Header Ads

  • Breaking News

    Từ Phát triển đến Dân chủ – Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 10)

    Tác giả: Dan Slater Joseph Wong

    Việt dịch: Nguyễn Quang A

    Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022

    18/12/2024

    https://vanviet.info/wp-content/uploads/2024/11/Screenshot-2024-11-15-213056-300x191.png

    Sự Phát triển Thể chế Độc đoán

    Hồ sơ thành tích phát triển mạnh của Thái Lan đã bù cho các định chế dân sự yếu của nó theo những cách quan trọng. Một trong rất ít nước trong thế giới đang phát triển tránh được hoàn toàn sự thực dân hóa chính thức, Thái Lan đã không làm nảy mầm các đảng bảo thủ mạnh cũng chẳng các đảng cộng sản mạnh, mà thường nổi lên qua các cuộc đấu tranh quần chúng vì độc lập dân tộc.

    Thay vào đó, quân đội và nền quân chủ đã đóng các vai trò chính trị quá khổ ở Thái Lan. Từ cuộc đảo chính quân sự chấm dứt nền quân chủ chuyên chế trong 1932 cho đến sự lên nắm quyền của Thống Chế Sarit Thanarat trong 1957, nền quân chủ đã đóng vai đối tác nhỏ trong liên minh này. Tuy vậy, Sarit thấy nhà vua trẻ Bhumipol như một đồng minh không thể thiếu được trong sự thúc đẩy của ông để xây dựng một nhà nước Thái mạnh hơn và một nền kinh tế công nghiệp giàu hơn trong sự cai trị mười bốn-năm (1957–71) của ông. Thẩm quyền đạo đức và ảnh hưởng chính trị của nền quân chủ Thái đã tăng vọt trong thời kỳ này, biến nhà vua thành một người chơi then chốt trong tất cả các vấn đề của chủ nghĩa độc đoán và dân chủ hóa tiếp theo.43

    Bất cứ khi nào các quốc vương cai trị là mạnh, các đảng bảo thủ có khuynh hướng là yếu.44 Đảng bảo thủ quan trọng nhất ở Thái Lan, Đảng Dân chủ, đã xuất hiện trong 1946 khi đất nước bắt đầu thường nhật hóa các cuộc bầu cử cạnh tranh sau thời gian nửa-phát xít của nó ngay trước và trong Chiến Tranh Thế giới II. Tuy nhiên các nhà dân chủ đã chẳng bao giờ có khả năng củng cố các lực lượng chính trị bảo thủ dưới ngọn cờ đảng của nó. Thay vì nhất quán quăng trọng lượng đáng kể của nó đằng sau các nhà dân chủ bảo thủ, như quân đội Indonesia đã làm đằng sau Golkar, quân đội Thái nói chung đã tìm cách giữ hệ thống đảng phân mảnh và yếu sao cho không đảng duy nhất nào thách thức liên minh quân đội-quân chủ cầm quyền. Sự tự tin ổn định ở Thái Lan đã dựa vào sự tương đối yếu của các lực lượng có tổ chức có thể thách thức nhóm đầu sỏ bảo thủ cầm quyền hơn là vào sự bền-chắc của các tổ chức chính trị bảo thủ, như các đảng, để đánh bại tất cả những kẻ đến.45

    Trong khi các đảng Thái bị phân mảnh, quân đội Thái đã bị chủ nghĩa bè phái nội bộ cắt gân. Gốc rễ của sự thiếu cố kết quân sự của Thái Lan có thể được thấy trong các xung đột ý thức hệ và cá nhân gay gắt giữa hai nhân vật lãnh đạo trong cuộc đảo chính 1932 chống lại nền quân chủ, Pridi Phanomyong và Plaek Phibunsongkhram. Sự chia rẽ nội bội của quân đội đã chẳng bao giờ được giải quyết hoàn toàn trong Chiến tranh Lạnh, vì sự nhẹ của mối đe dọa cộng sản bên trong (không giống ở Indonesia) và khả năng quản lý tình cảm ly khai (không giống ở Myanmar) đã cho các elite Thái ít động lực để tụ họp lại với nhau và tổ chức về mặt chính trị.46

    Cuối cùng, sự phân mảnh quân đội đã mở đường cho đoạn dân chủ-qua-sự yếu của Thái Lan từ 1973 đến 1976. Khi các cuộc biểu tình dân chúng thách thức sự tham nhũng tràn lan dưới tam đầu chế quân sự cầm quyền thế chỗ Sarit sau cái chết sớm của ông vì xơ gan, nhà vua đã ủng hộ đạo đức cho những người đòi loại bỏ tam đầu chế và một nước đi dứt khoát tới các cuộc bầu cử dân chủ.

    Như rất thường xảy ra khi nền dân chủ phát sinh qua sự yếu kém và sự sụp đổ độc đoán, thời kỳ giữa 1973 và 1976 được đánh dấu bằng sự bất ổn định và sự phân cực. Trùng với cuộc hành quân tới chiến thắng của Bắc Việt cộng sản đối với Nam Việt Nam, sự trỗi dậy của các lực lượng tiến bộ bình dân trong thời gian bất-ổn định dân chủ ở gữa của Thái Lan đã rung các hồi chuông báo động. Khi các sinh viên cánh tả thử huy động sự ủng hộ quần chúng ở nông thôn bảo thủ và im lìm, liên minh quân đội-nền quân chủ Thái đã đánh trả lại với sự tàn bạo. Sau khi các lực lượng “Trinh sát Làng” bán-quân sự tàn sát các sinh viên cánh tả tại Đại học Thammasat ở Bangkok trong tháng Tám 1976, quân đội đã quay lại quyền lực hoàn toàn.47 Dân chủ qua sự yếu kém cấm dứt đột ngột và dữ dội.

    Tuy nhiên một sự trở lại chủ nghĩa độc đoán đầy đủ cũng không phải là thuốc bách bệnh cho sự ổn định chính trị. Một khi mối đe dọa của các sinh viên cấp tiến được vô hiệu hóa, quân đội Thái bắt đầu một quá trình thu thập từ từ các sức mạnh cần thiết cho dân chủ hóa theo một cách ổn định hơn cái đã xảy ra trong 1973 rất nhiều.

    Các Tín hiệu và các Nhượng bộ

    Nhân vật chính trị chi phối suốt thời đại dân chủ hóa-qua-sức mạnh chuyển động-chậm của Thái Lan là Prem Tinsulanond, một chỉ huy quân sự với các mối quan hệ hoàn hảo với ngôi vua. Vào đầu 1980, Prem đã đồng thời nắm các vai trò tổng chỉ huy Quân đội Hoàng gia Thái, bộ trưởng quốc phòng, và thủ tướng. Vào lúc ông rời chức vụ trong 1988, trao chức vụ cho Chatichai Choonhavan của Đảng Quốc gia Thái, được bàu một cách dân chủ, Prem đã chủ trì hơn một thập niên tăng trưởng kinh tế nhanh và các cải cách dân chủ từng phần. Tuy vậy, còn lâu mới rời khỏi sân khấu, đảm nhận chức chủ tịch Hội đồng Cơ mật của nhà vua trong thời gian dài của phần còn lại của đời ông, từ 1988 đến 2019. Chính từ vị trí cao quý nhưng bí mật này mà Prem đã trở thành trung tâm, cùng bản thân Vua Bhumipol, của “nền quân chủ mạng (network monarchy)” của Thái Lan cho đến cái chết của ông ở tuổi 98.48

    Hệ thống mà Prem đã tập hợp trong các năm 1980 được gán cho cái tên, đùa và không phải hoàn toàn không-công bằng, “Premocracy (nền Prem chủ).” Lời chế nhạo đã thâu tóm điểm căn bản rằng các elite quân sự đã giữ lại những sức mạnh đáng kể và nền quân chủ đã có được ảnh hưởng áp đảo, ngay cả khi các cuộc bầu cử tự do và công bằng đặt các chính trị gia dân sự chịu trách nhiệm chính thức về chế độ chính trị. Tuy nhiên sự chuyển sang một chế độ dân sự-lãnh đạo đã tạo thành một sự biến đổi dân chủ lớn. Hơn nữa, sự thay đổi diễn ra khi khi thời kỳ đã tốt đẹp, sự tự tin ổn định tăng lên, và các nhà lãnh đạo quân sự đã có thể ra các điều kiện của sự chuyển đổi mà không cần thương lượng sự ra đi của nó với một đối lập dân chủ. Sau khi đã dân chủ hóa ngắn ngủi qua sự yếu kém trong đầu các năm 1970, Thái Lan đã dân chủ hóa qua sức mạnh, gia tăng nhưng bền vững hơn, trong tiến trình của các năm 1980.

    Một mối đe dọa cộng sản giảm đi là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong sự tự tin ổn định tăng lên của quân đội Thái. Nói về mặt địa-chính trị, sự thống nhất đẫm máu của Việt Nam dưới sự cai trị cộng sản trong 1975 đã không dẫn đến sự xâm lấn của áp lực cánh tả tăng cao vào Thái Lan mà đến sự bong ra từng mảnh đột ngột và dữ dội của bản thân khối cộng sản. Cộng sản Việt Nam xâm lấn cộng sản Cambodia trong khi Trung Quốc cộng sản xâm lấn cộng sản Việt Nam, và Đông Nam Á trở thành một điểm nóng cho sự kình địch Trung-Soviet hơn là mục đích bành trướng chung. Sự nổi dậy cộng sản cây nhà lá vườn của Thái Lan, chẳng bao giờ là một sự nổi dậy đe dọa nhất của Đông Nam Á, đã nhanh chóng tan rã sau khi Prem đưa ra cho những người cộng sản một sự ân xá toàn diện trong 1980.

    Prem đã phải làm một cuộc dọn dẹp nghiêm túc bên trong quân đội bè phái kinh niên của Thái Lan. Mặc dù ông được nhà vua hậu thuẫn vững chắc và ông bắt đầu di chuyển Thái Lan theo một hướng tự do hóa dứt khoát khi ông trở thành thủ tướng, điều này không hề là một cải cách đồng thuận giữa các sĩ quan quân đội. Qua cuộc đảo chính của các Sĩ quan Trẻ (Young Turks) tháng Tư 1981 và một loạt mưu toan ám sát Prem, các phần tử cứng rắn trong quân đội đã thử đảo ngược xu hướng tích lũy dân chủ hóa của Thái Lan.

    Không chỉ các cố gắng phục thù này đã thất bại; chúng đã phản tác dụng. Còn lâu mới đẩy Prem và nhà vua theo một hướng bảo thủ hơn, những vụ bùng nổ bạo lực này đã làm mất uy tín của những người ủng hộ sự cai trị quân sự trực tiếp và đã vạch trần những mối nguy hiểm mà sự dính líu quân sự thái quá vào chính trị hàng ngày gây ra cho sự ổn định quốc gia.

