Tác giả: Dan Slater và Joseph Wong
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022
Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2024
Thời gian dễ lung lay giữa hai vương triều
Sự ra đi của Rhee đã khơi mào hy vọng nào đó cho một sự xoay vòng dân chủ ở Hàn Quốc. Từ đống mảnh vụn của chính quyền tan rã của Rhee, Chang Myon nổi lên, người đã lãnh đạo Đảng Đối lập dân chủ tới một chiến thắng dứt khoát trong các cuộc bầu cử Quốc Hội 1960. Theo liền sau các cuộc bầu cử, hiến pháp 1948 ban đầu được cải cách ngay lập tức, loại bỏ nhiều quyền lực mà Rhee đã lạm dụng. Các nhà làm luật Hàn quốc cũng đã soạn một hiến pháp mới để tăng cường các định chế quốc hội hơn là tổng thống. Vai trò của tổng thống, chẳng hạn, đã trở thành nghi lễ, và thủ tướng có được các quyền hành pháp đối với nội các. Quốc Hội đã bàu Chang làm thủ tướng trong tháng Tám 1960.
Đảng Dân chủ đã giành được một đa số to lớn trong Quốc Hội. Bất chấp điều này, đảng cầm quyền mới đã yếu về mặt tổ chức, chia rẽ dọc theo các tuyến bè phái không thể dung hòa giữa các đảng viên lão thành tranh giành nhau. Đảng đã không chia rẽ nhiều về mặt ý thức hệ như bị rạn nứt dọc theo các tuyến cá nhân giữa các lãnh đạo đảng. Chang dẫn đầu một phái, và đã không có khả năng giành được sự ủng hộ của các phái lớn khác. Không giống Lý Đăng Huy ở Đài Loan, mà đã khéo léo dùng mưu mẹo để củng cố sự ủng hộ ông bên trong QDĐ cầm quyền trong cuối các năm 1980, Thủ tướng Chang đã không có khả năng để cùng nhau xây dựng một liên minh cải cách bên trong Đảng Dân chủ. Đảng cầm quyền mới của Hàn Quốc đã bị tê liệt, không có khả năng phá vỡ sự bế tắc lập pháp và các bế tắc bên trong đảng. Việc này đã cản trở sự tái khởi động kiến tạo-phát triển của Hàn Quốc. Bất chấp những cố gắng của phái Chang để làm sống lại vài sáng kiến kinh tế, dự đoán là tất cả đều thất bại. Nền kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng chỉ 1 phần trăm trong năm 1960.
Chang cũng đã thiếu các cơ sở quyền lực chính trị khác. Nhất là, ông đã làm ít để giành được sự ủng hộ Mỹ cho chế độ của ông. Một chính sách đối ngoại bồ câu, ông đã thử bóp nghẹt các nguồn lực của quân đội, một nước đi đã chọc tức các nhà ra quyết định Mỹ. Trong khi Hoa Kỳ đã rất muốn thấy Rhee ra đi, nó đã không hoan nghênh cố gắng của Chang để phi quân sự hóa Hàn Quốc, làm xói mòn các cố gắng Chiến tranh Lạnh của Mỹ để kiềm chế sự bành trướng cộng sản. Chang cũng nhổ nanh bộ máy an ninh nội bộ mà Rhee đã dựa vào để đàn áp đối lập. Tuy vậy, ông đã không theo đuổi để truy tố cựu tổng thống Rhee, mặc dù bằng chứng chỉ một cách áp đảo tới việc ông tham nhũng và bóp méo hiến pháp dân chủ của Hàn Quốc. Trong khi Chang thử hủy bỏ nhiều trong các định chế đàn áp mà Rhee đưa vào, xã hội Hàn quốc đã thấy Chang mềm yếu đối với cựu tổng thống, thúc đẩy hàng trăm ngàn người biểu tình để huy động chống lại chính phủ mới suốt 1960 và 1961. Chính phủ Chang đã hầu như không bám trụ được ít hơn một năm.6
Trong khi Rhee đã kéo dài chế độ của ông qua các chiến thuật tàn bạo, mạnh tay, bất chấp việc có một đảng yếu, Chang đã là một nhà lãnh đạo yếu, thừa kế một đảng chính trị cầm quyền bị chia rẽ nội bộ. Ông đã không phải là một kẻ mạnh tay, cũng chẳng có một cơ sở tổ chức quyền lực mạnh trong đảng chính trị của riêng ông. Thử nghiệm nhanh chóng trôi qua với nền dân chủ dưới Chang như thế đã là một ví dụ về dân chủ qua sự yếu kém, không phải qua sức mạnh. Thời gian chuyển tiếp tạm thời giữa hai triều đại đã bất ổn định và gập nghềnh ngay từ đầu, và không có một đảng cầm quyền mạnh, nền dân chủ đã không ổn định. Hàn Quốc đã dân chủ hóa qua sự yếu kém hơn là sức mạnh trong năm 1960, mang lại một nền dân chủ yếu và bất-ổn định hơn là nền dân chủ mạnh và ổn định.
