhanh chóng trở thành các động cơ năng động của sự phát triển công nghiệp ban đầu của Trung Quốc. Đặng báo hiệu rằng Trung Quốc phải tiếp tục, thậm chí tăng tốc, con đường cải cách của nó, ủng hộ các khuyến khích thị trường, đầu tư nước ngoài, và thương mại quốc tế. Giang Trạch Dân, trở thành chủ tịch trong 1993, theo sự ra hiệu từ Đặng và đưa vào khái niệm nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chấp nhận dứt khoát mô hình và tên “thị trường”, tuyên bố chính thức của Giang đã là điểm ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tiến hóa của ĐCSTQ.6
Mục tiêu của sự chuyển đổi sau-1992 sang một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã là để “bỏ kế hoạch.” Việc hủy các biện pháp cắt bớt 1989, nhà nước đưa lại sự định giá thị trường vào cho các hàng hóa và các dịch vụ. Chính phủ đã mở rộng sự tự do hóa giá cả thêm nữa trong các khu vực tiêu dùng, kể cả trong các thị trường năng lượng và thực phẩm. Chính quyền Giang đã thực hiện một loạt cải cách doanh nghiệp, làm tăng tính di động lao động và sự linh hoạt lương, mà đã tăng tốc sự tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước khuyến khích tính di động vốn nhiều hơn để tài trợ các doanh nghiệp khu vực-tư nhân. Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải, sở giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới hiện nay, được thành lập lại trong 1990 sau khi bị đóng cửa trong 1949 khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) được thành lập.
ĐCSTQ cũng đã tạo không gian cho khu vực-tư nhân đang phát triển nhanh bằng việc cải cách khu vực SOE. Tuy việc này đã không xảy ra nhanh, vì cải cách SOE đã (và tiếp tục là) tương đối chậm chạp do những sự gián đoạn lao động tiềm tàng to lớn nảy sinh từ tư nhân hóa và việc thu hẹp lại các SOE. Đây chỉ là một trong nhiều cách mà di sản xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là quan trọng, và một trong các nhân tố phân biệt Trung Quốc với các láng giềng Á châu kiến tạo-phát triển của nó mà không có một quá khứ xã hội chủ nghĩa.
Để khởi động quá trình cải cách SOE, Giang đã tuyên bố chiến dịch “giữ (doanh nghiệp) lớn, thả nhỏ” trong 1997. Các nhà lập kế hoạch và quản lý nhà nước được khuyến khích để “buông” các SOE kém hiệu quả trong khi duy trì sự kiểm soát đối với các SOE lớn, nhất là các SOE trong các ngành chiến lược. Việc cải cách từ từ khu vực SOE, cùng với sự tăng trưởng nhanh của khu vực doanh nghiệp tư nhân, đã làm thay đổi phong cảnh công nghiệp của Trung Quốc. Vào cuối các năm 1990, khu vực SOE chiếm chỉ 28 phần trăm tổng sản lượng công nghiệp. Trong khi đó, các công ty khu vực-tư nhân chiếm tuyệt đại đa số sản lượng công nghiệp cũng như xuất khẩu của Trung Quốc.7
Để giải quyết vấn đề tài khóa của nó, ĐCSTQ đã thực hiện những cải cách thuế quan trọng trong 1994, đưa vào vài loại thuế mới để tạo thu nhập cho nhà nước trung ương. Quan trọng nhất, các cải cách đã tập trung các luồng tài khóa cho chính phủ trung ương. Trước đó, tuyệt đại đa số (lên đến 80 phần trăm) thu nhập thuế đã ở lại trong kho bạc tỉnh, ràng buộc khả năng của chính phủ trung ương để phân bổ các nguồn lực cho quốc phòng, đầu tư cơ sở hạ tầng, và các sáng kiến chiến lược khác như phát triển kinh tế quốc gia. Trước 1994, chính phủ trung ương đã buộc phải chịu thâm hụt ngân sách kinh niên, đôi khi cần vay các chính quyền địa phương và tỉnh đổi lấy các IOU (giấy nợ-I Owe yoU).8
Cải cách tài khóa 1994 đã làm tăng đột ngột quy mô ngân sách trung ương và năng lực của nhà nước để tiến hành các chiến lược đầu tư trong nền kinh tế. Giữa 1995 và 2012, thu nhập thuế trung ương đã tăng hơn gấp đôi. Mặc dù các chính quyền địa phương và tỉnh bị mất phần của chúng trong chiếc bánh tài khóa, chúng có được sự tự trị hơn để phát triển các nền kinh tế địa phương của chúng. Ít phụ thuộc vào sự hào phóng tài khóa, các chính quyền vùng nắm bắt các cơ hội thị trường để thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các hãng sinh lời, đóng cửa các hãng vi phạm, và tăng thu nhập xuất khẩu của chúng. Nói đơn giản, cải cách tài khóa đã tăng tốc các cải cách thị trường của Trung Quốc trong khi cũng củng cố định chế quan trọng nhất của tất cả các định chế độc đoán: nhà nước trung ương.
Chế độ ĐCSTQ đã tự do hóa các quy tắc và các quy định quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng vào của nó. Giữa 1979 và 1999, FDI hướng vào được tích lũy của Trung Quốc đã tăng lên hơn 300 tỉ USD và khoảng 1 ngàn tỉ USD một thập niên muộn hơn. Vào giữa-các năm 1990, chỉ vài năm sau Chuyến Đi miền Nam của Đặng, các hãng đầu tư-nước ngoài đã chiếm một phần năm sản lượng công nghiệp và 40 phần trăm của tổng xuất khẩu.
Các hãng chế tạo nước ngoài được thu hút tới Trung Quốc bởi vì cung lao động dồi dào và thị trường người tiêu dùng khổng lồ của nó. Chúng cũng được thu hút tới các đặc khu kinh tế và những dàn xếp thuế được ưu đãi của chúng, đặc biệt trong các tỉnh ven biển thân thiện-xuất khẩu của Trung Quốc. Trong sự chuẩn bị sự gia nhập 2001 của nó vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Trung Quốc đã cam kết giảm thuế nhập khẩu ngang hầu hết các khu vực và tìm kiếm nhiều FDI hơn để thúc đẩy các ngành xuất khẩu của nó. Chính phủ đã hợp nhất và sau đó đã phá giá đồng tiền Trung quốc để tạo thuận lợi cho thương mại và đặc biệt để tăng các mặt hàng xuất khẩu Trung quốc. Như phần của chiến lược “ra toàn cầu” của Giang, Trung Quốc đã vĩnh viễn đảo ngược thâm hụt thương mại của nó bắt đầu trong giữa-các năm 1990.9
Hồ Cẩm Đào kế vị Giang Trạch Dân như chủ tịch của Trung Quốc trong 2003, chỉ định Ôn Gia Bảo làm thủ tướng. Trong hầu hết các khía cạnh, chính quyền Hồ-Ôn (2003–13) đã tiếp tục quỹ đạo tăng trưởng-cao, định hướng-toàn cầu mà Giang đã khởi xướng một thập niên trước. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh đã củng cố tính chính danh thành tích của chế độ cầm quyền. Trung Quốc trở nên giàu hơn, và điều này tạo ra sự ủng hộ cho chế độ ĐCSTQ độc tài.
Tuy vậy, chính quyền Hồ nhận ra rằng thành quả phát triển của Trung Quốc đã không làm lợi cho hầu hết mọi người, và rằng nhiều người, đặc biệt những người trong lục địa và ở nông thôn, bị bỏ lại đằng sau. Nếu chế độ muốn lợi dụng thành tích kinh tế của nó về mặt chính trị, một mình sự tăng trưởng tổng hợp sẽ là không đủ để duy trì tính chính danh của nó. “Chất lượng tăng trưởng,” như Hồ diễn đạt, cần nhiều sự chú ý hơn.
Trong đầu các năm 2000, nền kinh tế nông thôn của Trung Quốc bị đau khổ. Các doanh nghiệp hương trấn được lợi ban đầu từ các cải cách sau-1978 đã bị sự cạnh tranh khu vực-tư nhân chèn ép. Vào giữa-các năm 1990, các doanh nghiệp nông thôn, đã quan trọng cho việc hấp thu dư thừa lao động nông thôn và cung cấp việc làm dựa vào-lương sớm hơn trong thời kỳ cải cách, về cơ bản đã lạc hậu. Sợ rằng sự tăng trưởng thiếu cân đối có thể kích động đối lập chính trị với chế độ, ĐCSTQ đã tập trung vào sự phát triển nông thôn, khuyến khích sự tăng trưởng công nghiệp nhiều hơn ở các tỉnh nội địa của Trung Quốc và cung cấp sự miễn thuế một phần thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn.