    Kết cục đã là một bộ máy quân sự mà cả tương đối thống nhất và ủng hội các cải cách dân chủ dứt khoát hơn nhiều. Trong một sự ngược rõ ràng của quỹ đạo dân chủ hóa-qua-sự yếu kém do quân đội-lãnh đạo, một quân đội bị chia rẽ đã không thúc đẩy dân chủ hóa ở Thái Lan. Chỉ một khi các sự chia rẽ đó được giải quyết và sự thống nhất quân đội được phục hồi thì dân chủ hóa do quân độ-lãnh đạo mới có thể tiến hành qua sức mạnh. Hơn nữa, sự biến đổi dân chủ của Thái Lan đã gồm các sự nhượng bộ đơn phương mang tính phòng ngừa và không phải các cuộc thương lượng song phương giữa những người mềm mỏng của chế độ và những người đối lập ôn hòa được kỳ vọng trong văn liệu chính tắc về chuyển đổi dân chủ.49

    Trong việc dịch chuyển Thái Lan tới nền dân chủ, quân đội và nền quân chủ đã cần đảm bảo rằng các cuộc bầu cử sẽ không chuyển giao quyền lực chính trị cho bất kể lực lượng có tổ chức nào, như một đảng chính trị đối lập, mà vừa háo hức và có khả năng vượt quyền lực và ảnh hưởng kết hợp của chúng. May cho quân đội và nền quân chủ như nhau, không lực lượng đối lập có tổ chức như vậy nào thậm chí đã tồn tại. Không giống ở Indonesia và, như chúng ta sẽ thấy ngay sau, Myanmar, nơi các hậu duệ của các phong trào dân tộc chủ nghĩa quần chúng gây ra một thách thức bầu cử trực tiếp đối với sự thống trị của quân đội, Thái Lan trong các năm 1980 đã phô bày chỉ sự kết nối yếu nhất của quần chúng và các giai cấp thấp hơn trong các đảng hay các tổ chức chính trị thuộc bất cứ loại nào. Nếu các cuộc bầu cử dân chủ giả như trao quyền lực chính trị cho các chính trị gia dân sự, một cách áp đảo họ chắc chắn sẽ là các ứng viên elite, thân-doanh nghiệp mà đã đạt thành công lớn rồi và cảm thấy thích nghi một cách thoải mái với cuộc sống dưới ảnh hưởng quân đội-quân chủ và một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tự do.50

    Các cuộc bầu cử dân chủ cũng đưa ra cho các elite quân sự những con đường mới tới quyền lực theo quyền riêng của họ. Thậm chí còn nhiều hơn ở Indonesia, các nhà lãnh đạo quân sự ở Thái Lan đã trở thành các nhà lãnh đạo đảng khi dân chủ hóa diễn ra. Đáng chú ý nhất, nhưng còn xa mới độc nhất trong trường hợp Thái, tướng về hưu Chatichai Choonhavan, con trai của cựu tổng chỉ huy quân đội, đã thành lập Đảng Quốc gia Thái, mà đã giành được đa số phiếu trong các cuộc bầu cử quốc gia 1988. Chức thủ tướng của Chatichai từ 1988 đến 1991 đã khét tiếng vì việc phát tán quyền lực và các nguồn lực, thường theo cách hết sức tham nhũng, ngang dải đầy đủ của các diễn viên elite chính trị ở Thái Lan. Báo trước cái sẽ xảy ra một thập niên muộn hơn ở Indonesia và một phần tư thế kỷ muộn hơn ở Myanmar, các nhà dân sự ở Thái Lan đã giành được quyền lực đáng kể qua các cuộc bầu cử quốc gia tự do và công bằng nhưng quân đội không mất quyền lực của nó trong quá trình. Sự sống chung, không phải sự thay thế chính trị hoàn toàn của quân đội, đã là quy tắc ở Thái Lan như tại tất cả các trường hợp trong cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển.

    Cái làm cho hình mẫu chung này về sự thay đổi chế độ được cho là không như sự tự do hóa hời hợt mà như sự dân chủ hóa thực chất là sự thực rằng nó đã đi cùng với những sự bảo vệ được cải thiện đầy kịch tính cho các quyền chính trị và các quyền tự do. Đã không có sự cấp bách nào cho các elite Thái cầm quyền để hạn chế vũ đài bầu cử theo một cách “bầu cử độc đoán,” vì không đảng nào đã nổi lên để thách thức status quo kiến tạo-phát triển, chẳng quan tâm đến giành được đa số đại chúng. Thái Lan cũng chẳng đối mặt với các xung đột bản sắc hay sắc tộc mạnh trong các trung tâm dân cư lớn của đất nước, ép quân đội duy trì một nền dân chủ phi-tự do để kiểm soát các thiểu số bất kham. Sự nổi dậy ở miền Nam đa số-Muslim chỉ bùng lên muộn hơn trong đầu các năm 2000, với các hệ quả tàn phá có thể dự đoán được cho thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược được của Thái Lan.

    Đoạn cuối: Những sự Đảo ngược và các trận Đấu lại

    Với sự tự tin ổn định trong tay và với không sự lo lắng nào rằng các cuộc bầu cử có thể dẫn các nhà chỉ trích mạnh mẽ vào chức vụ quốc gia, các elite cải cách Thái lan đã sẵn lòng và có khả năng làm phẳng sân chơi bầu cử, mở cửa báo chí, và dỡ bỏ các hạn chế lên xã hội dân sự trong tiến trình các năm 1980 với sự tự tin đáng kể. Dân chủ qua sức mạnh đã đến Thái Lan. Nó đã kéo dài khá lâu, dù không mãi mãi.

    Thảo luận trước là rõ rằng nền dân chủ Thái nảy sinh trong các năm 1980 trong thời gian tốt đẹp về kinh tế và theo các điều kiện riêng của quân đội. Nó đã là một trường hợp của dân chủ qua sức mạnh, không phải qua sự yếu kém. Tuy nhiên với các tổ chức dân sự chính trị Thái không gây ấn tượng như chúng đã là, sức mạnh này kém xa sức mạnh chúng ta đã thấy trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc, hay thậm chí Indonesia. Sự thực rằng thử nghiệm dân chủ hóa của Thái Lan cuối cùng đã tỏ ra đặc biệt dễ bị đảo ngược có ý nghĩa căn cứ vào khung khổ giải thích của chúng tôi, đặc biệt vai trò mà các đảng bảo thủ mạnh đóng trong việc khiến cho dân chủ hóa do độc đoán-lãnh đạo có kết quả.51

    Rất quan trọng, nhịp điệu của sự đảo ngược chế độ ở Thái Lan đã là một sản phẩm của sự tự tin elite thay đổi—và nhất là đang teo đi. Sự gián đoạn thứ nhất của dân chủ hóa Thái đến trong 1991, khi chính phủ Chatichai cực kỳ tham nhũng và “nội các tiệc đứng (buffet cabinet)” của ông đã cho quân đội một cớ hoàn hảo để quay lại quyền lực.

    Tuy nhiên cái cớ đã không kéo dài. Với Chiến tranh Lạnh chấm dứt và chủ nghĩa cộng sản bị loại bỏ như một mối đe dọa có ý nghĩa, nền dân chủ ở Thái Lan thời bột phát đã gây ra ít sự lo lắng elite. Khi người đứng đầu cuộc đảo chính Suchinda Kraprayoon thử nuốt lời hứa của ông để trả lại quyền lực cho các nhà dân sự trong tháng Năm 1992, các cuộc biểu tình đô thị to lớn và sự can thiệp kịp thời của nhà vua đã đảm bảo rằng Premocracy nhanh chóng trở lại đúng hướng.

    Khủng hoảng tài chính Á châu 1997–98 thật trớ trêu đã làm sâu sắc nền dân chủ Thái hơn là làm xói mòn nó. Thay vì làm mất uy tín nền dân chủ, khủng hoảng báo hiệu rằng Thái Lan đã có quá ít dân chủ. Sau khi buộc thủ tướng đầu sỏ chính trị Chaovalit Yongchaiyudh phải từ chức, hiến pháp 1997 đã tăng cường các đảng chính trị và quốc hội trong khi cũng trân trọng đưa một bộ hoàn chỉnh của các quyền tự do vào đền thiêng pháp lý cho các công dân. Được khủng hoảng tài chính thúc đẩy, cải cách hiến pháp đã hứa một chính phủ dân sự ít phân mảnh hơn và đáp ứng nhanh hơn cho các mong muốn dân chúng. Việc này đã hủy các định kiến status quo trong hệ thống bầu cử được đưa vào dưới Premocracy trong các năm 1980.52

    Nghịch lý thay, sự cải thiện nền dân chủ Thái sau 1997 cuối cùng đã gây nguy hiểm cho nó. Tận dụng lợi thế của các quy tắc bầu cử mới khuyến khích một hệ thống đảng được củng cố hơn, người giàu nhất Thái Lan, trùm tư bản media Thaksin Shinawatra, đã tài trợ cho một đảng mới đầy thế lực, đảng Thai Rak Thai (Người Thái Yêu người Thái), để giành được một đa số ghế quốc hội ngay lập tức lần đầu tiên trong lịch sử Thái trong năm 2001.

    Điều này là một thách thức mới đối với nền dân chủ dễ lung lay của Thái Lan. Quân đội và nền quân chủ Thái lan đã chưa bao giờ đối mặt với quyền lực dân sự như vậy trước đây, và chúng đã phản ứng không khéo. Được các điều kiện an ninh xấu đi ở miền Nam đa số-Muslim và các cuộc biểu tình tầng lớp-trung lưu tăng lên đối với sự tham nhũng trắng trợn của Thaksin thúc đẩy, quân đội lại lần nữa lật đổ nền dân chủ Thái qua một cuộc đảo chính trong 2006.53 Liên minh quân đội-quân chủ cũ của Thái Lan đã không còn có sự tự tin vào nền dân chủ nữa, và chủ nghĩa độc đoán do quân đội-lãnh đạo đã quay lại.

    Trong mười lăm năm, qua các elite Thái cầm quyền về cơ bản đã thử quay lại các năm 1980. Các thử nghiệm kể từ cuộc đảo chính 2006 với việc trả lại quyền lực đáng kể cho các chính trị gia bảo thủ qua các cuộc tổng tuyển cử hết sức thiên lệch (trong 2007, 2011, 2014, và 2019) bị gián đoạn bởi một cuộc đảo chính nữa trong 2014 và những tuyên bố không đủ tư cách lập đi lặp lại đối với các đảng bị cho là gây mất ổn định (2007, 2008, 2019, và 2020). Trừ phi và cho đến khi quân đội và nền quân chủ Thái phát triển sự tự tin chiến thắng để tin rằng các đảng chính trị đồng minh của chúng có thể đánh bại các đảng tiến bộ và thân-Thaksin trong các cuộc bầu cử dân chủ đầy đủ, cũng như sự tự tin ổn định rằng các lợi ích của chúng sẽ được bảo vệ bất chấp ai thắng các cuộc bầu cử dân chủ, thì chủ nghĩa quân phiệt kiến tạo-phát triển sẽ tiếp tục có nghĩa là sự quân sự hóa chế độ ở Thái Lan.

    Myanmar

    Trong sáu trường hợp dân chủ qua sức mạnh của châu Á kiến tạo-phát triển, Myanmar bắt đầu thử nghiệm dân chủ của nó trong 2011 với ít sức mạnh nhất. Có thể dự đoán, nó đã tiến triển ít nhất trong việc thiết lập nền dân chủ trong thập niên thử nghiệm dân chủ của nó từ 2011 đến 2021. Và dù sự đảo ngược độc đoán hoàn toàn mà đã xảy ra một cách bi thảm trong tháng Hai 2021 với một cuộc đảo chính quân sự đã còn xa mới là không thể tránh khỏi, lý thuyết của chúng tôi có soi sáng lên việc vì sao Myanmar bắt đầu một thử nghiệm dân chủ khi nó thử trong đầu các năm 2010, và cả vì sao nó luôn là trường hợp có khả năng nhất ở châu Á kiến tạo-phát triển cho một sự đảo ngược dứt khoát và chí tử của dân chủ hóa để xảy ra.

    Như chúng ta đã thấy ở Indonesia và Thái Lan, các trường hợp của “chủ nghĩa quân phiệt kiến tạo-phát triển” tất cả đều thừa nhận các cải cách dân chủ từ các vị thế sức mạnh và sự tự tin đáng kể, dù ít sức mạnh độc đoán đáng kể hơn trong các trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc. Myanmar rõ ràng đã thiếu mức trung của sức mạnh đảng của Golkar ở Indonesia hay sức mạnh quan liêu của Thái Lan khi các cải cách dân chủ bắt đầu ở đó trong 2011, khiến thế giới kinh ngạc, dưới sự lãnh đạo của Tướng Thein Sein. Chế độ quân sự của Myanmar cũng đã bị đè nặng với một hồ sơ thành tích phát triển kém xa các láng giềng quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó, nói chi đến các trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của châu Á. Vì rất nhiều lý do, Myanmar là trường hợp khó nhất để tiến hành dân chủ qua sức mạnh.