Không ngạc nhiên, chính phủ của Chang đã kết thúc đột ngột như nó bắt đầu, khi Tướng Park Chung-hee phát động thành công một cuộc đảo chính quân sự mau lẹ trong 1961. Vì nền kinh tế Hàn quốc đã đình trệ và các định chế chính trị của nó đã xấu đi dưới chế độ Rhee thối nát, tiếp theo bởi chính quyền Chang thiếu máu, Park đề ra một tầm nhìn chính trị và kinh tế mới cho một Hàn Quốc hiện đại. Như với các nước khác trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, chủ nghĩa dân tộc và sự tự lực quốc gia đã là trung tâm của kế hoạch của Park cho sự phát triển xã hội, kinh tế, và chính trị của Hàn Quốc. Tuy vậy, trung tâm đã không phải là nền dân chủ.
Chủ nghĩa Độc đoán Kiến tạo-Phát triển
Trước khi đánh giá chế độ Park và nó đã biến đổi Hàn Quốc thế nào từ chủ nghĩa độc đoán yếu sang mạnh trong các năm 1960 và 1970, đáng để nhấn mạnh chế độ của Hàn Quốc đã có ít nội dung dân chủ đến thế nào trước cuộc đảo chính 1961 của Park. Chế độ về cơ bản đã sa lầy, từng đợt một, giữa nền dân chủ và chủ nghĩa độc đoán suốt các năm 1950. Về khía cạnh này, bắt đầu trong các năm 1960, chế độ Park đã không độc đoán hơn các chế độ tiền nhiệm của nó; không phải cứ như Park đã tháo dỡ hay đảo ngược nền dân chủ vững chãi cho chủ nghĩa độc đoán. Đúng hơn, điểm cốt yếu là chế độ Park đã dứt khoát kiến tạo-phát triển hơn.
Chẳng bao lâu sau cuộc đảo chính 16 tháng Năm 1961, Park đã ấn nút khởi động lại chính trị và thiết lập Hội đồng Tối cao cho sự Tái Thiết Quốc gia, trung tâm thần kinh chính trị cho chế độ của ông. Như một nhà quân sự chuyên nghiệp, Park đã cai trị với sự ủng hộ của quân đội, một cơ sở quyền lực mà cả Rhee lẫn Chang đã chẳng thể có khả năng dựa vào trong các chính quyền của họ. Mặc dù Park thực thi sự cai trị của ông với sự hậu thuẫn của quân đội, ông đã quản trị Hàn Quốc qua Đảng Dân chủ Cộng hòa (DRP). Đảng cầm quyền đã là bộ máy tổ chức qua đó Park thực hiện quyền lực chính trị. Các đảng chính trị khác đã được phép tranh đua các cuộc bầu cử trong các năm 1960, mặc dù các quy tắc bầu cử đã hết sức thiên vị cho DRP cầm quyền, loại bỏ bất kể cơ hội nào cho đối lập để thắng.