Vào các năm 2000, hố sâu kinh tế đã rộng ra nghiêm trọng giữa các tỉnh miền tây nội địa và các tỉnh ven biển. Không lâu sau khi nắm quyền trong 2003, chính phủ Hồ đã tăng gấp đôi sáng kiến “phát triển miền tây,” được đưa ra trong cuối các năm 1990 để giảm bất bình đẳng kinh tế vùng.10 Nhiều người trong ban lãnh đạo ĐCSTQ đã lo sự xuất hiện của “hai Trung Quốc”—các thành phố ven biển giàu và các tỉnh nội địa bị bần cùng—sẽ kích sự bất mãn và có khả năng làm giảm sự ủng hộ chính trị cho chế độ cầm quyền và chiến lược phát triển của nó. Chính phủ Hồ-Ôn đã phân bổ một cách không cân đối nhiều nguồn lực hơn cho các tỉnh miền tây cho sự phát triển cơ sở hạ tầng để thúc đẩy sự trao đổi và thương mại, đầu tư công nghiệp vào các khu vực tăng trưởng chiến lược, và giảm thuế để thu hút đầu tư nước ngoài và tạo ra các khu chế xuất được ưu đãi.
Chính phủ Hồ cũng đã ưu tiên cải cách chính sách xã hội, đặc biệt sự mở rộng từ từ của các chương trình bảo hiểm xã hội do nhà nước-tài trợ. Bất chấp hàng thập niên tăng trưởng kinh tế và sự cam kết nhà nước cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa, các chương trình phúc lợi do chính phủ vận hành của Trung Quốc thực sự đã loại trừ nhiều người nghèo nông thôn và đô thị. Các gia định thu nhập thấp đã không được hưởng một mạng an sinh xã hội, có nghĩa là họ tự trả tiền cho các dịch vụ xã hội. Trước đó đến giữa-các năm 2000, chẳng hạn, chi tiêu từ-túi-riêng về chăm sóc sức khỏe đã vượt tài trợ chính phủ.11
Chế độ Hồ đã đảo ngược điều này bằng việc tăng phần của nhà nước trong hóa đơn chăm sóc sức khỏe quốc gia. Trong 2006 tài trợ công cho chăm sóc sức khỏe đã cao hơn các khoản chi từ túi-riêng lần đầu tiên kể từ đầu các năm 1990. Trong 2009 chính phủ đã thực hiện một sơ đồ bảo hiểm sức khỏe mới và sâu rộng, phủ không chỉ những người lao động nông thôn và đô thị mà cả các cư dân thất nghiệp và những người phụ thuộc không-làm việc. Phần lớn được tài trợ công, chương trình bảo hiểm phổ quát đã mở rộng độ phủ lên 95 phần trăm dân cư, đảm bảo sự tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe và thuốc cho gần như tất cả các công dân, bất kể tình trạng việc làm của họ. Các cải cách chính sách xã hội này đã rất được lòng dân giữa các công dân Trung quốc, tạo ra nhiều sự ủng hộ hơn cho chế độ ĐCSTQ.
Tóm lại, thành tích phát triển kinh tế của ĐCSTQ là rất đáng kinh ngạc. Vào 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản như nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Thu nhập trên đầu người đã vút lên cao từ đầu các năm 1990 trở đi, nâng Trung Quốc vào tầng trên của các nước thu nhập-trung bình của thế giới và kéo hàng trăm triệu người khỏi sự nghèo cùng cực, một thành tựu phát triển con người chưa từng có. Nếu chủ tịch Tập Cận Bình hiện thời có thể thực hiện đúng những lời hứa hào phóng của ông, sự nghèo cùng cực ở Trung Quốc sẽ được loại bỏ hoàn toàn qua một hỗn hợp của sự chi tiêu công quá mức và sự tăng trưởng kinh tế tiếp tục.
Trung Quốc cũng đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới về mặt tổng lượng thương mại và xuất khẩu. Trung Quốc đã năng nổ đa dạng hóa các thị trường của nó ở phương Bắc toàn cầu cũng như trong các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, Trung Á, và châu Phi. Một thời bị chê vì sự thiếu thương hiệu toàn cầu hấp dẫn của chúng, bây giờ các công ty Trung quốc đang cạnh tranh trong các thị trường tiêu dùng một thời được thống trị bởi các thương hiệu Mỹ, Nhật bản, và Âu châu. Trong 2001 chỉ 11 hãng Trung quốc được liệt kê trên Fortune 500 của thế giới; vào 2020, các hãng Trung quốc đã chiếm 124 trong số 500 hãng lớn nhất trên thế giới, che khuất Hoa Kỳ (với 121 công ty) và hơn gấp đôi Nhật Bản (với 53 công ty).12
Các công ty Trung quốc không chỉ khổng lồ; chúng đang leo lên chuỗi giá trị toàn cầu. Được lợi từ các năm đầu tư công và đầu tư khu vực-tư nhân vào các đại học, các phòng thí nghiệm nghiên cứu, nghiên cứu khoa học và công nghệ, Triển khai, và thương mại hóa, các hãng Trung quốc đang thách thức các hãng lãnh đạo toàn cầu trong những công nghệ tiên tiến.
Sự hiện diện kinh tế của Trung Quốc trên sân khấu thế giới đã phát triển theo những cách khác. Trong các năm gần đây, Trung Quốc đã dẫn đường trong việc hình thành các consortium đầu tư xuyên quốc gia đầy tham vọng, như Sáng kiến Vành đai và con Đường và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Á châu. Các hãng Trung quốc cũng đã trở thành một trong những nguồn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong các nền kinh tế đang lên khác ở phương Nam toàn cầu.
Việc Tích tụ các Sức mạnh Chế độ
Sự phát triển kinh tế phi thường của Trung Quốc đã tạo ra tính chính danh thành tích to lớn cho chế độ. Tuy vậy, trong khi sự tăng trưởng kinh tế là một nguồn quan trọng của sự ủng hộ chính trị của một chế độ độc đoán, nó không phải là nguồn duy nhất. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy trong các phần khác của châu Á kiến tạo-phát triển, sự tăng trưởng kinh tế nâng cao các đòi hỏi xã hội cho thành tích chính phủ tốt hơn, ngay cả khi nó nâng cao tính chính danh chế độ. Kể từ vụ thảm sát Thiên An môn 1989, đảng cầm quyền ở Trung Quốc đã ở trên một quỹ đạo rõ ràng để tích tụ các sức mạnh, kể cả nhưng không hạn chế ở tính chính danh thành tích kinh tế.
Một chế độ bị yếu trong cái bóng của 4 tháng Sáu 1989, ĐCSTQ đã nhanh chóng xây dựng lại bộ máy đảng. Thật quan trọng, nó đã thể chế hóa một quy trình kế vị lãnh đạo nội bộ, một hỗn hợp của các tiêu chuẩn phi chính thức về cân bằng phe phái và các cơ chế chính thức cho sự cất nhắc có tính trọng dụng nhân tài lên các cấp bậc đảng. Sự kế vị lãnh đạo có thể dự đoán được, một đặc tính chủ chốt của sức mạnh và tính bền của đảng độc đoán, đảm bảo sự ổn định hơn bên trong đảng và là giảm những sự chia rẽ bè phái mà trước đây đã làm yếu ĐCSTQ dưới cả Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Trong chừng mực sự kế vị lãnh đạo xảy ra, sự chuyển tiếp từ Giang Trạch Dân sang Hồ Cẩm Đào trong 2003 đã bình thản, không có sự cố về mặt chính trị, như sự chuyển tiếp lãnh đạo tiếp theo sang Tập Cận Bình.
ĐCSTQ cũng đã tích cực xây dựng lại và định hình lại cơ sở đảng viên của nó. Căn cứ vào những cố gắng của đảng để phát triển nền kinh tế và theo đuổi một con đường thực dụng hơn là ý thức hệ đến phát triển, “các kẻ thù giai cấp” trước kia như các doanh nhân khu vực-tư nhân được hội nhập vào hàng ngũ đảng. Tại Trung Quốc đang hiện đại hóa nhanh, các doanh nhân tư bản chủ nghĩa là một cơ sở ủng hộ quan trọng nếu được giúp đỡ, và một nguồn tiềm năng của đối lập chính trị đối với đảng cầm quyền nếu bị bóp nghẹt. Dù đã nói thế, bất chấp chủ nghĩa thực dụng ý thức hệ của Đặng, di sản xã hội chủ nghĩa của đảng đã khiến khó để ủng hộ các doanh nhân tư nhân. Việc thâu nạp các doanh nhân vào ĐCSTQ đã chậm.
Quá trình thâu nạp này đã lấy được đà trong đầu các năm 2000. Trong 2002, chủ tịch Giang sắp mãn nhiệm đã đưa ra một khẩu hiệu quần chúng mới tại Hội nghị Nhân dân tòa Quốc (NPC-Quốc hội): “ba đại diện.” Đảng cầm quyền, ông tuyên bố, phải đại diện những cố gắng của Trung Quốc để phát triển các hình thức năng suất cao nhất, để hoàn thiện văn hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, và để đại diện các lợi ích của nhân dân Trung quốc. Đảng tiến hóa, vì thế, cũng cam kết đại diện cho các lợi ích của các doanh nhân, mà đã báo hiệu một cửa mở cho các nhà kinh doanh-tư nhân để trở thành các đảng viên.