    Thế nhưng ngay cả ở Myanmar, chúng tôi nhấn mạnh, xu thế dân chủ hóa đầy kịch tính trong tiến trình của các năm 2010 được xem chính xác như đã nảy sinh trong một thời khắc của sức mạnh độc đoán và sự tự tin chế độ quân sự hơn sự yếu kém. Các cải cách dân chủ hóa bắt đầu trong 2011, lên đỉnh điểm với các cuộc bầu cử quốc gia tự do và công bằng trong 2015 và tiếp tục có sự tiến bộ gia tăng cho đến khi phích cắm dân chủ bị kéo ra trong 2021, đã không bắt đầu tại một thời khắc khi chế độ quân sự đối mặt với các lựa chọn co lại. Các cải cách dân chủ hóa ở Myanmar chỉ đã sinh trái dân chủ thậm chí khiêm tốn, cay đắng, và phù du mà chúng đã sinh ra bởi vì chế độ quân sự cảm nhận các rủi ro co lại từ việc theo đuổi chúng do sự tự tin ổn định tăng lên của nó.54

    Theo một số cách, lập luận khó nhất cho chúng tôi để đưa ra không phải là quân đội Myanmar theo đuổi dân chủ qua sức mạnh mà là nó đã có theo đuổi nền dân chủ chút nào. Chúng tôi không khẳng định rằng sự chuyển đổi dân chủ của nó đã từng hoàn tất, ít được củng cố hơn nhiều. Thế nhưng tính có thể so sánh và những sự giống nhau của quỹ đạo Myanmar với các quỹ đạo Indonesia và Thái Lan vừa được mô tả là nổi bật. Thật thú vị, nếu người ta so sánh các số điểm dân chủ tự do của Varieties of Democracy (V-Dem) ngang cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, Myanmar đã có hầu như chính xác cùng số điểm trong 2019 (0,25) mà Indonesia đã có trong 1999 (0,27) và Thái Lan đã có trong 1989 (0,26).

    Nói cách khác, thử nghiệm có thể đảo ngược của dân chủ qua sức mạnh vẫn rất nhiều trong quá trình ở Myanmar khi các cuộc bầu cử quốc gia tự do và công bằng thứ hai được tổ chức trong 2020. Nó đã có thể tiến triển nhanh và thành công như Indonesia đã làm trong các năm 2000, hay từ từ và thành công như Thái Lan trong các năm 1990. Tuy nhiên nó đã bị đảo ngược hoàn toàn, nhiều như chúng ta đã thấy xảy ra ở Thái Lan trong các năm 2000 và các năm 2010, nhưng nhanh, tàn bạo, và dứt khoát hơn trường hợp Thái.55

    Chính sự tự tin ổn định tăng lên của quân đội Myanmar đã làm cho thử nghiệm dân chủ-qua-sức mạnh của thập niên qua là có thể trước tiên. Có mọi lý do để tin rằng nếu chính phủ dân sự do biểu tượng quốc gia Aung San Suu Kyi và NLD lãnh đạo từ 2015 đến 2020 đã có thể kiềm chế sự thống trị chính trị quá triệt để và chiều theo các đặc quyền quân sự trong việc xử lý các cuộc nổi dậy ly khai khu vực cũng như duy trì vị trí tham nhũng của nó tại tâm của nền kinh tế đang bột phát của quốc gia, thì dân chủ hóa do quân đội-lãnh đạo trong các năm 2010 của Myanmar lẽ ra đã vẫn trên đường vững dù dễ lung lay của nó vào các năm 2020. Không có nguyên nhân duy nhất có thể quan sát được nào về sự thất bại của nền dân chủ ngoài bản thân cuộc đảo chính tháng Hai 2021. Tuy nhiên sự yếu trước đó (antecedent weakness) và sự tự tin đang xấu đi của quân đội rằng các lợi ích của nó có thể được thỏa mãn trong sự sống chung với NLD dân sự đã là những nhân tố đóng góp to lớn cho kết cục đáng tiếc, vẫn đang diễn ra này.

    Phát triển Kinh tế Độc đoán

    Myanmar hoàn toàn ngược với Thái Lan trong một khía cạnh then chốt: tầm quan trọng tương đối của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa trong việc tạo ra sức mạnh độc đoán cần để theo đuổi dân chủ qua sức mạnh. Ở Thái Lan, sự phát triển kinh tế dưới sự cai trị quân sự đã là mấu chốt tuyệt đối cho các triển vọng dân chủ của chế độ; ở Myanmar, sự phát triển kinh tế dưới sự cai trị quân sự có thể được mô tả công bằng hơn như không đáng kể. Không chế độ độc đoán nào ở châu Á kiến tạo-phát triển đã có một thành tích kinh tế yếu hơn chế độ quân sự của Myanmar khi nó bắt đầu các cải cách dân chủ trong 2011.56

    Từ thời quân đội giành được quyền lực trong 1962 giữa một đòn nặng tăng lên của các mối đe dọa ly khai cho đến các cuộc biểu tình “8/8/88” rầm rộ và sự đàn áp trong 1988, sự phát triển kinh tế ở Burma được xác định bởi “Cách Miến điện tới Chủ nghĩa Xã hội.” Đấy không là gì khác hơn con đường Miến điện đến sự trì trệ. Chế độ Ne Win tự cung tự cấp và hoang tưởng đã vẫn hoàn toàn bên ngoài sự năng động kinh tế xảy ra khắp châu Á kiến tạo-phát triển, kể cả ở Thái Lan láng giềng. Với một mô kiến tạo-hình phát triển giống với mô hình của Bắc Triều Tiên nhiều hơn mô hình của Hàn Quốc, Burma rõ ràng đã vẫn “không là thành viên” của châu Á kiến tạo-phát triển chừng nào Đảng chính trị Xã hội chủ nghĩa Miến điện (BSPP) vẫn tuồng như chủ trì.

    Nếu các chế độ độc đoán luôn dân chủ hóa qua sự yếu kém và qua sự sụp đổ, 1988 lẽ ra phải gióng hồi chuông báo tử cho chủ nghĩa độc đoán ở Burma. Nền kinh tế đã sụp đổ hoàn toàn và xã hội dân sự đã bùng nổ trong phản kháng, như tình hình trong phần lớn thế giới xã hội chủ nghĩa trong cuối các năm 1980. Áp lực cách mạng từ dưới là rõ ràng. Quân đội Burma đã đáp lại bằng việc cấm BSPP và tái khẳng định sự thống trị của riêng nó trong phương trình dân sự-quân sự.

    Trong việc làm vậy, có vẻ suốt các năm 1990 cứ như Myanmar—như quân đội Burma đặt tên lại cho nước này trong 1990—đã tăng gấp đôi cái người ta có thể gọi một cách chính đáng là một mô hình chính trị-kinh tế “Bắc Triều Tiên khá hơn chứ không phải mô hình Hàn Quốc”. Trong khi Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu tạo thành một cụm “xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển” mới ở châu Á qua các cải cách dứt khoát tư bản chủ nghĩa (xem chương 9), quân đội Burma đứng sang một bên và liếm các vết thương của nó. Dưới chế độ quân sự, nước này xứng đáng trở thành một trong những nhà nước bị khinh rẻ nhất thế giới.

    Tuy nhiên ngay cả trong những ngày đen tối của các năm 1990, thuật hùng biện của chế độ quân sự bắt đầu thay đổi. Việc thay đổi tên nước từ Burma sang Myanmar là một hành động tự-khẳng định quốc gia báo hiệu sự chuẩn bị cho một sự thúc đẩy kinh tế dân tộc chủ nghĩa, vứt bỏ các ý thức hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa tự cung tự cấp sang bên đường. Sau sự đàn áp thẳng tay chống các cuộc biểu tình dân chủ 1988 và từ chối chấp nhận các kết quả của các cuộc bầu cử 1990, mà đảng NLD của Aung San Suu Kyi thắng lớn, quân đội Myanmar tuyên bố sự cam kết của nó với một con đường dài hạn tới một hiến pháp mới và một sự khôi phục sự cai trị dân sự. Sau khi đã cưỡng lại dân chủ hóa qua sự yếu kém trong cả cuộc nổi dậy nhân dân 1988 và sự thất bại bầu cử trong 1990, quân đội tuyên bố ý định của nó để dân chủ hóa qua sức mạnh trong dài hạn, nhưng hoàn toàn theo các điều kiện riêng của nó.

    Nói về mặt chính trị, điều này có vẻ chẳng giống gì trừ lời nói trống rỗng suốt các năm 1990 và các năm 2000. Chế độ quân sự đã không có sự đáng tin nào khi nó công bố cải cách chính trị. Không dấu hiệu nào về tự do hóa hay nới lỏng chính trị đã rõ ràng trong hai thập niên. Nói về mặt kinh tế, tuy vậy, các năm 2000 bắt đầu trông hoàn toàn khác. Hơn một thập niên sau khi Trung Quốc và Việt Nam trở thành các thành viên đến muộn của châu Á kiến tạo-phát triển như các thành viên sáng lập của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, Myanmar đã làm cùng thế bằng việc gia nhập muộn màng cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển.

    Vào 1991, GDP của Myanmar đã dưới US$200 trên đầu người, nơi nó đã bị sa lầy kể từ khi quân đội chiếm quyền lực trong 1962 gần bốn thập niên trước. Vào 2001, tuy vậy, con số này đã gần tăng gấp đôi lên $377 trên đầu người, và vào 2011, năm mà nhà lãnh đạo quân sự Thein Sein gây sốc cho thế giới bằng việc tuyên bố các cải cách dân chủ phòng ngừa, nó đã đạt $1.000 trên đầu người (một ngưỡng mà Thái Lan và Indonesia đã vượt qua từ lâu trong các năm 1970). Như ở Thái Lan trong các năm 1980, thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược được của Myanmar vào các năm 2010 diễn ra một cách không thể lầm lẫn khi thủy triều kinh tế lên hơn là xuống—mặc dù từ một điểm xuất phát tương đối không ấn tượng.

    Sự Phát triển Thể chế Độc đoán

    Sự cai trị độc đoán ở Myanmar đã luôn là sự cai trị quân sự. Điều này có nghĩa sự yếu kém chế độ theo một nghĩa, nhưng sức mạnh chế độ theo nghĩa khác. Nó đã là một nguồn của sự yếu kém bởi vì quân đội đã không xây dựng cũng chẳng cho phép sự phát triển của bất kể các tổ chức chính trị dân sự nào có thể giúp quản trị dân cư và củng cố sự cai trị của nó.57 Đáng chú ý nhất, các chế độ quân sự kế tiếp nhau đã cố ý làm nản lòng sự phát triển một nhà nước có thể hoạt động được và một đảng chính trị có uy quyền. Quân đội đã dựa vào sức mạnh thuần túy để nắm quyền ở mức độ lớn hơn các chế độ do quân đội lãnh đạo ở hoặc Indonesia hay Thái Lan rất nhiều.

    Tuy nhiên sự cai trị quân sự thuần túy đã dẫn đến một dạng chủ nghĩa độc đoán mạnh ở Myanmar vì quân đội cầm quyền đã cố kết một cách đáng chú ý.58 Chúng ta thấy chủ nghĩa bè phái đã làm yếu một cách kinh niên chế độ do quân đội lãnh đạo của Thái Lan thế nào và chủ nghĩa cá nhân đã làm cùng thế ra sao đối với chế độ Suharto trong các năm 1990. Thật quan trọng, chủ nghĩa độc đoán của Myanmar đã không bị làm yếu bởi các hai hình thức phân mảng này. Quân đội có thể cầm quyền một mình, như một tổ chức duy nhất, nhưng nó cũng đã cai trị một cách mạnh mẽ, với một ý thức duy nhất về mục đích. Nói đơn giản, sức mạnh của sự cai trị quân sự đã dựa vào sự thực rằng nó đã rất đoàn kết, trong khi sự yếu của nó đã có xuất xứ từ sự thực rằng nó đã rất đơn độc.