Chắc chắn, Park đã không che giấu sự khinh bỉ của ông đối với nền dân chủ tự do, mà ông mô tả như một “khái niệm trừu tượng, vô dụng.” Trong tâm trí ông, Hàn Quốc không thể đạt sự hiện đại hóa chính trị và chuyển đổi dân chủ mà không có sự phát triển kinh tế. Ông tán thành các nguyên lý của lý thuyết hiện đại hóa, và nhất là sự sắp xếp thứ tự của hiện đại hóa kinh tế trước sự biến đổi chính trị. Ông đã phát biểu rõ ràng các lý luận của mình về phát triển trong tiểu luận nổi tiếng của ông The Country, the Revolution and I (Đất nước, Cách mạng và Tôi), khẳng định rằng các nước kém phát triển, như Hàn Quốc, “phải dùng đến các biện pháp phi-dân chủ và bất thường nhằm để cải thiện các điều kiện sống của quần chúng.” Nền dân chủ sẽ phải đợi.7
Từ quan điểm của Park, chừng nào Hàn Quốc còn nghèo và nền kinh tế của nó kém phát triển, nó không ở vị trí để thử nghiệm với dân chủ hóa chính trị; và Hàn Quốc đã vẫn rất nghèo. Lúc bắt đầu triều đại độc đoán của Park, nền kinh tế đã hầu như không tăng trưởng từ thập niên trước. Trong thời kỳ ngay sau chiến tranh, Hàn Quốc đã là một trong các nước nghèo nhất thế giới, và nó đã vẫn là một trong các nền kinh tế kém phát triển nhất vào lúc kết thúc chiến tranh của những năm 1950.8 Không giống Rhee và Chang, Park bắt đầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa kinh tế của Hàn Quốc. Nhà nước đã đầu tư mạnh vào sự phát triển vốn con người, đáng chú ý nhất vào giáo dục. Giống với nhà nước kiến tạo-phát triển của Đài Loan, chính phủ Hàn quốc đã phổ quát hóa giáo dục tiểu học trong những năm 1960, và sự tiếp cận đến giáo dục bậc cao hơn đã mở rộng trong những năm 1970. Như Ngân hàng Thế giới đã lưu ý, các khoản đầu tư vào giáo dục và sự phát triển vốn con người là cốt yếu để nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động công nghiệp của Hàn Quốc, bảo đảm cho các hãng đang công nghiệp hóa có cung dư dả về các công nhân có kỹ năng trong thị trường lao động trong nước.9
Giống nhà nước kiến tạo-phát triển ở Đài Loan và Nhật Bản, chế độ Park đã áp dụng các chính sách công nghiệp chiến lược và những sự can thiệp để tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng công nghiệp quốc gia và sự phát triển kinh tế. Bắt đầu trong đầu các năm 1960, nhà nước kiến tạo-phát triển đã thực hiện một loạt thuế quan thay thế nhập khẩu để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước, đặc biệt trong khu vực chế tạo thâm dụng lao động, như ngành dệt may, trong đó các hãng Hàn quốc đối mặt với sự cạnh tranh khắc nghiệt từ các công ty nước ngoài. Được thuế quan khiến các hàng nhập khẩu đắt hơn một cách nhân tạo làm cho phấn chấn, các công ty Hàn quốc đã có khả năng phát triển các năng lực chế tạo trong nước của chúng sao cho chúng cuối cùng có thể cạnh tranh trên các thị trường toàn cầu.
Các hãng chế tạo đã phát triển nhanh chóng trong các năm 1960 dưới chế độ Park. Giống với Nhật Bản và Đài Loan muộn hơn, nhà nước kiến tạo-phát triển Hàn quốc đã chọn và giúp những kẻ thắng công nghiệp. Được lợi từ các thuế quan nhập khẩu chiến lược, các công ty hứa hẹn được nhà nước cổ vũ để bán trên các thị trường quốc tế. Chính phủ đã áp dụng các khuyến khích xuất khẩu khác nhau, như việc tài trợ tín dụng và các khoản giảm thuế, để thúc đẩy công nghiệp hóa định hướng-xuất khẩu. Xuất khẩu đã tăng hơn gấp đôi từ US$41 triệu trong 1961 lên $87 triệu trong 1963, lại tăng gấp đôi lên $176 triệu trong 1965. Vào năm 1970, một thập niên trong chế độ Park, giá trị các hàng xuất khẩu Hàn quốc tổng cộng lên đến $882 triệu, với một phần tăng lên của thu nhập xuất khẩu đến từ các ngành chế tạo.
Nhà nước kiến tạo-phát triển cũng đã quốc hữu hóa hệ thống ngân hàng trong các năm 1960, mà cho phép nó kiểm soát sự phân bố vốn đầu tư. Tiền dollar viện trợ nước ngoài và đầu tư được quay vòng qua hệ thống ngân hàng do nhà nước-kiểm soát, trao cho nhà nước đòn bẩy trong sự phân bổ tài trợ công nghiệp, thưởng các hãng định hướng-xuất khẩu chiến thắng bằng tín dụng và các khuyến khích thuế.