Họ đã làm thế theo từng đàn không lâu sau đó. Các ước lượng gợi ý rằng gần một nửa các nhà kinh doanh-tư nhân của Trung Quốc là các đảng viên ĐCSTQ. Dù bởi vì ĐCSTQ đã thành công thâu nạp các “nhà tư bản đỏ” này hay họ đã chia sẻ các quan điểm tương tự với các quan điểm của đảng cầm quyền, giai cấp doanh nhân đang nổi lên của Trung Quốc đã không đòi các cải cách chính trị, như nhiều nhà lãnh đạo ĐCSTQ ban đầu đã sợ (và một số nhà quan sát bên ngoài ban đầu đã dự đoán). Thay vào đó, các doanh nhân nói chung đã ủng hộ đảng cầm quyền và status quo (hiện trạng) chính trị, và họ được xem như các đối tác hơn là các kẻ thù của ĐCSTQ. Nói đơn giản, các doanh nhân đã củng cố liên minh cầm quyền của đảng cầm quyền.13
Sau Thiên An Môn, ĐCSTQ đã lập các kênh mới cho input (đầu vào) từ dưới lên, tạo ra các phương thức tham gia bình dân mới và các nguồn tính chính danh chính trị mới giữa các công dân. Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung quốc (CPPCC) được chế độ ca ngợi như một cơ chế thể chế qua đó các công dân có thể cất lên tiếng nói, ý kiến của họ về mọi vấn đề của chính trị và chính sách, từ chính sách đối nội đến các vấn đề đối ngoại. CPPCC gồm chủ yếu các đảng viên, tuy nó cũng bao gồm các tổ chức đại diện các khu vực khác nhau của xã hội, như liên đoàn thanh niên, các hội doanh nhiệp, thương mại, các tổ chức lao động, và các tổ chức chính trị liên kết-ĐCSTQ khác. Chịu trách nhiệm với NPC, CPPCC định vị bản thân mình như đoàn thể bày tỏ ý kiến quốc gia cho input xã hội, kể cả những phàn nàn chính trị. Nó được dự định để cung cấp van xả-áp lực mà đã hết sức thiếu trong thời gian dẫn đến khủng hoảng tháng Sáu 1989.
Những cố gắng để tạo ra cái các quan chức Trung quốc gọi là “chủ nghĩa độc đoán hiệp thương” tiếp cận xuống tới mức địa phương. Ví dụ, ĐCSTQ đã thực hiện các cải cách bầu cử làng trong cuối các năm 1990 để khiến các cuộc bầu cử nông thôn minh bạch và ít tham nhũng hơn. Mặc dù các cuộc bầu cử này vẫn còn xa mới cạnh tranh, cải cách bầu cử đã dẫn đến sự tham gia công dân tăng lên vào chính trị và quản trị địa phương. Tương tự, sự tăng nhanh của các tổ khu dân cư đô thị bắt đầu trong các năm 1980 có ý định để tạo ra nhiều input xã hội hơn vào các công việc đô thị địa phương. Để cải thiện sự quản trị địa phương và phản ứng chính quyền, chế độ ĐCSTQ cũng đã khuyến khích các thử nghiệm mức địa phương về các thực hành tư vấn để tạo ra nhiều con đường hơn cho input công dân vào các vấn đề chính sách.14
Trước sự đàn áp thẳng tay gần đây dưới thời Tập, chế độ thực tế đã hoan nghênh sự phát triển của xã hội dân sự, và đặc biệt sự hình thành của cái gọi là các tổ chức phi chính phủ (NGO). Các NGO Trung quốc phải đăng ký với các nhà chức trách; vì thế, chúng được nhắc tới như “các NGO được chính quyền tổ chức,” hay các GONGO. Hiện thời ở Trung Quốc có hơn 500.000 GONGO được đăng ký, với những ước lượng về hàng triệu nhóm xã hội dân sự tiềm tàng không có đăng ký hoạt động ở Trung Quốc.
Khu vực NGO không nhất thiết đối kháng với chế độ, như chúng ta thường kỳ vọng trong các xã hội khác. Chính phủ tích cực cộng tác với các nhóm xã hội dân sự, đặc biệt các nhóm liên quan đến cung cấp dịch vụ xã hội và các sự nghiệp phi-chính trị khác. Từ quan điểm của chế độ độc đoán, chừng nào các diễn viên xã hội dân sự—kể cả các nhóm không đăng ký—kiềm chế khỏi các hoạt động chính trị rõ ràng, thì chính phủ sẵn lòng nuôi dưỡng sự phát triển của chúng.15
ĐCSTQ trong các năm 1990 và 2000 đã ngày càng trở nên khoan dung hơn, mặc dù vẫn một cách chọn lọc, với sự bất đồng và phản kháng chính trị. Internet đã cung cấp một diễn dàn quan trọng cho sự phản hồi công dân, kể cả những sự than phiền với chính phủ. Gần đây chế độ đã đàn áp hoạt động vận động “netizen (công dân mạng)” (activism), mặc dù internet tiếp tục là một nơi, dù bị giám sát cẩn thận, cho hoạt động lật đổ chính trị. Về mặt huy động dân chúng và phản kháng, theo nghĩa đen hàng trăm cuộc phản kháng (biểu tình) nhỏ bắt đầu xảy ra hàng ngày ở Trung Quốc. Hầu như tất cả “các sự cố” phản kháng này đã nhỏ về quy mô, gồm chỉ một vài cá nhân. Các cuộc phản kháng cũng thường là về các mối quan tâm địa phương, từ những người tố giác các quan chức địa phương tham nhũng đến những than phiền NIMBY (không trong sân sau của tôi). Đối với ĐCSTQ, sự bất đồng chính kiến đã trở thành một nguồn phản hồi quan trọng mặc dù được quản lý cẩn trọng cho chế độ, miễn là sự bất đồng chính trị được định vị, bị kiềm chế và không lan rộng hay huy động các phong trào phản kháng lớn hơn.16
Cái tất cả điều này thêm vào là sự thực ĐCSTQ ngày nay, không như trong 1989, là một đảng cầm quyền rất mạnh, bình dân, và hết sức thích nghi. Nó đã tích tụ các sức mạnh chồng lên các sức mạnh kể từ thời kỳ cải cách bắt đầu hơn bốn thập niên trước. Sau 1989, đảng cầm quyền đã tổ chức lại thành công về nội bộ và đã củng cố quyền lực của nó. Nó đã tạo ra tính chính danh phổ biến giữa các công dân và sự ủng hộ chính trị trong vị trí lãnh đạo sự biến đổi kinh tế, xã hội, và chính trị phi thường của Trung Quốc. Và quan trọng nhất, nó đã thích nghi và tiến hóa và, ít nhất trong vài thập niên, đã sang tên một chế độ mềm hơn, khoan dung hơn, và cởi mở hơn. ĐCSTQ ngày nay không phải là ĐCSTQ như nó đã là dưới thời Mao, cũng chẳng là đảng cầm quyền trong năm 1978 vào lúc bắt đầu thời kỳ cải cách, cũng chẳng như ngay cả trong 1989 khi chế độ chọn để đàn áp thẳng tay và dùng bạo lực chấm dứt các cuộc biểu tình Quảng Trường Thiên An Môn.17 Nói cách khác, nếu ĐCSTQ thu lượm sức mạnh trong các năm 1980, như chúng tôi lập luận trong chương 6, chúng tôi có thể nói dứt khoát ĐCSTQ ngày nay là một đảng có các sức mạnh phi thường và là đủ mạnh để xem xét việc thừa nhận dân chủ qua sức mạnh.
Các tín hiệu báo điềm xấu?
So với các tín hiệu báo điềm xấu (báo điềm gở) nhưng vẫn làm yên lòng mà đã báo hiệu những sự thừa nhận dân chủ phòng ngừa như trong các trường hợp rộng như Hàn Quốc, Indonesia, và thậm chí Myanmar, các chỉ báo về sự suy giảm chớm nở ở Trung Quốc vẫn không đáng báo động và không rõ cho ĐCSTQ. Đồng thời, sau bốn thập niên tích tụ các sức mạnh chính trị và kinh tế, khả năng của ĐCSTQ để tiếp tục tích tụ sức mạnh như vậy có thể đang tàn đi. Có các dấu hiệu về đảng cầm quyền có thể đã đạt, hay đang sắp đến gần, đỉnh cao quyền lực của nó.18
Nhịp độ phát triển kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại, đi từ một sự tăng trưởng trung bình 10 phần trăm một năm xuống “bình thường mới” hiện nay khoảng 6 phần trăm bắt đầu trong giữa-các năm 2010, và chậm thậm chí thêm nữa giữa đại dịch coronavirus bắt đầu trong 2020. Xu hướng chậm lại này không phải là một sự ngạc nhiên. Các nhà kinh tế học cho rằng Chủ tịch Tập, khi lên nắm quyền trong 2013, đã thừa kế một nền kinh tế cần cải cách cơ cấu lớn. Cần các cải cách khó khăn nếu muốn nền kinh tế Trung quốc tiếp tục tăng trưởng với cùng tốc độ như trước kia. Năng suất đã giảm sút trong nền kinh tế Trung quốc bắt đầu trong đầu các năm 2000. Các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á và các phần khác của thế giới đang phát triển đã bắt đầu xén bớt lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc về lao động chế tác dồi dào và rẻ. Các hãng Trung quốc bắt đầu di chuyển các nhà máy của chúng ra nước ngoài, tìm kiếm các thị trường lao động rẻ hơn ở nơi khác, hệt như các hãng nước ngoài đã nhìn vào Trung Quốc và thúc đẩy sự phát triển công nghiệp nhanh của nước này trong các năm 1980.