    Sự cố kết và mục đích chung này đã có gốc rễ của nó trong sự sinh của bản thân quân đội Burma và sự bắt đầu của sự cai trị quân sự. Giống quân đội Indonesia, quân đội Burma được các lực lượng chiếm đóng Nhật xây dựng trong Chiến Tranh Thế giới II và đã phát triển một esprit de corps (tinh thần đồng đội) dân tộc chủ nghĩa mạnh từ sự kháng cự việc thiết lập lại sự thuộc địa hóa Âu châu sau chiến tranh. Còn quan trọng hơn, quân đội Burma được hàn lại thành một lực lượng cố kết bởi các cuộc nổi dậy ly khai kinh niên làm rung chuyển quốc gia mới giữa sự độc lập trong 1948 và sự bắt đầu của sự cai trị quân sự trong 1962. Quân đội đã chẳng bao giờ rạn nứt trong suốt triều đại của nó từ 1962 đến 2011, ngay cả khi nó lặp đi lặp lại dùng sức mạnh áp đảo chống lại những người biểu tình chống-chế độ, nổi tiếng và đầy kịch tính nhất trong 1988 và 2007, theo những cách mà thường phơi bày và làm trầm trọng thêm các đường nứt bên trong quân đội.59

    Khi chế độ cầm quyền đã kinh qua trường hợp nghiêm trọng nhất của nó về chủ nghĩa bè phái quân sự, được châm ngòi bởi sự trỗ dậy chính trị của Tướng Khin Nyunt trong đầu các năm 2000, nó đã không có các tác động dân chủ hóa được lý thuyết chuyển đổi chính tắc dự đoán. Như ở Thái Lan ngay sau cuộc đảo chính của các Sĩ quan Trẻ trong đầu các năm 1980 và ở Indonesia trong cuối các năm 1990 với sự loại bỏ Prabowo Subianto như một đối thủ vì quyền lực, chủ nghĩa bè phái quân sự ở Myanmar trong đầu các năm 2000 được xử lý bằng việc thanh trừng nguồn ma sát chính cùng với các đồng minh của ông ta hơn là chịu thua một sự ra đi dân chủ. Như ở Thái Lan và Indonesia, chỉ một khi quân đội thành công tái lập sự cố kết bên trong khi nó loại phái Khin Nyunt ra khỏi cuộc chơi thì nó mới bắt đầu quá trình thừa nhận dân chủ của nó. Thay vì các quân đội bị chia rẽ đang dân chủ hóa từ sự yếu kém, như được kỳ vọng rộng rãi, các chế độ quân sự ở châu Á kiến tạo-phát triển đầu tiên đã khắc phục sự chia rẽ của chúng, rồi mới dân chủ hóa qua sức mạnh.

    Một phần của quá trình này ở Myanmar đã gồm việc khởi động muộn màng một đảng chính trị do quân đội-hẫu thuẫn. Trong 2010, vào đêm trước của các cải cách dân chủ hóa, chế độ đã thành lập Đảng Đoàn kết và Phát triển Thống nhất (USDP) trong sự lường trước rằng các cuộc bầu cử cạnh tranh sẽ được khôi phục sớm. Phương tiện đảng mới này đã hầu như không có cơ hội nào để giữ vững chính nó trong các cuộc bầu cử tự do và công bằng chống lại đảng NLD cực kỳ được lòng dân ở đằng sau Aung San Suu Kyi, con gái của anh hùng dân tộc chủ nghĩa vĩ đại của Burma, nhà lãnh đạo sinh viên, và quân sự, Aung San, cũng như bà là nhà quán quân có sức thuyết phục của phong trào dân chủ Burma trong gần một phần tư thế kỷ theo đúng nghĩa của bà.

    Tuy nhiên sự hình thành đảng USDP đã cung cấp cho quân đội chí ít hy vọng nào đó rằng, trong liên minh với các thành viên quốc hội do quân đội chỉ định và các đảng nhỏ hơn đại diện các sắc tộc thiểu số, USDP có thể giúp hạn chế quyền lực của NLD sau khi nó chiến thắng một cách không thể tránh khỏi trong các cuộc bầu cử một khi chúng được khôi phục. Cho dù USDP không thể thắng các cuộc bầu cử, nó có thể làm giảm bớt ưu thế NLD, và như thế giúp duy trì uy thế quân đội cuối cùng, mặc dù trong sự sống chung với một chính phủ dân sự do NLD-lãnh đạo được lập nên bởi các cuộc bầu cử tự do và công bằng hoàn toàn.

    Thừa nhận để Sống Chung

    Quyết định của quân đội Myanmar để chấm dứt ngay lập tức sự cai trị quân sự theo một nghĩa đã là đột ngột, gây sốc, và theo một nghĩa khác là gia tăng hầu như không thể nhận ra. Nó đã đột ngột theo nghĩa rằng Thein Sein công bố một loạt cải cách tự do hóa đột ngột vào một thời khắc khi chẳng ai kỳ vọng nó, vì chế độ đã không trong bất kể sự rắc rối sắp xảy ra nào. Các cải cách bắt đầu khi sự đối lập tích cực trong nước đã trong sự trì hoãn, hơn là trong thời khắc biến động như cái được gọi là sự nổi dậy 8/8/88 hay Cách mạng Saffron 2007.

    Thật trớ trêu, khi một chế độ hầu như liên tục trong khủng hoảng và thậm chí chiến tranh theo nghĩa đen trong năm mươi năm, quân đội Myanmar thừa nhận một sự mở cửa dân chủ trong một thời khắc khi nền kinh tế đang được cải thiện và chính trị đang ổn định. Giống quân đội Thái lan trong các năm 1980, quân đội Myanmar đã tìm được cách thần kỳ để tạo ra một chuyển đổi dân chủ “không khủng hoảng.” Như Morten Pedersen diễn đạt một cách đúng đắn, quân đội Myanmar đã bắt tay vào cải cách khi “nó ở trong một vị thế mạnh hơn bao giờ hết.”60 Và như Min Zin và Brian Joseph tóm tắt một cách tương tự, “Mặc dù vẫn giữ vững quyền lực và không đối mặt với mối đe dọa trong nước hay quốc tế cấp bách nào, quân đội bắt đầu thay đổi hướng đi.”61

    Và thế nhưng, đột ngột như các công bố của của chế độ quân sự có vẻ lúc đó, dân chủ hóa qua sức mạnh của Myanmar cũng đã là một câu chuyện gia tăng từ từ, và tiếp tục diễn ra trong tiến trình của các năm 2010. Sau khi quan sát NLD thắng dễ dàng trong các cuộc bầu cử 1990, quân đội đã ném các kết quả vào sọt rác nhưng cũng hứa hẹn khôi phục các cuộc bầu cử dân chủ một khi Myanmar ban hành một hiến pháp mới.

    Đã tốn gần hai mươi năm, nhưng trong 2008, hiến pháp tự-làm của quân đội được ra đời qua trưng cầu dân ý. Đấy tất nhiên là hoàn toàn khác với các quá trình lập hiến pháp tham gia, thương lượng mà đã chấm dứt sự cai trị độc đoán trong rất nhiều phần của thế giới. Tuy nhiên, quân đội Myanmar đơn phương áp đặt một hiến pháp mới lên đất nước mà hứa hẹn cung cấp loại “nền dân chủ có kỷ luật” họ đã hứa ban cho, dù hoàn toàn với không độ tin cậy nào đằng sau sự cam kết của họ, trong hai thập niên dài đằng đẵng.

    Đồng thời, quân đội đã từ từ củng cố các thỏa thuận ngừng bắn với hầu như mọi quân đội phiến loạn vùng mà nó đã đối mặt.62 Vì raison d’être (lý do tồn tại) của sự cai trị quân sự đã luôn luôn là để giữ đất nước khỏi tan vỡ, các thỏa thuận hòa bình này đã là yếu tố quan trọng nhất trong sự tự tin ổn định của quân đội vào đầu các năm 2010. Sự tự tin ổn định cũng được nâng cao bởi quyết định đột ngột của quân đội để chuyển thủ đô quốc gia trong 2005 từ Yangon (Rangoon) đến Naypyidaw siêu đô thị mới, xa, im lìm sâu trong nội địa, nơi không sinh viên cấp tiến nào cũng chẳng sư sãi nhà hoạt động nào có lẽ có thể dùng cuộc biểu tình to lớn để khiến chính phủ ngừng hoạt động.

    Tuy vậy, sự tự tin chiến thắng đã là vấn đề hoàn toàn khác. Sợ một chiến thắng NLD long trời lở đất kiểu-1990 khác, quân đội đã trì hoãn các cuộc bầu cử quốc gia đầu tiên cho đến 2015. Việc này đã cho chế độ Thein Sein một chút không gian thở để xây dựng dần đảng USDP mới được thành lập, để tạo ra sự ủng hộ cho các đảng sắc tộc thiểu số trong các vùng nơi đảng NLD do người Miến chi phối có thể không được kỳ vọng để làm ăn tốt, và để tiếp tục cải thiện hồ sơ thành tích phát triển kinh tế của mình và, với nó, tính chính danh thành tích ít ỏi của mình. Thật vậy, sự thực, rằng các cải cách tự do hóa đầy kịch tính sau 2011 cho phép dỡ bỏ hầu như mọi sự trừng phạt quốc tế, đã thúc đẩy một luồng FDI mới chảy vào Myanmar và hứa hẹn sự phát triển kinh tế được tăng tốc thêm nữa. Chế độ quân sự ẩn dật trước kia cả đang văn minh hóa cấu trúc quyền lực của nó lẫn định vị bản thân nó trong châu Á kiến tạo-phát triển với sự tự tin tăng lên.

    Tuy nhiên nếu quân đội có bao giờ hy vọng USDP có thể cản cuộc trường chinh của NLD tới thắng lợi bầu cử cuối cùng, nó không thể nuôi dưỡng các ảo tưởng ước mong như vậy sau các cuộc bầu cử bổ sung 2012. Để kiểm tra tình hình, chế độ quân sự đã cho phép vài tá cuộc bầu cử bổ sung tự do và công bằng để đo sức mạnh tiếp tục của NLD. NLD đã giành được 43 trong số 44 ghế nó tranh đua. Việc này tạo ra một kết quả có thể dự đoán được rằng các cuộc bầu cử quốc gia 2015 sẽ là một chiến thắng hủy diệt nữa của NLD.

    Tuy vậy, bằng việc vặn vẹo các luật bầu cử để đảm bảo rằng Aung San Suu Kyi không thể trở thành tổng thống do bà là quả phụ của một kiều dân Anh, quân đội ít nhất đã kiểm soát được đối thủ chính của nó. Quan trọng hơn, bằng việc đảm bảo rằng mọi bộ nhà nước xử lý các vấn đề an ninh quốc gia và quốc phòng được sự bức chế hiến định giữ trong tay quân đội hơn là trong tay dân sự, quân đội đã thử bảo đảm rằng sự thiếu tự tin chiến thắng chính đáng của nó sẽ không tràn qua để phá hủy cái quan trọng hơn nhiều nếu dân chủ hóa được tiến hành như dự định: sự tự tin ổn định của nó.

    Đoạn cuối: Thua Trò chơi Tự tin

    Ngay cả khi câu chuyện dân chủ hóa của Myanmar có vẻ đang tiến bước lớn trong giữa-các năm 2010, nó đã có một mặt dưới đen tối sâu sắc. Trong sự phản ứng lại một cuộc tấn công chí tử của Quân đội Cứu Tinh Rohingya Arakan chống lại nhân viên của nó trong năm 2016, quân đội Myanmar đã mở một chiến dịch thanh trừng sắc tộc và diệt chủng khủng khiếp của nó chống lại thiểu số Muslim nói tiếng-bengali, được biết đến như Rohingya, trong bang Rakhine ở miền bắc. Trong một nước nơi chủ nghĩa dân tộc Phật giáo ngự trị dân thường nhiều như quân đội, những người Rohingya thấy mình hoàn toàn không có bạn bè. Aung San Suu Kyi một cách khét tiếng đã bảo vệ quân đội và chiến dịch giết người chống lại những người Rohingya trước Tòa án Công lý Quốc tế tại Hague trong cuối 2019, làm hỏng thêm nữa các tín chỉ bị rách bươm của bà trong cộng đồng quốc tế như một biểu tượng cho các quyền con người.