Sự tăng trưởng kinh tế đã vút lên trong các năm 1960 dưới chế độ Park. Giữa 1961 và 1970, thu nhập trên đầu người đã tăng ba lần, từ US$82 lên $243. Nền kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng trung bình gần 8,5 phần trăm mỗi năm, và giữa 1965 và 1970 với tốc độ trung bình 10,4 phần trăm hàng năm. Các khoản đầu tư của nhà nước vào các ngành chế tạo đã mang lại kết quả, như phần của khu vực chế tạo trong nền kinh tế đã tăng từ 13,6 phần trăm trong 1961 lên 21 phần trăm trong 1970. Như một dấu hiệu của một nền kinh tế hiện đại hóa, năng suất kinh tế ở Hàn Quốc cũng ít phụ thuộc hơn vào nông nghiệp, như phần của nông nghiệp trong đầu ra kinh tế đã giảm từ 39,1 phần trăm trong 1961 xuống chỉ 26,6 phần trăm trong 1970. Vào lúc kết thúc của các năm 1960, các thị trường lao động đã chuyển tới các trung tâm công nghiệp đô thị. Thu nhập hộ gia đình đã trở nên bình quân hơn khi các công nhân có được việc làm trong những nghề đô thị, công nghiệp, hưởng-lương. Tầng lớp trung lưu của Hàn Quốc đã tăng lên.10
Như trong các nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản và Đài Loan, quyền lực để chỉ huy và tạo điều kiện thuận lợi cho sự biến đổi công nghiệp được tập trung bên trong một bộ máy quan liêu nhà nước mạnh. Ủy ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) đã là cơ quan hoa tiêu trong bộ máy nhà nước. Giống Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp ở Nhật Bản và Hội đồng Kế hoạch Kinh tế và Phát triển trong nhà nước kiến tạo-phát triển của QDĐ, EPB của Hàn Quốc có thẩm quyền điều phối đối với các bộ chuyên ngành khác nhau. Bộ máy quan liêu được tổ chức dọc, và các bộ chuyên ngành lấy các ám hiệu và lệnh của chúng từ EPB. Như trong các nhà nước định hướng kiến tạo-phát triển khác, bộ máy quan liêu áp dụng các thực hành tuyển dụng theo chế độ nhân tài, bảo đảm các nhà kỹ trị giỏi nhất và sáng dạ nhất được lấy ra từ các đại học top của đất nước để làm nhân viên của các bộ của nó.11
Lại như ở Nhật Bản và Đài Loan, bộ máy quan liêu ở Hàn Quốc nằm dưới sự kiểm soát chính trị vững chắc của chế độ cầm quyền. Tổng thống Park gặp những người đứng đầu các bộ đều đặn và can thiệp vào việc định chương trình nghị sự của EPB. Về khía cạnh này, nhà nước kiến tạo-phát triển cũng là một bộ máy quan liêu lành nghề và kỹ trị như nó là một công cụ của quyền lực chính trị cho Park và đảng cầm quyền.
Độc quyền của chế độ Park đối với quyền lực chính trị không chỉ do sự cưỡng ép. Park có được tính chính danh thành tích với phần lớn xã hội Hàn quốc, thực hiện lời hứa về phát triển kinh tế để bù cho sự vắng mặt cải cách chính trị. Hãy nhớ lại rằng quan điểm của Park về nền dân chủ là nó chỉ đến sau khi một xã hội được hiện đại hóa. Sự nắm giữ quyền lực của ông trong các năm 1960 như thế đã chẳng bao giờ bị nghi ngờ. Bất chấp chế độ khinh bỉ nền dân chủ và sự mở rộng các quyền chính trị, sự ủng hộ cho ông và DRP cầm quyền đã tiếp tục tăng qua các năm 1960. Thập niên đầu tiên của chế độ Park đã là đỉnh điểm của chủ nghĩa độc đoán kiến tạo-phát triển của Hàn Quốc.12
Tuy vậy, các nhà nước độc đoán kiến tạo-phát triển rốt cuộc đã gieo các hạt giống bất mãn và đối lập của chính chúng. Chúng ta đã thấy điều này ở Đài Loan, khi sau các thập niên tăng trưởng kinh tế và biến đổi xã hội, các công dân đã bắt đầu huy động cho sự thay đổi chính trị. Chúng ta cũng đã thấy điều này sớm hơn ở Nhật Bản trước chiến tranh, khi các công dân đòi sự tham gia chính trị lớn hơn, dẫn đến thử nghiệm dân chủ Taisho trong các năm 1920. Các chế độ kiến tạo-phát triển cuối cùng đến dưới áp lực bởi vì cái Alexis de Tocqueville mô tả đặc trưng như cách mạng của các kỳ vọng được nâng cao. Tóm lại, sự phát triển thành công tạo ra các xã hội đòi hỏi khắt khe.