Trong khi tiêu dùng trong nước đã tăng lên trong các năm gần đây, một phần lớn của sự tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Trung Quốc có thể vẫn được quy cho đầu tư. Tuy vậy, chiến lược tăng trưởng do đầu tư-dẫn dắt của Trung Quốc có khả năng đang đạt các giới hạn của nó. Những cố gắng hiện thời của chủ tịch Tập để tăng thu nhập nông thôn và giảm bất bình đẳng được dùng một phần để giải quyết sự bất cân đối đầu tư-tiêu dùng bằng việc tăng chi tiêu hộ gia đình ở Trung Quốc. Tuy vậy, những người nghi ngờ sợ các cố gắng này có thể quá muộn vì các nền kinh tế địa phương đang vật lộn với sự nghiện của chúng với sự tăng trưởng do đầu tư-thúc đẩy. Việc tái cân bằng cuối cùng có thể có nghĩa là nền kinh tế chậm lại, mà có thể tỏ ra là hiểm họa về mặt chính trị cho chế độ.
Nền kinh tế Trung quốc cũng ngày càng bị những gánh nặng nợ nần khổng lồ. Những mối lo gần đây về Evergrande và các consortium phát triển bất động sản khác dùng đòn bẩy nợ cao đe dọa gây bất ổn định các thị trường tài chính của Trung Quốc. Khu vực SOE, mà đã là một mục tiêu của những cải cách khó khăn kể từ các năm 1990, cũng tiếp tục hút hết các nguồn lực đầu tư chính phủ. Khu vực vẫn tràn ngập các khoản vay không trả được, phản ánh sự bất lực hay sự không sẵn lòng của nhà nước để buông các hãng zombie (thây ma), không sinh lời. Ngoài ra, các chính quyền địa phương đang mang những gánh nợ không thể chịu nổi, khi chúng đạt các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chúng nhờ đầu tư được tài trợ-bằng nợ. Nợ hộ gia đình và người tiêu dùng cũng tăng lên ở mức vi mô, vì giá nhà ở và chi phí sinh hoạt nói chung tiếp tục tăng vọt ở các thành phố Trung quốc.19 Sự nợ nần tăng lên khiến các nguyên tắc kinh tế cơ bản của Trung Quốc không còn hoạt động đúng nữa.
Các mức bất bình đẳng tăng lên gây ra một thách thức chính trị và kinh tế nghiêm trọng cho chế độ ĐCSTQ, đặc biệt vì sự cam kết của đảng với một ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Hệ số Gini của Trung Quốc đã tăng từ dưới 0,3 vào lúc bắt đầu thời kỳ cải cách trong đầu các năm 1980 lên gần 0,5 trong các năm 2000. Các ước lượng không chính thức cho thấy nó tồi hơn nhiều, gợi ý hệ số Gini của Trung Quốc có thể gần 0,6 hơn, mà sẽ xếp hạng nó giữa các xã hội bất bình đẳng nhất thế giới.
Các mức bất bình đẳng tăng lên một phần là do sự đình trệ về lương nông thôn trong các năm vừa qua và sự giảm sút tổng thể về các cơ hội và năng suất kinh tế ở nông thôn. Giá cả tăng lên đã làm bình đẳng thu nhập trầm trọng ở các thành phố. Tuy vậy, bất bình đẳng tăng lên không được trải nghiệm về một mình bất bình đẳng thu nhập. Các sự chênh lệch của cải đang trở nên đặc biệt rõ rệt ở Trung Quốc, khi sự tiếp cận đến nhà ở và giáo dục ngày càng bị hạn chế. Các sự chuyển giao của cải giữa các thế hệ đã mở rộng khoảng cách của cải của Trung Quốc. Các mức chênh lệch quá xá như vậy cắt đến lõi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và bản sắc của ĐCSTQ.
Việc cân bằng sự tăng trưởng kinh tế với các mối quan tâm khác thích đáng về mặt chính trị nêu ra những thách thức khó khăn cho chế độ hiện tại. Các công dân Trung quốc đã chuyển sự chú ý của họ sang—đã bày tỏ sự bất mãn của họ với—chất lượng cuộc sống của họ. Đúng như chính quyền Hồ-Ôn đã tiên tri tập trung vào “chất lượng tăng trưởng” hơn là chỉ sự tăng trưởng tổng hợp, nhân dân Trung quốc ngày càng chú ý hơn đến các mối quan tâm hậu-duy vật. Sự an toàn người tiêu dùng, chẳng hạn, đã trở thành một tâm điểm cho sự bất đồng quan điểm công dân và sự huy động dân chúng. Cái gọi là các vấn đề và lời than phiền NIMBY, như việc nhà nước thu hồi đất và các chi phí của đô thị hóa nhanh và sự dời chỗ, cũng đang đến mặt tiền chính trị. Các mối lo ngại môi trường liên quan đến ô nhiễm không khí và sự tiếp cận đến nước sạch đã đưa chính phủ vào thế thủ.20 ĐCSTQ đang ngày càng đối mặt với vô số thách thức chính trị và kinh tế.
Cách chế độ chọn để đáp ứng với sự phản kháng đang nổi lên và chính trị gây tranh cãi minh họa liệu nó cảm nhận các thách thức như vậy như tốt hay như các mối đe dọa sinh tồn.21 Ngày càng có vẻ như ĐCSTQ cảm nhận chúng như các mối đe dọa sinh tồn. Mặc dù nó đã tự miêu tả mình như một chế độ khoan dung và tham khảo ý kiến hơn, đảng cầm quyền tiếp tục đầu tư các nguồn lực đáng kể vào bộ máy an ninh nội bộ, phát triển các chiến thuật đàn áp tinh vi để nhổ tận rễ những người bất đồng quân điểm nhạy cảm về chính trị. Việc chế độ ĐCSTQ thường xuyên triển khai các công nghệ tốn kém cho việc giám sát internet, sự kiểm duyệt báo chí và media xã hội, giám sát CCTV, các chiến dịch thông tin sai lệch, sự đe dọa bỏ tù, và thậm chí sự đàn áp bạo lực gợi ý đảng cầm quyền đánh giá chính trị gây tranh cãi nổi lên như các mối đe dọa cho sự ổn định của chế độ. Bất chấp các sức mạnh của ĐCSTQ được tích lũy qua sự phát triển khó tin của Trung Quốc, sự đổi hướng đàn áp của nó dưới chế độ Tập hiện tại không ngụ ý sự tự tin ổn định, mà đúng hơn là ngược lại.
Ngoài các thách thức kinh tế và chính trị trong nước ra, thì tình hình địa-chính trị đối với Trung Quốc đã trở nên ngày càng căng thẳng. Ngày càng niều nước đang chỉ trích Trung Quốc và hồ sơ nhân quyền của nó, các yêu sách lãnh thổ của nó trong khu vực, và ảnh hưởng kinh tế mở rộng của nó về mặt quốc tế. Khi Trung Quốc trở nên hùng mạnh hơn trên sân khấu thế giới, các láng giềng của nó đang trở nên bực dọc và lo lắng hơn về sự bắt nạt của Trung Quốc, và các cường quốc lớn khác đang nghi ngờ sâu sắc hơn về sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Đấy là một sự thay đổi lớn so với các năm 1990, khi Trung Quốc đầu tiên hội nhập mình đầy đủ hơn vào nền kinh tế quốc tế và đã thiết lập các chỗ đứng quan trọng trong các định chế quản trị toàn cầu như WTO, Ngân hàng Thế giới, và nhiều tổ chức khu vực Á châu. Trung Quốc cộng sản đã không là một đồng minh của phần còn lại của thế giới, nhưng nó cũng đã chẳng là kẻ thù hay kẻ thách thức của nó. Tuy vậy, ngày nay nó ngày càng được cảm nhận như, và cư xử như thể nó là, một đối thủ địa-chính trị của Hoa Kỳ và các đồng minh của nó. Các sự chỉ trích toàn cầu về các chính sách Trung quốc—từ sự đối xử của chế độ với những người Uighur Muslim ở Tân Cương, đến các mối lo an ninh về các hãng Trung quốc, đến những cáo buộc về các chính sách thương mại không công bằng—đang đóng góp cho các áp lực ngày càng không thân thiện và cạnh tranh lên Trung Quốc từ phần còn lại của thế giới.
Các hậu quả chính trị, kinh tế, và ngoại giao tương lai của sự ganh đua hiện tại với Hoa Kỳ là mập mờ. Là không rõ, chẳng hạn, liệu bản thân các nhà lãnh đạo Trung quốc xem các cơn gió ngược địa-chính trị là một tín hiệu đáng lo ngại và như các áp lực có thể làm hại chế độ và tính chính danh chính trị của nó ở trong nước. Là rõ, tuy vậy, rằng các cuộc chiến thương mại kéo dài, những sự cãi vã ngoại giao với các nước thân thiện trước kia, các đụng độ biên giới nổ ra lặp đi lặp lại, và một dàn hợp xướng tăng lên của sự lên án quốc tế đối với các hành động trong nước và quốc tế của Trung Quốc sẽ khiến ngày càng khó cho Trung Quốc để tiếp tục theo cách suôn sẻ như nó đã có trong bốn thập niên qua.