    Dựa vào bối cảnh của chuyện kể và lý thuyết vừa được phác họa, sự thông đồng của các chính trị gia được bầu một cách dân chủ như Aung San Suu Kyi với quân đội ở Myanmar sẽ xuất hiện như có thể dự đoán được dù nó thật đáng trách. Sự cam kết nửa vời của quân đội với quá trình dân chủ hóa luôn luôn phụ thuộc đầu tiên và trên hết vào sự tự tin ổn định của nó, mà, đến lượt, phụ thuộc chủ yếu vào bàn tay tự do của nó để xử lý các cuộc nổi dậy khu vực và ly khai theo bất cứ cách nào nó cho là phù hợp. Nếu giả như các nhà lãnh đạo dân sự đã thử cản các đặc quyền gây chiến của quân đội ngay sau khi NLD thắng lớn trong 2015, họ sẽ không được phép để sống chung trong quyền lực với các nhà lãnh đạo quân sự đủ dài để cạnh tranh vì quyền lực lần nữa trong các cuộc bầu cử 2020.

    Sau khi đã dành hơn nửa cuộc đời trưởng thành của bà để giải phóng nhân dân (sắc tộc Miến, theo Phật giáo) của chính bà khỏi tai họa dài nửa-thế kỷ của sự cai trị quân sự, Aung San Suu Kyi không sắp từ bỏ sứ mệnh dân chủ hóa của bà nhân danh thiểu số Muslim bị gạt sang bên lề của Myanmar. Thái độ của bà cũng chẳng là vấn đề bên trong NLD hay giữa dân cư đa số-Phật giáo của Myanmar. Bà có thể trở thành một nữ anh hùng nhân quyền quốc tế không thành công, Aung San Suu Kyi đang tìm kiến sự thành công bền vững như một chính trị gia quốc gia trong một bối cảnh dân chủ hóa vô cùng khó khăn, tế nhị.63

    Khi cuộc bầu cử dân chủ toàn quốc thứ hai trong tháng Mười Một 2020 hiện ra lờ mờ, Myanmar dường như đối mặt với ít nhất hai rủi ro kinh niên cho sự xuất hiện dân chủ tiếp tục của nó. Thứ nhất, như đã lưu ý, là sự tự tin ổn định của quân đội ngày càng bị đe dọa bởi sự bất ổn vùng khi các quan chức dân sự thử kiềm chế quân đội khỏi việc xử lý các kẻ thù của nó theo cách ưa thích của riêng nó. Không phải sự nghiêm trọng tuyệt đối của các xung đột nội bộ mà là khả năng các elite dân sự và quân sự để giữ sự hòa thuận về các mối đe dọa này đối với sự ổn định nên được quản lý thế nào, hiện ra lờ mờ trên thử nghiệm dân chủ mỏng manh của Myanmar như một thanh kiếm Damocles.

    Tất nhiên, liệu bất cứ chế độ nào giúp điều khiển loại ngược đãi vô nhân đạo, mà những người Rohingya phải chịu, có được coi là đang đi một con đường tới nền dân chủ hay không là một câu hỏi hoàn toàn khác. Tuy vậy, là không-công bằng để đặt tai họa Rohingya lên bệ cửa của bản thân nền dân chủ. Quân đội Myanmar có một hồ sơ dài và khét tiếng về hành vi lạm dụng cả trên ngoại vi của đất nước lẫn trong các trung tâm dân cư lớn của nó, một hồ sơ theo dõi mà các sự kiện kể từ cuộc đảo chính tháng Hai 2021 chỉ đang được làm rõ. Không có lý do nào để tin những người Rohingya sẽ làm ăn tốt hơn chút nào nếu giả như Myanmar đã không thử nghiệm với nền dân chủ vào lúc xung đột leo thang một cách bi thảm.

    Một mối đe dọa kinh niên thứ hai đối với thử nghiệm dân chủ Myanmar, mà nằm ngoài ranh giới lý thuyết của chúng tôi, có thể thấy trong sự thống trị bầu cử của bản thân NLD. Khi thập niên qua của sự trượt lùi dân chủ toàn cầu làm cho rất rõ ràng, các chính phủ được dân bầu một cách tự do đều cũng có khả năng dùng sự ủy trị dân chủ của họ để làm xói mòn các đối thủ và những người chỉ trích của họ theo những cách phi-tự do. Sự hoàn thành thử nghiệm dân chủ qua sức mạnh có thể bị đảo ngược của Myanmar đã luôn không chắc chắn, và không chỉ bởi vì nó phụ thuộc vào quân đội của nó có tự tin về sức mạnh của nó hay không. Nó cũng luôn phụ thuộc vào liệu NLD sẽ có vẫn cam kết với nền dân chủ và chống lại sự cám dỗ để giữ chặt và sử dụng quyền lực chính trị theo những cách độc đoán hay không.

    Như hóa ra là, chúng ta có lẽ sẽ chẳng bao giờ biết. Bất chấp sự thực rằng thử nghiệm dân chủ của Myanmar đã vừa mang lại cho đất nước một thập niên tự do nhất và thịnh vượng nhất của nó trong toàn bộ lịch sử của nó, và đã làm vậy theo lộ trình được xây dựng rất cẩn thận của chính quân đội, sự lãnh đạo quân sự của Myanmar tuy nhiên đã quyết định phá hoại sự sự sống chung dân sự-quân sự và khôi phục sự cai trị quân sự đầy đủ trong cuộc đảo chính tháng Hai 2021 của nó. Người ta có thể nghe tiếng vang từ Thái Lan trong sự chiếm đoạt quyền lực của nó. Giống Thaksin Shinawatra, Aung San Suu Kyi đã tỏ ra không thể bị đánh bại tại các thùng phiếu. Giống quân đội Thái Lan, quân đội Myanmar về mặt lịch sử đã không xây dựng phương tiện đảng đáng tin cậy và hợp pháp hóa hồ sơ thành tích phát triển cần thiết để cạnh tranh trong các cuộc bầu cử với một thế lực bầu cử khủng khiếp. Một cuộc đảo chính đã chỉ là viên đạn nó để lại trong phòng.

    Trong phân tích cuối cùng, sự đảo ngược của các thử nghiệm dân chủ phòng ngừa qua cuộc đảo chính ở cả Thái Lan và Myanmar gợi ý một cảnh báo cho lý thuyết của chúng tôi về sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định. Chúng tôi đã lập luận suốt cuốn sách này rằng trong cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, sự tự tin ổn định nên quan trọng hơn sự tự tin chiến thắng, bởi vì các quân đội (không giống các đảng cầm quyền) có thể giữ lại các đặc quyền của chúng bất kể ai thắng các cuộc bầu cử. Và tuy nhiên, ở cả Thái Lan lẫn Myanmar, các chiến thắng bầu cử nghiền nát của các đối thủ mang tính biểu tượng đã tạo cơ hội cho các cuộc đảo chính quân sự. Tuy vậy, chúng tôi sẽ lập luận rằng không phải bản thân các kết quả bầu cử, mà là sự thiếu tự tin của quân đội rằng nó có thể duy trì ưu thế chính trị của nó chống lại các đối thủ dân sự đang lên như vậy là cái đã khiến thử nghiệm dân chủ của mỗi nước thất bại. Có lẽ đối với các quân đội Thái và Myanmar, nếu không phải cho quân đội Indonesia, chẳng gì được tính là sự tự tin ổn định trừ sự tự tin của nó vào sự thống trị chính trị của riêng nó.

    Kết luận

    Cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Indonesia, Thái Lan, và Myanmar là cả nghèo về kinh tế và nghèo về dân chủ hơn cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc rất nhiều. Lý thuyết hiện đại hóa sẽ tiên đoán đúng sự tương ứng về sự kém phát triển kinh tế và chính trị tương đối này. Thế nhưng nó sẽ không tiên đoán nút xoắn tiếp theo trong câu chuyện của chúng tôi: sự từ chối của các chế độ độc đoán giàu hơn nhiều trong cụm kiến tạo-phát triển Britannia của Singapore, Malaysia, và Hồng Kông để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh theo những cách được thấy trong các chương trước.

    Tuy vậy, trước khi câu chuyện của chúng ta chuyển sang các trường hợp “tránh dân chủ” của châu Á kiến tạo-phát triển, chúng ta nên nhấn mạnh những sự tương tự nổi bật và đáng ngạc nhiên ngang sáu trường hợp đa dạng của dân chủ hóa vừa được nêu chi tiết. Từ các nhà nước kiến tạo-phát triển giàu có của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc đến các nền kinh tế đang phát triển do quân đội-lãnh đạo của Indonesia, Thái Lan, và Myanmar, các chế độ độc đoán đã chứng tỏ cả sự sẵn lòng và khả năng để theo đuổi các cải cách dân chủ dứt khoát và phòng ngừa khi chúng kỳ vọng để phát đạt—hay chí ít sống sót một cách tối thiểu, trong các trường hợp yếu nhất—trong hậu quả của chúng. Các nhà độc tài khắp toàn cầu đánh đồng dân chủ hóa với sự sụp đổ và sự bất ổn định chính trị vì lợi ích cá nhân của họ. Sáu trường hợp dân chủ qua sức mạnh của châu Á kiến tạo-phát triển cho thấy rằng sự kết thúc của chủ nghĩa độc đoán không cần có nghĩa là một sự mất, hay thậm chí một sự suy giảm, trong trật tự chính trị.

    8. Britannia Kiến tạo-phát triển

    CHỦ NGHĨA ĐỘC ĐOÁN CAY ĐẮNG

    Châu Á kiến tạo-phát triển không phải là Hoa vi trung (Sinocentric-lấy Trung hoa làm trung tâm). Trước khi Nhật Bản tạo ra khu vực này, trước khi nước Mỹ định hình lại nó, và rất lâu trước khi tồn tại bất cứ bóng ma nào về Trung Quốc thống trị nó, cường quốc lớn nhất dọc rìa Thái Bình Dương đã là Đại Anh. Từ các cuộc Chiến tranh Thuốc phiện giữa-thế kỷ thứ mười chín cho đến Chiến Tranh Thế giới II trong giữa-thế kỷ thứ hai mươi, lá cờ Union Jack (cờ Anh) bay cao hơn bất kể cờ đối thủ nào ở châu Á. Cái Trung Quốc gọi là thế kỷ sỉ nhục của nó đã là thế kỷ bá chủ của Anh.

    Chương này vẽ sơ đồ quỹ đạo kinh tế và chính trị của các chính thể nơi chủ nghĩa đế quốc Anh đã đi trước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển Đông Á: Singapore, Malaysia, và Hồng Kông. Kết quả thật đáng ngạc nhiên. Trên mức toàn cầu, các di sản thuộc địa Anh thường gắn với các triển vọng dân chủ mạnh hơn sau độc lập. Ngay cả ở bản thân châu Á, nền dân chủ đáng ngạc nhiên của Ấn Độ từ lâu được lần vết, ít nhất một phần, đến các di sản pháp lý và bầu cử tương đối tốt của các năm dưới sự cai trị Anh của nó. Kích thước khổng lồ của Ấn Độ có nghĩa là các nhà quan sát có khuynh hướng liên kết sự cai trị Anh ở châu Á với nền dân chủ, như chu vi gây khiếp sợ của Trung Quốc có thể khiến châu Á bị nhầm là hoàn toàn độc đoán.1 Tuy nhiên ở phía đông của Ấn Độ, sự va chạm của sự cai trị Anh và chủ nghĩa kiến tạo-phát triển Á châu—các lực tạo thành cụm Britannia kiến tạo-phát triển—đã không tạo ra các lợi thế dân chủ. Như chúng tôi khám phá bây giờ, và chí ít thử giải thích, nó đã dẫn tới sự tránh dân chủ.

    Giàu mà không có Cải cách

    Các chính thể kiến tạo-phát triển giàu là một chuyện; các cải cách dân chủ là chuyện hoàn toàn khác. Các chương trước cho thấy rằng các cải cách dân chủ có thể được tiến hành qua một logic bao quát hơn tương tự—logic dân chủ qua sức mạnh—từ các nền kinh tế giàu như Nhật Bản và Đài Loan đến các nền kinh tế đang phát triển như Indonesia và Myanmar. Mặc dù tiến trình dân chủ hóa hoặc vẫn gập ghềnh hay đã bị đảo ngược hoàn toàn trong các trường hợp quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, trong tất cả sáu chế độ độc đoán đương nhiệm chọn thử nghiệm với nền dân chủ khi chúng đã tự tin một sự chuyển đổi có thể tương đối ổn định. Trong các trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, các thử nghiệm này đã đến với sự kỳ vọng chính đáng về việc vẫn nắm quyền mà không có sự gián đoạn.

    Tuy vậy, chương này cho thấy rằng thậm chí các mức phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa phi thường không nhất thiết dẫn các chế độ độc đoán mạnh để thử các cải cách dân chủ. Không giống trong các cụm nhà nước chủ nghĩa và quân phiệt chủ nghĩa của chúng ta, tại Britannia kiến tạo-phát triển—Singapore, Malaysia, và Hồng Kông—hình mẫu chung đã là sự tránh dân chủ, không dân chủ qua sức mạnh. Tuy nhiên các chi phí và các rủi ro của sự bất ổn định nảy sinh từ sự tránh dân chủ đã tăng lên chắc chắn như các mức phát triển kinh tế. Cả ba chế độ độc đoán rõ ràng đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của chúng, bỏ lỡ cơ hội của chúng để dân chủ hóa theo cách tạo ổn định nhất có thể. Một khi một chế độ độc đoán bước vào “vùng buồn vui lẫn lộn” này, chúng tôi cho rằng việc tiếp tục tránh cải cách dân chủ khi sự suy giảm tồi đi sẽ đẩy chế độ đương nhiệm vào một thời đại chủ nghĩa độc đoán cay đắng. Một khi một chế độ đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của nó, nó có thể trải nghiệm một sự suy giảm lao dốc đáng ngạc nhiên từ sức mạnh sang sự yếu.

    Các chi phí tai hại của sự trì hoãn cho sự ổn định chính trị, và cho bản thân những người đương nhiệm độc đoán, là rõ ràng nhất ở Malaysia và Hồng Kông. Tại Malaysia, sự thất bại của liên minh độc đoán thống trị để theo đuổi các cải cách dân chủ từ đỉnh điểm sức mạnh của chúng trong giữa- đến cuối các năm 1990 đã lên đỉnh điểm trong sự thua thẳng thừng trong các cuộc bầu cử quốc gia 2018. Các năm kể từ đó đã thấy Malaysia rơi từ một trong những chính thể dễ tiên đoán nhất của châu Á xuống một trong những chính thể không thể dự đoán được nhất. Hơi giống thế, tại Hồng Kông, sự thất bại của các chính trị gia thân-Bắc Kinh để bắt đầu giải quyết các đòi hỏi dân chúng cho cải cách dân chủ kể từ khi bàn giao từ sự cai trị Anh trong 1997 đã đẩy nhanh vòng xoáy xuống của thành phố từ sự ổn định đáng ghen tị xuống sự gần không thể quản trị được.

    Trật tự độc đoán của Singapore vẫn trong hình thù mạnh hơn nhiều. Đảng Hành động Nhân dân (PAP) cầm quyền theo nhiều cách giống Quốc Dân Đảng (QDĐ) của Đài Loan vào lúc chuyển đổi của nó. Tuy vậy, tương lai gần của Singapore có khả năng trông ngày càng giống quá khứ gần đây và hiện tại của Malaysia và Hồng Kông, hơn là của Đài Loan, nếu nó chọn để tiếp tục tránh các cải cách dân chủ. Bất chấp chủ nghĩa ngoại lệ được công khai thừa nhận của nó, Singapore chẳng bao giờ có thể trốn thoát hay xóa các đặc tính phân biệt của cụm kiến tạo-phát triển mà nó kế thừa từ một thế kỷ rưỡi của sự cai trị Anh trực tiếp.

    Các đặc tính lõi của cụm Britannia kiến tạo-phát triển là gì? Và các bài học trung tâm của chúng là gì cho các cải cách dân chủ và sự tránh dân chủ?

    Nét đặc điểm nổi bật nhất là chủ nghĩa độc đoán được duy trì liên tục sau các thập niên phát triển tư bản chủ nghĩa nhanh của cụm. Với các ngoại lệ có lẽ của Nhật Bản và Đức trong cuối thế kỷ thứ mười chín, và với sự ngoại lệ tiềm năng hiện ra lù lù của Trung Quốc trong các thập niên tới (xem chương 9), không đâu khác trên thế giới đã có bao giờ chứng kiến bất cứ thứ gì tương tự. Hãy nhớ lại rằng tất cả cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đều đã dân chủ hóa khi đạt địa vị “nước đã phát triển”; cụm Britannia kiến tạo-phát triển, mặt khác, đã không. Việc duy trì chủ nghĩa độc đoán trong hàng thập niên ở mức phát triển tư bản chủ nghĩa cực kỳ cao là một thách thức cho các chế độ độc đoán trong cụm Britannia mà các nước đối chiếu của chúng trong cụm nhà nước chủ nghĩa (Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc) đã chọn một cách chiến lược để không gặp phải.

    Như chúng tôi đã lập luận suốt cuốn sách này, sự phát triển kinh tế kéo dài không nhất thiết tạo ra các công dân dân chủ; nhưng nó có nuôi dưỡng các công dân có đòi hỏi khắt khe hơn. Một thành tích kinh tế ấn tượng có thể tạo ra tính chính danh thành tích cho một chế độ độc đoán ở mức phát triển kinh tế thấp hơn và cho một thời gian đáng kể. Tuy vậy, theo thời gian sự giàu có quốc gia sinh ra sự vô ơn xã hội. Chỉ bằng việc cung cấp ngày càng nhiều hàng hóa công kiến tạo-phát triển thì các chế độ độc đoán mới có thể hy vọng ngay cả để vẫn giữ được sự ủng hộ công chúng.

    Các đòi hỏi xã hội đã thể hiện theo nhiều cách ở Britannia kiến tạo-phát triển. Hơn bất kể cụm nào khác, sự bất khoan dung với tham nhũng chính trị và sự lạm dụng quyền lực là đặc biệt căng. Điều này, chúng tôi cho rằng, là một hậu quả của sự thừa kế thuộc địa và sự tích lũy sự giàu có cực kỳ. Các định chế pháp lý mạnh được xây dựng dưới sự cai trị Anh đã truyền một kỳ vọng về tính hợp pháp giữa các công dân trong cụm Britannia mà không có sự tương tự ở nơi khác trong châu Á kiến tạo-phát triển, nơi các bộ máy quan liêu và quân đội có khuynh hướng lấp đầy khoảng trống pháp lý toang hoác do các tòa án yếu tạo ra.

    Các định chế pháp lý mạnh này là con dao hai lưỡi. Một mặt, các định chế pháp lý hiệu quả cho các chế độ độc đoán ở Singapore, Malaysia, và Hồng Kông một công cụ mạnh mẽ cho việc thiết lập sự kiểm soát xã hội. Mặt khác, chúng cũng nâng cao các kỳ vọng về tính hợp pháp lên đến điểm mà xã hội trên thực tế coi chúng là nghiễm nhiên. Nếu có bất kể giá trị nào mà sự phát triển tư sản dường như nuôi dưỡng, đó là một sự căm ghét sâu sắc và sự ác cảm có tính tư lợi đối với tham nhũng. Các kỳ vọng về tính không thể bị mua chuộc của đảng-nhà nước ở Singapore, một “luật trị (rule of law)” bất khả xâm phạm ở Hồng Kông, và một vai trò quản trị chuyên nghiệp cho hệ thống tư pháp ở Malaysia là các nét đặc điểm cơ bản và phân biệt về cách các chế độ độc đoán này đã hoạt động từ lâu. Những kỳ vọng cao này là các ràng buộc sâu sắc mà dưới chúng các chế độ độc đoán này phải nỗ lực.

    Cái gì đó tương tự có thể được nói về các định chế bầu cử, một cách khác mà theo đó Britannia kiến tạo-phát triển phân biệt với tư cách một cụm. Chủ yếu là một sản phẩm của sự cai trị Anh, không nơi nào ở châu Á kiến tạo-phát triển các cuộc bầu cử cạnh tranh đa đảng lại là một phần của DNA chính trị hơn như ở Britannia kiến tạo-phát triển. Các định chế bầu cử và pháp lý là cơ bản cho cách theo đó các công dân ở Singapore, Malaysia, và Hồng Kông được cai trị như loại các định chế quan liêu và quân sự mà đã duy trì mãi sự thống trị nhà nước trong các cụm nhà nước chủ nghĩa và quân phiệt chủ nghĩa, một cách tương ứng.

    Cái các đặc điểm bầu cử và pháp lý phân biệt này tương đương với, là cái này: các chế độ độc đoán ở Britannia kiến tạo-phát triển đã ngày càng bị bao vây khi mỗi trong số chúng đối mặt với một toàn thể công dân ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn. Không giống trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển sẽ được thảo luận trong chương 9 (đáng chú ý nhất Trung Quốc), các nhà cai trị độc đoán ở Singapore, Malaysia, và Hồng Kông không có khả năng làm trẻ lại tính chính danh của chúng bằng việc xây dựng từ từ một ngành tư pháp chuyên nghiệp, đưa vào các cuộc bầu cử cạnh tranh đa đảng, hay cung cấp các hàng hóa công cơ bản được mở rộng và được cải thiện như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và nhà ở. Chúng không phải là các lựa chọn khả thi trong bộ công cụ cải cách mà các chế độ độc đoán kiến tạo-phát triển khác có thể triển khai, bởi vì các cải cách này đã được thực hiện từ lâu rồi ở Britannia kiến tạo-phát triển. Chúng là một di vật lịch sử của di sản thuộc địa Anh của chúng, và các thành quả của chúng cho sự quản trị tốt từ lâu đã là một đặc ân được kỳ vọng của việc là một người Singapore, Malaysia, hay Hồng Kông.

    Khi các chế độ độc đoán ở Britannia kiến tạo-phát triển đấu tranh để giữ các công dân của chúng yên lặng và để duy trì quyền lực chính trị riêng của chúng, các lựa chọn của chúng hoặc là cung cấp các kết cục kinh tế và quản trị ngày càng tốt hơn hay để trở nên dân chủ hơn. Như chúng tôi lập luận trong chương này, việc không hoàn thành một trong hai việc này đã mở con đường cho sự thất bại bầu cử ở Malaysia và một cơn bột phát cách mạng ở Hồng Kông. Chủ nghĩa độc đoán Singapore bây giờ phải hoạt động trong cái bóng còn xa nhưng đang hiện ra lù lù của cả Malaysia và Hồng Kông.

    Ba Trường hợp sắp Tới

    Bất chấp ở trong cùng cụm kiến tạo-phát triển và chia sẻ một di sản chính trị chung, tất cả ba trường hợp ở Britannia kiến tạo-phát triển có một lịch sử và động học riêng của chúng. Chúng cũng nằm trong các chỗ khác nhau trên phổ sức mạnh độc đoán, mà chúng tôi đã lập luận suốt cuốn sách này báo trước loại chuyển đổi dân chủ chúng có thể kỳ vọng nếu chúng tập hợp được sự can đảm để thử nó. Singapore rõ ràng là nước đi đầu, và vì mục đích của sự sáng tỏ, sẽ là nơi phân tích của chúng tôi bắt đầu.2

    Để hiểu Singapore, người ta nên nhớ lại thảo luận về Đài Loan và vai trò của QDĐ trong sự phát triển và cuối cùng sự chuyển đổi dân chủ của Đài Loan (chương 4). Mặc dù QDĐ và nhà nước kiến tạo-phát triển của nó được xem như nhân tố cho chuyển đổi dân chủ của Đài Loan qua sức mạnh trong các năm 1980 và các năm 1990, PAP của Singapore cũng có sức mạnh bầu cử và hồ sơ thành tích kiến tạo-phát triển để bảo đảm rằng nó sẽ thịnh vượng dưới các điều kiện hoàn toàn dân chủ, nếu nó có bao giờ chọn đưa chúng vào. Quả thực, Singapore đã thấy sự đàn áp thẳng thừng là không cần thiết trong các thập niên gần đây, và đã trung thành theo hệ thống bầu cử cạnh tranh đa đảng Westminster trong hơn nửa thế kỷ, đến mức PAP cầm quyền có thể làm phẳng sân chơi với đối lập Singapore bị chia rẽ sâu sắc và tiếp tục thống trị, tạo ra hầu như không gợn sóng nào trong quá trình.