Sau khi đã phát triển một thành tích phát triển kinh tế thực sự phi thường, chế độ ĐCSTQ có vẻ đang tiến gần đến một điểm uốn quan trọng. Nó có thể hoặc đi con đường cải cách chính trị tới một tương lai tự do hơn hay tăng gấp đôi sự đổi hướng độc đoán của Tập. Lý thuyết của chúng tôi về dân chủ qua sức mạnh có thể giúp thông báo phân tích này.
Như chúng tôi cho thấy suốt cuốn sách này, các chế độ mạnh chắc có khả năng nhất để chọn thừa nhận dân chủ khi chúng vượt qua đỉnh cao quyền lực của chúng. Hơn nữa, đảng độc đoán cầm quyền càng gần đỉnh cao đó, sự chuyển đổi càng có khả năng sẽ ổn định và đảng cầm quyền đương nhiệm giữ được quyền lực. Nói đơn giản, chế độ càng mạnh, càng tốt cho chế độ đương nhiệm nếu nó chọn nền dân chủ.
Các tín hiệu mà chế độ ĐCSTQ nhận được trong thập niên qua hay khoảng thế, từ các tín hiệu kinh tế đến địa-chính trị, không nhất thiết có nghĩa là đảng cầm quyền đang bắt đầu suy giảm. Tại thời khắc hiện tại, ĐCSTQ có được sự ủng hộ chính trị rộng rãi, và tính chính danh thành tích mà nó đã tạo ra trong bốn mươi năm qua cung cấp cho đảng cầm quyền sức mạnh chính trị và kinh tế đáng kể—bây giờ.
Bởi vì ĐCSTQ ở Trung Quốc là một trường hợp ứng viên cho dân chủ qua sức mạnh, chúng tôi không biết—vì chúng tôi không thể biết chắc chắn tương lai sẽ là gì—liệu thực ra chế độ đã vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó và đang ở trong vùng buồn vui lẫn lộn hay không. Như chúng ta thấy với các trường hợp trong cụm Britannia kiến tạo-phát triển, việc đợi để tìm ra với sự chắc chắn, tuy vậy, có thể gây ra các mối đe dọa thực và có lẽ sống còn đối với chế độ đương nhiệm.
Một chủ đề lặp đi lặp lại suốt cuốn sách này là sự phát triển tạo ra sự bất mãn của riêng nó. Thành công quá khứ, do các kỳ vọng tăng lên của mọi người về thành công tương lai, tạo ra các nhóm bất đồng chính kiến biệt lập mà có thể nhanh chóng trở thành đối lập trưởng thành. Bruce Dickson mô tả câu đố như nghịch lý Tocquevillian, hay “cách mạng của những kỳ vọng tăng lên,” mà ông cho là ở lõi của “tình thế khó xử của nhà độc tài.” Trong trường hợp Trung Quốc, Dickson suy đoán rằng “cho dù hiện nay đảng không đối mặt với đối lập có tổ chức, nó có thể bị cách mạng của những kỳ vọng tăng lên phá hủy.”22 Mặc dù các thách thức mà ĐCSTQ hiện tại đối mặt có thể không báo điềm xấu ngay lập tức, tuy nhiên chúng báo hiệu các thách thức xã hội, kinh tế, và địa-chính trị mà chế độ trong hình thức hiện thời của nó không thể giải quyết nổi.
Hệt như mô hình tăng trưởng kinh tế hiện thời của Trung Quốc đã đạt các giới hạn của nó và cần được cải cách đáng kể, công thức tính chính danh thành tích mà chế độ đã dựa vào đến nay để duy trì sự thống trị chính trị của nó có thể cũng sắp hết hạn. Quyết định của ĐCSTQ để tăng các năng lực ngăn chặn và đàn áp của nó trong các năm gần đây, và việc siết chặt quyền lực độc đoán của nó dưới Chủ tịch Tập, gợi ý đảng đương nhiệm cảm nhận rằng cách tốt nhất để đối phó các trở ngại lờ mờ này là di chuyển Trung Quốc ra xa hơn, thay vì gần hơn, con đường dân chủ hóa ổn định, nhà nước-mạnh của các láng giềng Bắc Á gần nhất của nó.
Bất chấp sự tự tin ổn định và chiến thắng ĐCSTQ nên có vì các sức mạnh được tích tụ trong bốn thập niên qua, dường như chế độ đang chọn để tránh xa sự lựa chọn dân chủ-qua-sức mạnh. Như chúng ta đã thấy ở chương 8 trong các trường hợp của Malaysia và Hồng Kông, và như chúng tôi khám phá muộn hơn trong chương này trong trường hợp Cambodia, việc tránh xa con đường này đến với các rủi ro lớn của riêng nó.
Các Triển vọng Dân chủ của Trung Quốc
Trong lý thuyết dân chủ qua sức mạnh của mình, chúng tôi nêu bật nghịch lý của sức mạnh đảng đương nhiệm. Khi “một đảng cầm quyền có được năng lực đương nhiệm đáng kể, điều này không chỉ làm tăng khả năng của nó để duy trì sự cai trị độc đoán, mà có thể làm giảm sự bắt buộc của nó để làm vậy.”23 Nói cách khác, khi một đảng đương nhiệm đủ mạnh để duy trì sự kìm kẹp độc đoán của nó lên quyền lực chính trị trong lúc này, nó cũng đủ mạnh để thừa nhận dân chủ mà không thừa nhận thất bại, như thế làm tăng khả năng nó có thể chọn con đường dân chủ.
Theo quan điểm của chúng tôi, ĐCSTQ rõ ràng là đủ mạnh để chọn cả hai đường; nó đang trong vùng ít đắng cay hơn ngọt ngào rất nhiều. Đảng cầm quyền Trung Quốc có thể khẳng định một cách đáng tin cậy rằng nó đã sắp đặt và trông nom sự phát triển phi thường của Trung Quốc. Đảng ngày nay, không như trong 1989, có một “quá khứ có thể sử dụng được” đáng thuyết phục mà nó có thể khai thác để tạo ra sự ủng hộ cử tri cho đảng dẫn Trung Quốc vào pha tiếp theo của xã hội hiện đại hóa, kinh tế, và chính trị. Thành tích của ĐCSTQ không giới hạn ở kinh tế học. Các cải cách quản trị để làm tăng năng lực tham vấn của chế độ phản ánh tính phản ứng nhanh của đảng với các đòi hỏi và input công dân. Việc ĐCSTQ thâu nạp các doanh nhân tư bản chủ nghĩa phản ánh khả năng của nó để thích nghi với sự tiến hóa kiến tạo-phát triển của Trung Quốc. Các công dân Trung quốc ủng hộ chế độ một cách rộng rãi, thừa nhận vai trò quá khứ và thành tích lịch sử của đảng.24
Nói đơn giản, thành tích phát triển kinh tế và chính trị của đảng sẽ là tấm vé lớn nhất tới sự ổn định và chiến thắng trong một tương lai dân chủ. Về khía cạnh này, Trung Quốc tiếp tục trông ngày càng giống các láng giềng nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó, và ngày càng ít gống khối Soviet trước kia mà đã sụp đổ ba thập niên trước. Trong hỗn hợp của chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển của Trung Quốc, sự cam kết của chế độ với sự tăng trưởng kinh tế và chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã tiếp tục tăng lên, còn trọng lượng của chủ nghĩa xã hội đã nhẹ đi.
ĐCSTQ lẽ ra phải tự tin rằng nếu nó dân chủ hóa theo các điều kiện và sự định thời gian của riêng nó, Trung Quốc sẽ vẫn ổn định. Nếu ĐCSTQ lãnh đạo quá trình chuyển đổi, như Quốc Dân Đảng (QDĐ) đã làm ở Đài Loan, chế độ đương nhiệm chắc chắn sẽ đưa ra các sự bảo vệ thể chế và các điều kiện hiến pháp để đảm bảo một quá trình chuyển đổi ổn định.25 Ngược với nỗi sợ rằng nền dân chủ sẽ mang lại sự hỗn loạn và sự bất ổn định, người ta có thể kỳ vọng một sân chơi bằng phẳng, dân chủ hơn ở Trung Quốc để mang lại van xả-áp lực cần để tháo ngòi một số căng thẳng chính trị bên trong Trung Quốc, kể cả việc quản lý các mối quan hệ hòa bình và bền vững hơn dọc ngoại vi bất ổn của Trung Quốc. Quả thực, một trong những bài học cốt lõi học được từ cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển là chuyển đổi dân chủ có khả năng nuôi dưỡng nhiều hơn, không phải ít hơn, sự ổn định chính trị ở Trung Quốc.
Đảng cầm quyền ở Trung Quốc là bình dân. Không chỉ các công dân Trung quốc ủng hộ chế độ đang quản trị, như được bày tỏ trong hầu như mọi cuộc khảo sát ý kiến; hầu hết người dân ủng hộ ĐCSTQ một cách cụ thể, mà phải cho đảng đương nhiệm sự tự tin chiến thắng dư dả. Tất nhiên, các công dân chỉ trích đảng và chế độ, và chắc sẽ chỉ trích ngày càng công khai hơn trong một nền dân chủ. Các nhà phê bình ĐCSTQ, chẳng hạn, sẽ hình thành một đảng đối lập với ĐCSTQ trong một nền dân chủ đa đảng. Thế nhưng, hiện tại, không có lựa chọn thay thế khả thi nào cho ĐCSTQ đương nhiệm. Nếu Trung Quốc dân chủ hóa, không có đảng thách thức có thể tưởng tượng được nào có thể làm nó mất ghế như đảng cầm quyền trong ngắn hạn. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, các đối thủ của một chế độ độc đoán có thể ủng hộ một đảng kế vị độc đoán trong cuộc bầu cử sau khi nó dân chủ hóa hệ thống chính trị. Nói cách khác, ĐCSTQ nên có nhiều sự tự tin rằng việc thừa nhận dân chủ sẽ không có nghĩa là sự thất bại của nó như các đảng cầm quyền đương nhiệm ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan đã tự tin, nếu không phải nhiều hơn.
Có nhiều người bên trong Trung Quốc cho rằng chuyển đổi dân chủ sẽ cản trở sự phát triển của Trung Quốc. Những người chỉ trích chỉ ra tấm gương Soviet và truyện cảnh báo về glasnost và perestroika cho những người muốn là các nhà cải cách dân chủ. Tại Trung Quốc, bài học rút ra từ tấm gương Soviet đã là chuyển đổi dân chủ gây ra sự bất ổn định chính trị và sự rối loạn kinh tế. Nó cũng đã có nghĩa là cái chết chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX). Chẳng gì tốt đến từ dân chủ hóa cả, theo chuyện kể phê phán này.
Đó là bài học sai để rút ra từ tấm gương Soviet. Sự thất bại dân chủ ở Liên Xô trước kia và cái chết của ĐCSLX là do sự sụp đổ hơn là sự thừa nhận dân chủ của đảng cầm quyền đương nhiệm. ĐCSLX bắt đầu thừa nhận chỉ một nửa các biện pháp cải cách tự do hóa vào lúc khi chế độ đã mất tính chính danh và không được lòng dân rồi, đến mức khi một sự mở cửa dân chủ xảy ra, đảng cầm quyền đương nhiệm nhanh chóng bị đá ra ngoài. Nếu chế độ Trung quốc có học bất cứ thứ gì từ tấm gương Soviet, thì bài học đó nên là việc đợi quá lâu sau khi một đảng độc đoán cai trị vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó khiến cho chuyển đổi dân chủ ít ổn định hơn và ít thuận lợi hơn cho những người đương nhiệm. Như chúng tôi đã cho thấy trong cụm Britannia, khi một chế độ tránh nền dân chủ quá lâu, vượt qua ngày “tốt nhất-trước khi (best-before)” của nó, nó làm tăng rủi ro của việc lao qua vùng buồn vui lẫn lộn (vùng cay đắng-ngọt ngào, bittersweet spot) hoàn toàn, dẫn đến hoặc cái chúng tôi gọi là chủ nghĩa độc đoán cay đắng (Hồng Kông và, ngày càng, Singapore) hay thậm chí sự thất bại hoàn toàn của chế độ độc đoán (như ở Malaysia).
Các Trở ngại cho nền Dân chủ Trung quốc
Bất chấp là một trường hợp thuyết phục cho chế độ ĐCSTQ để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh, các triển vọng về chuyển đổi dân chủ vẫn không chắc xảy ra ở Trung Quốc, thậm chí xa vời. Quỹ đạo chính trị, mà chế độ hiện tại ở trên đó, không báo trước điềm tốt cho dân chủ ở Trung Quốc. Một số người đã suy đoán rằng những cố gắng sớm của Tập Cận Bình để củng cố quyền lực cá nhân của riêng ông bên trong đảng có ý định để đặt nền móng cho một kịch bản thừa nhận dân chủ khả dĩ. Việc ĐCSTQ siết chặt sự kìm kẹp độc đoán lên quyền lực và triển khai nhiều chiến thuật đàn áp hơn trong các năm gần đây, tuy vậy, gợi ý rằng những hy vọng đó đã đặt nhầm chỗ, và rằng Tập và ĐCSTQ không đang chuẩn bị cho một hệ thống chính trị tự do hơn.26 Nước đi của Tập để xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ chủ tịch nước trong 2018 xác nhận quỹ đạo hiện nay của ĐCSTQ rời xa khỏi dân chủ hóa.
Hãy gạt suy đoán về các ý định của Tập sang một bên, tuy vậy, có các lý do cấu trúc vì sao một nền dân chủ-qua-kịch bản sức mạnh là hết sức không chắc xảy ra ở Trung Quốc. Thứ nhất, các tín hiệu báo điềm xấu tiềm tàng rằng chế độ ĐCSTQ đang bắt đầu suy giảm hay đã vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó vẫn quá không rõ ở Trung Quốc. Như chúng tôi đã tranh luận trong lý thuyết của chúng tôi, các tín hiệu rõ nhất về sự giữ quyền lực của một đảng cầm quyền, dù nó đang lên hay đang giảm, là tín hiệu bầu cử. Hãy nhớ lại rằng trong trường hợp mẫu mực của chúng ta về dân chủ qua sức mạnh, Đài Loan, các cuộc bầu cử đã cung cấp các vòng phản hồi cho chế độ QDĐ để đo tính được lòng dân của nó giữa các cử tri. Sự nắm quyền lực của QDĐ đã chẳng bao giờ bị nghi ngờ, đặc biệt vì quân luật đã cấm sự hình thành các đảng đối lập, mặc dù đảng cầm quyền đã phải tính toán đến sự ủng hộ cử tri teo đi của nó trong các năm 1970 và các năm 1980. Các cuộc bầu cử đã báo hiệu rõ ràng cho đảng cầm quyền đương nhiệm về sức mạnh của nó đang giảm.27
Tại Trung Quốc, các tín hiệu bầu cử giỏi nhất là không đáng tin cậy và tồi nhất là không tồn tại. Các cuộc bầu cử làng và thị trấn cung cấp ít sự rõ ràng bởi vì tham nhũng, hối lộ, thói côn đồ, và sự đe dọa cử tri làm méo mó thông tin đáng tin cậy cho ĐCSTQ về sự nổi tiếng và sự ủng hộ của nó. Khi thiếu các các tín hiệu rõ ràng, đảng cầm quyền có thể ít tự tin hơn về các triển vọng dân chủ của nó, một vấn đề rõ ràng trong tất cả các chế độ độc đoán thiếu các cuộc bầu cử đa đảng.