    Tuy nhiên Singapore vẫn ngoan cố chống lại con đường Đài Loan. Chúng tôi đưa ra một lời giải thích vì sao trong chương này. Bất chấp tất cả các sức mạnh có thể so sánh được của nó với QDĐ, PAP đã nhận được các tín hiệu rất khác liên quan đến sự suy giảm mới chớm nở của nó và như thế đã áp dụng chiến lược tránh dân chủ rất khác hơn là chiến lược dân chủ qua sức mạnh. Bất chấp mọi lời xác nhận của nó về tính dễ bị tổn thương địa-chính trị của nó, Singapore không hề phụ thuộc vào Hoa Kỳ như Đài Loan đã phụ thuộc trong Chiến tranh Lạnh. Chính trị gây tranh cãi ở Singapore đã tương đối nhẹ, và đã không xuất hiện một đối lập bền vững như phong trào tangwai ở Đài Loan. Quan trọng nhất, các tín hiệu bầu cử về sự sụt giảm của PAP, mà chúng tôi cho rằng là các tín hiệu rõ ràng nhất về sự giữ quyền lực của một đảng cầm quyền, vẫn tương đối nhẹ và mờ đục.

    Singapore như thế là ví dụ đầu tiên của chúng ta về cái chúng tôi nhắc đến như bi kịch của chính trị đảng-thống trị. Ở Singapore—như ở Hồng Kông, Malaysia, và Cambodia—các đảng độc đoán thống trị đã không dân chủ hóa từ các vị trí sức mạnh cao ngất (dù vẫn khá thay đổi) và đã chờ đợi quá lâu để mang lại nền dân chủ theo cách tạo ổn định nhất có thể, bằng cách ấy bước vào hàng ngũ của các chế độ “độc đoán cay đắng.” Nói đơn giản, chúng bỏ lỡ cửa sổ cơ hội của chúng trong vùng buồn vui lẫn lộn để chuyển đổi từ một vị thế sức mạnh độc đoán đương nhiệm tới sức mạnh dân chủ cuối cùng. Các hậu quả của sự tránh dân chủ quả thực có thể là bi thảm, nhất là cho các xã hội mà chúng cai trị.

    Malaysia là ví dụ rõ nhất về quỹ đạo này. Nó cung cấp một chuyện kể cảnh báo cho những người muốn trở thành các nhà cải cách chính trị mà rốt cuộc chọn để tránh các cải cách dân chủ phòng ngừa. Vào giữa-các năm 1990, liên minh của đảng Tổ chức Quốc gia của những người Malay Thống nhất (UMNO) và Mặt trận Quốc gia (Barisan Nasional-BN) đã ở một đỉnh điểm quyền lực hiếm đến mức sánh được với PAP của Singapore và QDĐ của Đài Loan. Tuy nhiên với không tín hiệu nào về sự sụt giảm sắp xảy ra, đã không có áp lực nào cho cải cách dân chủ. Tuy vậy, điều này đã thay đổi trong 1997–98, khi đòn búa kép của khủng hoảng tài chính Á châu và sự nổi lên đầy kịch tính của phong trào reformasi đã cung cấp các tín hiệu kinh tế và lôi thôi cho biết rằng thời hoàng kim của bá chủ độc đoán ổn định đã chấm dứt.

    Nếu giả như Thủ tướng Mahathir Mohamad đơn giản đã thực hiện lời hứa hiện thời của ông ở đỉnh cao của khủng hoảng kinh tế để chuyển giao quyền lực cho người thừa kế được ông ta chọn rõ ràng, Phó Thủ tướng Anwar Ibrahim, Malaysia lẽ ra đã hầu như chắc chắn bắt đầu một con đường đến dân chủ qua sức mạnh. Anwar đã ở tư thế sẵn sàng để đóng một vai trò lịch sử ở Malaysia tương tự như vai trò B. J. Habibie vừa bắt đầu đóng trong sự biến đổi dân chủ của Indonesia. Tuy vậy, thủ tướng Malaysia hết sức độc đoán đã theo chiến lược khác, và thay vào đó thật bi thảm đã tập hợp UMNO và BN đứng sau sự tránh dân chủ.

    Sự đổi hướng đàn áp của Mahathir đã không cứu sức mạnh UMNO-BN khỏi sự đắm; ngược lại, đã phá vỡ nó. Sự phát triển kinh tế đã mở rộng tầng lớp trung lưu Malaysia đến điểm nơi một đảng cầm quyền ngày càng độc đoán và thối nát và lạm quyền sâu hơn không còn có thể tạo ra sự ủng hộ của đa số cử tri nữa, ngay cả dưới hệ thống bầu cử hết sức bị lệch và không-công bằng của Malaysia, được hậu thuẫn bởi một bộ những kiểm soát độc đoán đối với media và sự biểu đạt. Thật trớ trêu, sự suy sụt đều đặn của UMNO-BN cuối cùng đã dẫn bản thân Mahathir để gia nhập liên minh đối lập như ứng viên thủ tướng của nó, giúp mang lại sự thất bại cho UMNO-BN trong 2018 lần đầu tiên trong lịch sử của nó.

    Thay cho việc thừa nhận dân chủ mà không có sự thừa nhận thất bại, như QDĐ của Đài Loan, UMNO-BN thừa nhận thất bại mà không có việc thừa nhận dân chủ. Liệu một nền dân chủ cuối cùng sẽ nảy sinh từ thời kỳ chấn động chính trị này vẫn là không chắc chắn. Cái quan trọng cho mục đích của chúng tôi ở đây là 2018 đánh dấu một sự chuyển đổi quyền lực từ sự yếu kém hơn là từ sức mạnh bởi vì Malaysia đã bỏ lỡ hoàn toàn vùng buồn vui lẫn lộn của nó. Vì thế, dù nền dân chủ nào có thể nổi lên từ chuyển đổi của Malaysia, nó chắc sẽ ít có khả năng hoạt động và ổn định hơn các nền dân chủ trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển rất nhiều. Nó cũng sẽ ít có khả năng hoạt động và ít ổn định hơn nền dân chủ Malaysia lẽ ra đã có rất nhiều nếu giả như UMNO-BN đã dân chủ hóa qua sức mạnh hơn là bị mất quyền lực qua sự yếu kém.

    Hồng Kông đã trải nghiệm sự suy sụt chế độ từ từ và không thể khắc phục được trong hai thập niên qua như Malaysia. Trong cùng thời kỳ khi Malaysia vật lộn để điều chỉnh với cuộc sống sau khủng hoảng tài chính Á châu, Hồng Kông đã phải đối phó với tác động phụ không mong muốn to lớn của sự chuyển từ sự kiểm soát Anh sang sự kiểm soát Trung quốc 1997. Chắc chắn, sự thực rằng Hồng Kông tồn tại dưới chủ quyền Trung quốc, có nghĩa là bất kể quyết định nào để dân chủ hóa qua sức mạnh đều ngoài tầm kiểm soát của những cánh tay địa phương; theo nghĩa này nó không phù hợp cho phân tích so sánh và lý thuyết của chúng tôi. Tuy nhiên trường hợp này chứa những bài học mạnh mẽ về các triển vọng dân chủ qua sức mạnh trong cụm này. Vì Britain rời đi rất gần đây, trong 1997, Hồng Kông do sự kế thừa lịch sử vẫn là chỗ Anh nhất trong Britannia kiến tạo-phát triển. Các định chế chính trị và kinh tế của nó đã tỏ ra, một cách có thể dự đoán được từ quan điểm của phân tích cụm của chúng tôi, để là một một sự phù hợp khủng khiếp với chủ quyền Trung quốc. Luật trị và môi trường bầu cử tự do và cạnh tranh của Hồng Kông đã cực kỳ căng thẳng dưới cái bóng xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Bắc Kinh.

    Như ở Singapore và Malaysia, sự phản ứng của chế độ ở Hồng Kông—như được giới quyền thế chính trị địa phương thân-Bắc Kinh của nó thực hiện—đã là sự tránh dân chủ hơn là dân chủ qua sức mạnh. Về mặt chính trị, đấu trường bầu cử và sự bảo vệ các quyền tự do của Hồng Kông đã giảm đáng kể trong hai thập niên qua, làm nản lòng sinh lực dân chủ đang phát triển nhanh của vùng lãnh thổ. Hơn nữa, trong bối cảnh tinh nhạy tài chính Hồng Kông, sự không sẵn lòng của chính quyền địa phương để mở rộng một mạng lưới an sinh xã hội vững chãi hơn đã bỏ lại giai cấp lao động và tầng lớp trung lưu của Hồng Kông trong một tình thế ngày càng hiểm nghèo, vật lộn để có được nhà ở có giá phải chăng và chịu sự siết chặt của sự bất bình đẳng cao ngất của thành phố.

    Sự kết hợp này của những căng thẳng chính trị và kinh tế đã lên đỉnh điểm, không đáng ngạc nhiên, trong một loạt cuộc nổi dậy dân chúng to lớn bắt đầu trong 2014, cũng như thất bại bầu cử gây sốc của những người bảo thủ Hồng Kông thân-Bắc Kinh trong các cuộc bầu cử địa phương trong 2019. Chế độ địa phương thân-Bắc Kinh đã trở nên vô cùng không được lòng dân trong các năm gần đây. Nói cách khác, các nhà lãnh đạo Hồng Kông đã bỏ lỡ cơ hội tốt nhất của họ để dân chủ hóa khi khi họ vẫn còn ở điểm mạnh nhất của họ. Bây giờ họ có rất ít lựa chọn ngoài dân chủ hóa đầy đủ hơn, dù rất khó xảy ra vì bây giờ dưới chủ quyền Trung quốc, hay tiếp tục đàn áp, khi họ vật lộn để làm cho một trong những thành phố giàu nhất thế giới trở nên có thể quản trị được và ổn định lại một lần nữa. Không còn trong một vị thế sức mạnh nữa, chính quyền Hồng Kông đã di chuyển tới chế độ phi-tự do đóng kín và đàn áp ngày càng mạnh mẽ. Chí ít bây giờ, Bắc Kinh và các đồng minh địa phương Hồng Kông của nó đã đóng sầm cửa lại.

    Singapore

    Chúng ta bắt đầu với Singapore bởi vì tính đơn giản và tính rõ ràng tương đối của nó liên quan đến sức mạnh độc đoán của nó. Với có lẽ các ngoại lệ của QDĐ ở Đài Loan và Đảng Dân chủ Tự do (LDP) ở Nhật Bản, không đảng chính trị nào ở châu Á kiến tạo-phát triển đã tạo ra nhiều tính chính danh thành tích và sự chi phối chính trị như PAP của Singapore. Đảng cầm quyền từ lâu đã được coi như kiến trúc sư và ông chủ của một trong những Nhà nước độc đoán có khả năng, hiệu quả, và kiểm soát nhất trên thế giới. Được trang bị với cơ sở hạ tầng đảng-nhà nước ấn tượng, các nhà lãnh đạo PAP đã chủ trì sự trỗi dậy không thể tin nổi của Singapore, trong đó nó đã trở thành một trong những nước giàu nhất thế giới. Mặc dù PAP đặt quyền lực và tính được lòng dân của nó cho một sự kiểm tra bầu cử mỗi 5 năm, nó đã chẳng bao giờ là một sự tranh đua tự do và công bằng. Sự giàu có ngoạn mục và sức mạnh đảng đã không dẫn đến sự thừa nhận dân chủ ở Singapore, mà đúng hơn đến sự kiên định tránh dân chủ.3

    Singapore như thế là một chứng cứ rõ ràng cho một trong những giáo lý trung tâm của cuốn sách này: dân chủ qua sức mạnh không có nghĩa là nền dân chủ bởi vì sức mạnh. Chẳng gì có thể buộc các chế độ độc đoán mạnh để dân chủ hóa. Dân chủ qua sức mạnh cuối cùng là một quyết định chiến lược do một chế độ độc đoán đương nhiệm đưa ra. Như chúng tôi đã cho thấy trong các chương trước của cuốn sách này, nó cần các tín hiệu rõ ràng và đôi khi báo điềm xấu về sự suy sụt mới chớm nở để làm cho một kịch bản-dân chủ-qua-sức mạnh ngày càng chắc có khả năng hơn, và việc thay đổi các chiến lược chính danh hóa chế độ là cần thiết để đưa nó đến kết quả. Phần còn lại của tiết đoạn này nêu chi tiết sức mạnh độc đoán của Singapore, đưa ra một sự giải thích vì sao các tín hiệu đã không thúc đẩy PAP để nghĩ lại chiến lược của nó và để dân chủ hóa một cách phòng ngừa giống như các chế độ mạnh trong các nền kinh tế thu nhập-cao bạn bè như Đài Loan và Hàn Quốc.