Thứ hai, ĐCSTQ đã tỏ ra rất khéo léo trong việc né tránh sự đổ lỗi chính trị khỏi ban lãnh đạo trung ương. Giữa sự lên trong chính trị gây tranh cãi sau 1989, đảng khu biệt hiệu quả sự bất đồng chính kiến. Ngoài việc triển khai bộ máy an ninh để dập tắt bất kể cuộc nổi dậy tiềm năng nào, đảng cầm quyền ở Bắc Kinh đã chuyển hướng sự đổ lỗi chính trị cho các cán bộ địa phương. Bất chấp chiến dịch chống tham nhũng của Tập, đã phát hiện ra sự thối nát rộng rãi bên trong đảng và giữa các quan chức chính phủ, hầu hết công dân tiếp tục tin cậy và ủng hộ chế độ trung ương, trong khi thiếu sự tin cậy vào các quan chức địa phương.28
Thứ ba, ĐCSTQ có sức chịu đựng cao đối với bất kể áp lực địa-chính trị để dân chủ hóa nào. Như chúng tôi kể lại chi tiết trong cuốn sách này, các nước trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã đối mặt với các mức độ áp lực khác nhau từ Hoa Kỳ để thừa nhận dân chủ. Trung Quốc, tuy vậy, đã chẳng bao giờ là một đồng minh của Hoa Kỳ, và vì thế nó trơ trơ với các tác động liên kết xuyên quốc gia mà thúc đẩy dân chủ hóa trực tiếp và gián tiếp.29 Quả thực, nó ngày càng xem mình là một đối thủ của các nền dân chủ giàu có của thế giới. Các nhà nước khác, quan trọng nhất kể cả Hoa Kỳ, cũng ngày càng xem Trung Quốc như một đối thủ. “Tác động kéo” dân chủ mà đã khuyến khích cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển để thừa nhận dân chủ lại vắng mặt ở Trung Quốc đương thời. Nếu có thể, sự cạnh tranh địa-chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tạo ra môt “tác động đẩy” hay xua đẩy, mở rộng khoảng cách giữa các triển vọng dân chủ và khả năng mau phục hồi xã hội chủ nghĩa độc đoán
Cuối cùng, các triển vọng của nền dân chủ là không rất quyến rũ cho ĐCSTQ. Sự trượt lùi dân chủ khắp thế giới đã ngày càng trở nên phổ biến trong các năm gần đây, khi các nhà lãnh đạo được bàu chuyển sang các lời kêu gọi dân túy và chính trị phân cực để giành quyền lực chính trị. Các nền dân chủ ngày càng có vẻ bất ổn định bởi vì chúng là bất ổn định trong nhiều phần của thế giới, kể cả giữa các nền dân chủ trẻ hơn, được chuyển đổi gần đây hơn nơi “suy thoái dân chủ” toàn cầu là cấp bách nhất.30 Hơn nữa, nhiều người ở Trung Quốc tin chế độ ĐCSTQ là dân chủ rồi, chỉ ra các cố gắng của chính phủ để tạo ra nhiều cơ chế tham vấn hơn, sự thực hiện luật trị (rule of law-nhà nước pháp quyền), và sự ủng hộ công chúng cho chế độ. ĐCSTQ không phải là một nền dân chủ tự do hay thậm chí nền dân chủ bầu cử, nhưng nó tự cho là dân khác theo cách gồm sự tham gia và sự đáp ứng chính trị nào đó.31
Sự khẳng định rằng nền dân chủ tự do là một kiến trúc Tây phương và do đó không phù hợp cho xã hội Trung quốc một cách không ngạc nhiên đã có được sức kéo giữa các nhà lãnh đạo và các công dân Trung quốc, cũng như những người nước ngoài cổ vũ cho ĐCSTQ. Theo dữ liệu khảo sát gần đây của Dickson, hầu hết người Trung quốc tin Trung Quốc là “dân chủ rồi” và rằng sự chuyển đổi sang nền dân chủ bầu cử tự do là cả không cần thiết và không đáng mong muốn.32 Jie Chen cho rằng tầng lớp trung lưu của Trung Quốc không ủng hộ nền dân chủ nhưng ủng hộ chế độ ĐCSTQ.33 Các nhà lãnh đạo Trung quốc thậm chí bênh vực một “Mô hình Trung Quốc” thay thế, như Daniel Bell diễn đạt, mà có tiềm năng hấp dẫn với Trung Quốc hơn nền dân chủ.34 Các khuyến khích cho dân chủ hóa không, sự hấp dẫn của nền dân chủ cũng chẳng đủ để ép ĐCSTQ chọn nền dân chủ, cho dù chế độ đang ở vị thế lý tưởng để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh, và để tiếp tục phát đạt trong một nền dân chủ Trung quốc mới.
Việt Nam
Giống Trung Quốc, Việt Nam đã không dân chủ hóa qua sự yếu kém khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt. Không có sự sụp đổ cộng sản nào. Thay vào đó, trong hơn ba thập niên qua, Việt Nam đã gia nhập hàng ngũ của châu Á kiến tạo-phát triển như một thành viên của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của khu vực. Nó đã đạt điều này qua một bộ các cải cách kinh tế định hướng-thị trường và hướng-ngoại ấn tượng, không phải không giống những gì chúng ta đã thấy ở Trung Quốc. Các di sản và các thực hành xã hội chủ nghĩa chắc chắn vẫn dai dẳng, lại như ở Trung Quốc, trong sự nổi bật tiếp tục của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc gia và trong vai trò độc-đảng tiên phong do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đóng. Bất chấp các di sản xã hội chủ nghĩa, về mặt so sánh và lịch sử rộng hơn, sự biến đổi kinh tế của Việt Nam kể từ sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã thật đáng kinh ngạc.
Trong hầu hết các khía cạnh, phân tích tiếp sau sẽ vẽ Việt Nam như một phiên bản hơi yếu hơn của trường hợp xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển mà chúng tôi đã khám phá ở Trung Quốc, và như thế một ứng viên yếu hơn cho dân chủ qua sức mạnh. Chế độ ĐCSVN là đủ mạnh để dân chủ hóa qua sức mạnh, trong khi đối mặt chỉ với các tín hiệu yếu ớt và mờ rằng các cải cách dân chủ là cần thiết và chỉ có các áp lực yếu để làm vậy. Tuy vậy, Việt Nam là khác một cách có ý nghĩa với Trung Quốc, và không chỉ yếu hơn Trung Quốc một cách vừa phải, trong ít nhất hai cách chính.
Sự khác biệt chủ chốt đầu tiên nằm trong các định chế chính trị của Việt Nam: một sự khác biệt nổi bật nhất khi Trung Quốc ngày càng trở nên cá nhân hóa dưới Tập Cận Bình. Nói đơn giản nhất, Việt Nam có một cơ cấu quyền lực ly tâm đáng ngạc nhiên cho một chế độ xã hội chủ nghĩa độc-đảng bền bỉ. Các tỉnh có thẩm quyền thực; quốc hội đưa ra các quyết định thực, sau khi tổ chức các cuộc tranh luận thực được truyền hình trực tiếp; các nhà chỉ trích ĐCSVN có các cơ hội thực để khiến cho tiếng nói của họ được lắng nghe cả online và trong các cuộc biểu tình đường phố; và quyền lực chính trị thực được chia sẻ giữa các nhà lãnh đạo ĐCSVN mà kỳ vọng để được thay thế hoàn toàn theo một cách được chính quy hóa, có thể dự đoán được.
Tất cả điều này đã không khác ghê gớm với Trung Quốc trước 2013, giữa chế độ Đặng và chế độ Tập. Có lẽ sự thay đổi quan trọng nhất trong thời đại Tập đã là sự quay lại của Trung Quốc với một cấu trúc quyền lực hướng tâm hơn, với Tập như trung tâm cá nhân không bị thách thức. Các tỉnh, các định chế quốc hội, những người biểu tình, và những người kế vị tiềm năng tới ban lãnh đạo đảng của Trung Quốc tất cả đều có ít dư địa để thao tác dưới Tập hơn trước đó. Trong tất cả các lĩnh vực này có phạm vi lớn đáng kể ở Việt Nam hơn ở Trung Quốc. Liệu điều này có nghĩa các định chế độc đoán của Việt Nam bây giờ đang trở nên “mạnh hơn” hay “yếu hơn” các định chế của Trung Quốc là có thể bàn cãi. Cái không thể bàn cãi, tuy vậy, là các định chế độc đoán của hai láng giềng xã hội chủ nghĩa đang ngày càng trở nên khác biệt với nhau.
Cái cũng không thể bàn cãi là sự khác biệt chủ chốt thứ hai: vị trí địa chính trị của Việt Nam trên thế giới. Trong khi sự ganh đua địa-chính trị sâu thêm của Trung Quốc với Hoa Kỳ làm cho dân chủ hóa ở Trung Quốc ít có khả năng hơn, sự thực rằng Việt Nam xem Trung Quốc như một mối đe dọa lớn hơn và kình địch hơn Hoa Kỳ làm cho dân chủ hóa ở Việt Nam có nhiều khả năng hơn. Khi xem xét loại tín hiệu nào chắc có khả năng nhất làm thay đổi quỹ đạo chế độ của Việt Nam trong các năm tới, các tín hiệu địa-chính trị dường như là quan trọng nhất. Tuy vậy, vì các tín hiệu địa-chính trị không là các tín hiệu rõ nhất cũng chẳng mạnh nhất cho một chế độ đang suy giảm trong lý thuyết của chúng tôi, các triển vọng ngay lập tức cho Việt Nam để dân chủ hóa qua sức mạnh vẫn khá thấp.
Các sức Mạnh Kinh tế
Trong Chiến tranh Lạnh, Việt Nam đã liên minh chặt chẽ với Liên Xô, không giống Trung Quốc đã đi con đường riêng của nó sau sự chia rẽ Xô-Trung 1959. Việc này đã có các hệ lụy sâu sắc cho kinh tế chính trị của Việt Nam, kể cả phương thức của nó ra khỏi chủ nghĩa xã hội nhà nước và bước vào chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển. Trong khi Trung Quốc pha trộn chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa dân tộc kỹ trị (technonationalism) tự cung tự cấp trong thời kỳ Mao, Việt Nam đã hết sức phụ thuộc vào viện trợ sau khi đánh đuổi những người Pháp khỏi miền bắc trong năm 1954 và đẩy những người Mỹ khỏi miền nam của nó vào năm 1975.
Hơi nghịch lý, sự phụ thuộc bên ngoài sâu này dưới chủ nghĩa xã hội thời Chiến tranh Lạnh khiến cho Việt Nam dễ hơn để quốc tế hóa và mở nền kinh tế của nó với thế giới tư bản chủ nghĩa khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Việc nó bắt đầu “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển trong cuối các năm 1980 có thể đã muộn hơn sự gia nhập của Trung Quốc một chút; nhưng một khi nó bắt đầu, nó đã ít do dự hơn. Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng đã điều chỉnh thoải mái hơn Trung Quốc với các quy tắc của sự can dự kinh tế khu vực ở châu Á kiến tạo-phát triển, mặc dù đạt các mức phát triển tổng hợp thấp hơn của láng giềng phương bắc khổng lồ của nó rất nhiều.