    Phát triển Kinh tế Độc đoán

    Singapore là một trong các nước giàu nhất và được quản trị nghiêm ngặt nhất trên trái đất. Sự trỗi dậy của hòn đảo để lên giàu có, bây giờ gần US$60.000 trên đầu người, bắt đầu lâu trước sự độc lập. Sự cai trị Anh đã tận dụng tiềm năng entrepôt (kho) thương mại cũng như sự vắng mặt của các trở ngại triều đại hay phong kiến địa phương của Singapore đối với sự biến đổi kinh tế khiến nó là một trong những thuộc địa giàu nhất của Britannia thậm chí trước Chiến Tranh Thế giới II.

    Thời kỳ ngay sau chiến tranh đã chứng kiến những lợi lộc kinh tế thậm chí còn nổi bật hơn. Những người Anh cai trị và các elite địa phương đồng minh của họ đã xây dựng các định chế nhà nước mạnh hơn và khai thác hơn về mặt tài khóa trong một phản ứng phản-cách mạng đối với đợt bùng phát náo động sắc tộc và lao động tiếp sau sự chiếm đóng thời chiến của Nhật Bản.4 Vào lúc Singapore giành được sự tự-trị trong 1959, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người đã hơn US$3.500 rồi, một ngưỡng thu nhập-trung bình mà Hàn Quốc chưa đạt được cho đến 1978, Thái Lan chưa đạt cho đến 1995, và Trung Quốc chưa đạt được cho đến 2008.

    Thành tích phát triển kinh tế ngoạn mục sau chiến tranh của Singapore đã là một sản phẩm của sự hội nhập của nhà nước-thành phố vào nền kinh tế quốc tế, định hướng xuất khẩu của nó, và sự mở cửa háo hức của nó cho đầu tư nước ngoài hướng vào. Khi châu Á sau chiến tranh trở thành châu Á kiến tạo-phát triển, Singapore đã chẳng bao giờ đứng sang bên hay đi một mình. Ngay cả trước khi Nhật Bản trở thành động cơ của chủ nghĩa kiến tạo-phát triển Á châu trong các năm 1970 và các năm 1980, Singapore đã là một thiên đường cho đầu tư từ các hãng Âu châu và Mỹ rồi, một trung tâm thương mại nhộn nhịp cho tài nguyên thiên nhiên và các hàng hóa được chế biến, và một nhà xuất khẩu lớn của các sản phẩm chế tác cho các nước đã công nghiệp hóa của thế giới.

    Không giống các nền kinh tế nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan, Singapore đã dựa nhiều vào nhập khẩu và áp dụng công nghệ nước ngoài hơn phát triển công nghệ bản xứ trên con đường của nó tới địa vị thu nhập-cao.5 Tuy vậy, rất giống các trường hợp trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, Singapore đã tìm được cách để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững mà không có sự tiếp cận đến sự giàu có tài nguyên đáng kể.6 Chiến lược kinh tế này được chống đỡ bởi sự nhấn mạnh Anh đến sự phát triển các định chế pháp lý mà, dưới các điều kiện độc đoán như dưới các điều kiện thuộc địa, khẳng định vai trò của nhà nước nhiều hơn chúng kiềm chế nó. Điều này đã giúp Singapore trở thành không chỉ một trong các nền kinh tế giàu nhất thế giới mà cũng thành một trong các nước ít tham nhũng nhất thế giới.

    Những cố gắng của chính phủ PAP trong sự giảm nghèo đã thật ấn tượng, và sự cung ứng phúc lợi đã mang tính phổ quát về phạm vi mặc dù còn xa mới hào phóng về quy mô. Giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và nhà ở công được tài trợ thích đáng và được quản lý chuyên nghiệp từ lâu đã là các quyền khi sinh của mọi công dân Singapore. Mặc dù sự nhập cư tăng lên của những người nước ngoài có thu nhập-cao gần đây đã làm tồi tệ sự bất bình đẳng từ trên, và các dòng chảy vào tăng lên của các công nhân thu nhập-thấp đã làm trầm trọng thêm áp lực lên các dịch vụ công từ dưới lên, sự thực Singapore vẫn là một nền kinh tế hết sức phát triển và một xã hội trung lưu được đô thị hóa cao.

    Thế nhưng chế độ vẫn chưa bao giờ đi theo dân chủ hóa thực chất. Không có phiên bản nào của lý thuyết hiện đại hóa có thể hiểu rõ sự kéo dài của Singapore như một chế độ độc đoán cai quản một xã hội với một thu nhập trên đầu người đạt US$60.000.

    Như chúng ta đã thấy ở các phần khác của châu Á kiến tạo-phát triển, sự phát triển kinh tế tạo ra tính chính danh thành tích và cải thiện sự tự tin ổn định của một chế độ độc đoán khi nó giảm nghèo và mở rộng tầng lớp trung lưu một cách đáng kể. Sự phát triển kinh tế thành công và cân đối cũng cải thiện sự tự tin chiến thắng của chế độ khi đảng cầm quyền có thể lợi dụng một thành tích kiến tạo-phát triển gây ấn tượng mạnh mẽ.

    Đảng PAP là một ví dụ tuyệt vời về cả hai loại tự tin chế độ. Tuy vậy, các kỳ công này là không thể mà không có cùng các mước sức mạnh và năng lực thể chế làm nền tảng cho các phép màu kinh tế trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển. Sức mạnh của chế độ là một sản phẩm không chỉ của hồ sơ thành công phát triển mà cả các sức mạnh thể chế ghê gớm của nó. Vào các năm 1950, nhà nước thuộc địa của Singapore đã là một nhà nước mạnh nhất và có năng lực nhất của châu Á. Vào các năm 1960, PAP cầm quyền cũng đã trở thành một trong những đảng chính trị cầm quyền mạnh nhất.

    Tuy vậy, con đường ban đầu của đảng-nhà nước tới sự thống trị đã chẳng hề suôn sẻ. Thật khó để tin bây giờ, Singapore đã là một trong các thành phố hay sinh sự và được huy động nhất ở châu Á sau Chiến Tranh Thế giới II. Một cách cụ thể, các công đoàn lao động và phong trào xã hội chủ nghĩa đã cấp tiến và có uy thế. Một sự kết hợp của sự đàn áp có chọn lọc của chính phủ và sự hợp nhất bầu cử rộng đã biến đổi từ từ lao động được tổ chức từ một lực lượng cho đối lập thành một người chơi tích cực và hợp tác trong dự án xây dựng nhà nước phi thực dân hóa của Singapore. PAP bắt đầu cuộc sống của nó như một mặt trận thống nhất dân tộc chủ nghĩa hoàn toàn, tự định vị mình như một đảng thống trị và thiên tả sau khi sự tự-trị được trao trong 1959.

    Giống nhiều mặt trận thống nhất dân tộc chủ nghĩa, PAP đã bị chia rẽ nội bộ sâu sắc. Cánh tả xã hội chủ nghĩa và chủ yếu nói tiếng Hoa của đảng đã cùng tồn tại không dễ dàng với phái trung dung thân tư bản chủ nghĩa, thân Anh, và hầu hết nói tiếng Anh.

    Sự cùng tồn tại này tạo thành một thế lực cử tri khủng khiếp bất khả chiến bại dù không cố kết. Phản ánh sự lôi cuốn bao quát đang nổi lên của nó, PAP đã giành được 43 trong số 51 ghế quốc hội trong 1959, được thống nhất bởi một mục tiêu bao quát—cụ thể là, sự trao lại chủ quyền từ những người Anh. Vào 1961, hai năm sau khi giành lại sự tự-trị, đảng cầm quyền chính thức chia tách, với cánh tả, do David Marshall lãnh đạo, thành lập Mặt trận Xã hội chủ nghĩa (Barisan Socialis) mới và PAP bây giờ trung dung một cách cố kết hơn do Lý Quang Diệu đứng đầu. Vì thế, đa số của PAP về ghế quốc hội co lại chỉ một lợi thế 26–25 sau 1961.

    Vào 1963, tình hình chính trị trở nên phức tạp và lôi thôi hơn. Sợ rằng Singapore không sống nổi như một nhà nước-thành phố, các nhà trung dung PAP và các nhà thực dân Anh đã thúc đẩy cho sự sáp nhập hòn đảo với Liên bang Malaysia mở rộng. Điều này đã làm tăng thêm sự phân cực chính trị ngang các ranh giới cả ý thức hệ và sắc tộc. Lúc đó, Malaysia được một liên minh Malay kịch liệt chống xã hội chủ nghĩa lãnh đạo, còn Singapore được lãnh đạo bởi một đảng do người Hoa chi phối vẫn nói đãi bôi ủng hộ các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa và bày tỏ một sự chán ghét cay đắng đối với chủ nghĩa thiên vị sắc tộc chi phối nền chính trị trong phần còn lại của Malaysia. Trong các cuộc bầu cử quốc hội 1963 đi cùng với sự sáp nhập với Malaysia, PAP đã tìm được cách để tránh những người thách thức từ các đối thủ cả xã hội chủ nghĩa và toàn-Malaysia, giành được 37 trong 51 ghế.

    Thời kỳ tiếp sau từ 1963 đến 1965 đã chứng tỏ thử nghiệm Malaysia không có cơ hội thành công. Tầm nhìn của PAP về một “nước Malaysia của người Malaysia” trong đó những người không-Malay được hưởng đầy đủ địa vị chính trị ngang bằng với những người Malay bản địa đã bị liên minh cầm quyền do Khối Liên minh UMNO-chi phối nguyền rủa sâu sắc. Những căng thẳng sắc tộc trở nên không thể chịu nổi, và bạo lực từng hồi. Trong tháng Tám 1965, Singapore và Malaysia chính thức chia tách. Singapore từ đó trở đi được cai trị bởi một đảng cầm quyền kiên quyết ủng hộ tư bản chủ nghĩa không hề ăn năn về việc dùng các biện pháp độc đoán để bảo đảm sự ổn định chính trị và sự tăng trưởng kinh tế nhanh.

    Cái xuất hiện đã là một trong các nhà nước độc đoán kiến tạo-phát triển mạnh nhất của châu Á. Cắt hết những người cánh tả và có giáo dục Trung quốc của nó, PAP đã rèn một liên minh chắc như đinh đóng cột với một bộ máy quan liêu trọng dụng nhân tài, có năng lực, và chuyên nghiệp, chia sẻ cam kết của đảng cầm quyền với các thị trường quốc tế mở và sự kiểm soát xã hội chặt chẽ. Đầu tư nước ngoài mau chóng đổ vào và công nghiệp hóa được tăng tốc. Trong khi đó, trong một cố gắng để PAP ngồi thu lu trong quyền lực, đảng-nhà nước cầm quyền đã bơm thu nhập thuế dồi dào của nó vào các dịch vụ xã hội rộng rãi, nổi tiếng nhất là chương trình nhà ở công bao gồm hơn 90 phần trăm người Singapore vào cuối các năm 1970. Ngay cả khi sự bất bình đẳng tăng lên từ từ, sự nghèo tuyệt đối, một ký ức sống động gần đây, đã trở thành một thứ của Singapore quá khứ.

    https://vandoanviet.blogspot.com/2024/12/tu-phat-trien-en-dan-chu-su-bien-oi-cua_01169773538.html


    Không có nhận xét nào