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam cũng khác với nền kinh tế Trung quốc bởi vì cách mạng xã hội chủ nghĩa của nó đã khác. Sự lệch quan trọng nhất khỏi kinh nghiệm Trung quốc đơn giản là độ sâu và quy mô của sự biến đổi xã hội trong cách mạng Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã tiến hành một cách mạng xã hội chắc chắn như Trung Quốc đã thực hiện, ĐCSVN cầm quyền đã chiến thắng qua một chiến lược mặt trận-thống nhất đòi hỏi sự thỏa hiệp đáng kể với các lực lượng không-cộng sản.35 Nó như thế đã bị cản trở hơn ĐCSTQ trong khả năng của nó để cách mạng hóa các quan hệ tài sản, loại bỏ các thị trường khỏi dòng chính của đời sống kinh tế, và đòi hỏi sự trung thành ý thức hệ như Mao đã đòi hỏi khi ông tuyên bố thành lập CHNDTH. Điều này đặc biệt đúng ở miền nam, nơi sự cai trị ĐCSVN đã muộn và mong manh hơn. Các quan hệ thị trường đã bắt đầu thịnh hành phần lớn trong nông thôn Việt Nam ngay từ 1979. Nhưng trong khi thị trường hóa nông thôn vào cuối các năm 1970 là một sự thay đổi lớn về hướng sau cái chết của Mao và sự trỗi dậy chính trị của Đặng, thì ở Việt Nam điều này báo hiệu sự thất bại của ĐCSVN để biến đổi và xã hội hóa khu vực nông thôn trước tiên.36
Sự thức đẩy mạnh của ĐCSVN cho chủ nghĩa xã hội trong các năm 1970 có thể đã không biến đổi hiệu quả nền kinh tế chính trị của Việt Nam, nhưng nó chắc chắn đã phá vỡ nền kinh tế một cách tồi tệ. Việc vọng lại những nỗi kinh hoàng của Đại Nhảy Vọt ở Trung Quốc, hệ thống nông nghiệp của Việt Nam đã oằn dưới các áp lực của tập thể hóa cưỡng bức, tạo ra tình trạng hầu như nạn đói ở thành phố và nông thôn như nhau vào cuối các năm 1970.37 Để làm cho mọi chuyện tồi đi một cách đáng kể, Việt Nam thấy mình có chiến tranh với cả Cambodia, mà ĐCSVN xâm lấn để lật đổ Khmer Đỏ diệt chủng trong năm 1978, lẫn với Trung Quốc, mà sau đó đã xâm lấn Việt Nam để trả đũa vì việc lật đổ Khmer Đỏ đồng minh của ĐCSTQ. Đã không có bất cứ triển vọng nào cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa non nớt của Việt Nam để có được vị trí vững chắc và tiến bộ đáng kể dưới các điều kiện thù định như vậy, cả từ bên trong và từ bên ngoài.
Chủ nghĩa xã hội như thế đã tỏ ra là một chuyện hời hợt ở Việt Nam hơn ở Trung Quốc trước khi cả hai nước đi theo “chủ nghĩa xã hội thị trường.” Sự đi theo này giống một cơ chế sinh tồn hơn là một sự thay đổi ý thức hệ trong trường hợp Việt Nam. Mặc dù hội nghị toàn thể (TW) 1979 của ĐCSVN “thừa nhận vai trò hữu ích của khu vực-tư nhân, và trao sự tự chủ lớn hơn cho các chính quyền địa phương,” Tường Vũ cho rằng, “Các nhà lãnh đạo đảng coi các biện pháp này là một sự rút lui tạm thời nhưng không phải là các chính sách lâu dài bởi vì chúng rõ ràng mâu thuẫn với tầm nhìn Marxist về chủ nghĩa xã hội.”38
Tuy nhiên sự rút lui chẳng bao lâu sẽ tỏ ra là lâu dài. Những sự thay đổi địa-chính trị đã xảy ra khắp Việt Nam. Với sự lên nắm quyền của Mikhail Gorbachev ở Liên Xô, tay sai sẽ bắt chước ông chủ. Tại Liên Xô, perestroika đã là khẩu hiệu kinh tế kể từ 1986, vào cuối năm đó, ĐCSVN chính thức công bố chiến lược đổi mới riêng của nó. Tập hợp cải cách tự do hóa và quốc tế hóa kinh tế bao gồm trong đổi mới có nghĩa là Việt Nam nhanh chóng (trong một cú) “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển.39 Cái chết của nhà lãnh đạo ĐCSVN Lê Duẩn trong 1986 sau khi ông đã lãnh đạo đảng trong hơn hai mươi lăm năm cũng đóng góp cho đà của các cải cách kinh tế dứt khoát, cấp tiến dưới ban lãnh đạo mới của Nguyễn Văn Linh, một người miền nam với các chứng chỉ cách mạng hoàn hảo cần thiết cho việc hợp pháp hóa sự chuyển hướng mới dứt khoát của ĐCSVN khỏi tính chính thống xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới đã chẳng bao giờ có nghĩa là dân chủ hóa, hệt như Bốn Hiện đại hóa của Trung Quốc đã chẳng bao giờ có nghĩa là cải cách chính trị. Để đưa ra một sự tương tự Soviet, đổi mới đã nặng về perestroika và nhẹ về glasnost. Mặc dù Nguyễn Văn Linh đôi khi được gọi là “Gorbachev của Việt Nam,” chính xác hơn để gọi ông là Đặng Tiểu Bình của Việt Nam.* Những lời tán tỉnh ngắn với tự do hóa chính trị trong 1988, và đặc biệt quyền tự do báo chí lớn hơn để giúp ĐCSVN xử lý tham nhũng, đã bị đảo ngược nhanh chóng khi các chế độ cộng sản đổ nhào ở Đông Âu và ĐCSTQ thấy mình bị sốc trong 1989.40 Giống đảng cộng sản cầm quyền của Trung Quốc, ĐCSVN của Việt Nam đã kiên định tránh dân chủ hóa qua sự yếu kém.
May thay cho Việt Nam và ĐCSVN, những cải cách đầy kịch tính nhắm tới quốc tế hóa nền kinh tế đến vào một thời khắc đặc biệt thuận lợi, đúng khi Hiệp ước Plaza 1985 đang tháo một cơn lũ đầu tư Nhật bản vào Đông Nam Á. Không có một cơ sở khoa học hay công nghiệp mà có thể thậm chí sánh được với cơ sở của Trung Quốc sau-Mao, Việt Nam tuy nhiên đã có một dân cư được giáo dục tương đối rộng, như người ta kỳ vọng căn cứ vào quá khứ xã hội chủ nghĩa gần đây của nó. Các kết quả đã thật đáng chú ý từ một góc độ toàn cầu, mặc dù bình thường nơi liên quan đến châu Á kiến tạo-phát triển. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cho Việt Nam vọt lên trên 5 phần trăm vào năm 1988 và đã không rớt xuống dưới sự tăng nhanh hàng năm ấn tượng đó trong ba thập niên tiếp sau, ngay cả trong khủng hoảng tài chính Á châu cuối các năm 1990 và suy thoái toàn cầu cuối các năm 2000.
Rất theo tinh thần của châu Á kiến tạo-phát triển, việc theo đuổi sự phát triển nhanh và nâng cao chỗ của Việt Nam trong trật tự tôn ty khu vực đã trở thành “mối quan tâm chi phối của ban lãnh đạo chính trị Việt Nam” vào năm 2000, khi “đà tới sự tham gia khu vực và toàn cầu sâu rộng trở nên không thể cưỡng lại được.”41 Sự tăng trưởng lên đỉnh gần 10 phần trăm một năm trong giữa-các năm 1990, theo sau việc Mỹ gỡ bỏ những sự trừng phạt chống lại Việt Nam trong 1994, và đã tăng trưởng trung bình một cách điển hình khoảng 6–7 phần trăm suốt vài thập niên qua. Theo những con số của Ngân hàng Thế giới, trong 2020 nền kinh tế Việt Nam đã lớn hơn bốn mươi lần nó đã là trong 1990.
Điểm quan trọng không phải là Việt Nam bây giờ giàu, hay thậm chí thu nhập trung bình thoải mái. Vì Việt Nam đã gia nhập châu Á kiến tạo-phát triển từ một tình trạng kinh tế đặc biệt khó khăn, ngay cả ba thập niên kiên định tăng trưởng nhanh đã là không đủ để khắc phục các di sản hủy diệt của các cuộc chiến tranh tàn bạo và sự quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa tồi. Cho các mục đích giải thích của chúng tôi, điểm quan trọng là ĐCSVN có một thành tích kinh tế cực kỳ mạnh, trên và vượt xa hơn tính chính danh cách mạng nó đã có được từ việc giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự chiếm đóng của Pháp và Mỹ.
* Việc các tác giả không đả động gì đến Trường Chinh người có vai trò quyết định về đổi mới và đề cao Nguyễn Văn Linh chứng tỏ hiểu biết của họ về Việt Nam đôi khi cũng sơ sài, có lẽ do họ chủ yếu dựa vào các tài liệu tiếng Anh nói về Việt Nam.
https://vandoanviet.blogspot.com/2024/12/tu-phat-trien-en-dan-chu-su-bien-oi-cua_01683995898.html
Không có nhận xét nào