Một xã hội đòi hỏi khắt khe về chính trị ở Hàn Quốc đã xuất hiện vào đầu các năm 1970. Sau một thập niên phát triển kinh tế bền vững, các tiếng nói đối lập nổi lên, kể cả sự huy động của các đảng đối lập trong các cuộc bầu cử. DRP của Park giành được ít phiếu trong các cuộc bầu cử Quốc Hội tháng Năm 1971 hơn trước đó, và Đảng Dân chủ Mới (NDP) đối lập đã tăng phần phiếu phổ thông của nó gần 12 phần trăm. Mặc dù Park thắng dễ dàng cuộc bầu cử tổng thống một tháng trước, ứng viên NDP đối lập được phiếu ngay sau ông. Điều này hầu như là thất bại cho chế độ cầm quyền. Park được cho là đã bị các kết quả bầu cử “làm cho điên tiết.” 13
Khởi động lại Chủ nghĩa Độc đoán
Park áp đặt hiến pháp Yushin hết sức đàn áp trong 1972, tập trung quyền lực chính trị vào tay tổng thống. Nước đi đầy kịch tính đã củng cố chế độ và trao cho Park một sự kìm kẹp quyền lực chính trị chắc hơn và các công cụ đàn áp nhà nước. Các hoạt động đối lập bị đàn áp dữ dội. CIA Hàn quốc, cánh tay tin cây nhất của bộ máy an ninh quốc gia của Park, được trao quyền để nhổ tận rễ và trừng trị các nhà hoạt động đối lập. Quyền công dân ít ỏi tồn tại trong các năm 1960 đã bị cắt bớt với sự áp đặt hiến pháp Yushin. Park cũng đã tăng tốc Phong trào Làng Mới dân tộc chủ nghĩa, được phát động trong mùa xuân 1970, để tạo sự ủng hộ chính trị số đông ở nông thôn.
Hiến pháp Yushin đã đè bẹp bất cứ vẻ bề ngoài nào của sự tham gia chính trị công dân. Mặc dù các cuộc bầu cử trong các năm 1960 bị thiên vị cho đảng cầm quyền, chúng đã đem lại chút ít sự tham gia chính trị nào đó cho những người Hàn quốc. Từ quan điểm của chế độ, các cuộc bầu cử cũng cung cấp sự phản hồi xã hội quan trọng. Chúng chí ít đã cho đảng cầm quyền và tổng thống vẻ huy hoàng của việc được bàu vào quyền lực. Hiến pháp Yushin đã thay đổi tất cả điều đó. Các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đã bị cấm sau 1972, và thay vào đó một cử tri đoàn được thành lập mới bên trong Quốc Hội đã chọn tổng thống. Hơn nữa, hiến pháp đã hạn chế các ứng viên đối lập khỏi việc ứng cử trong các cuộc tranh đua tổng thống. Park “đã thắng” chức tổng thống không bị phản đối trong tháng Mười Hai 1972.
Mặc dù các cuộc bầu cử Quốc Hội không bị hủy bỏ hoàn toàn trong các năm 1970, đảng cầm quyền đã thay đổi các quy tắc bầu cử để bảo đảm nó về cơ bản không thể bị đánh bại trong các cuộc đua lập pháp. Dưới hiến pháp Yushin, tổng thống phân bổ một phần ba số ghế quốc hội cho các đảng viên của đảng cầm quyền. Trong các cuộc bầu cử lập pháp 1973, chẳng hạn, DRP cầm quyền đã giành được một siêu đa số 67 phần trăm ghế trong quốc hội với chỉ 39 phần trăm phiếu bàu, một sự chênh lệch 28 phần trăm giữa phiếu phổ thông và sự phân chia các ghế lập pháp.
Ngay cả QDĐ ở Đài Loan, mà được lợi vô cùng từ các quy tắc bầu cử thiên vị cho chế độ đương nhiệm, đã không có được phần thưởng ghế gần cùng độ lớn như DRP đã có được ở Hàn Quốc. Giữa 1972 và 1989, sự chênh lệch trung bình giữa phiếu phổ thông và số ghế Viện Lập pháp QDĐ giành được là 12 phần trăm, so với phần thưởng 28 phần trăm mà DRP của Park đã được thêm trong 1973. Nói đơn giản, DRP ở Hàn Quốc đã yếu yếu hơn QDĐ ở Đài Loan nhiều, nên nó đã phải gian lận và thao túng nhiều hơn nhiều để tạo ra các kết quả giống nhau.
Gerrymandering (việc đưa ra các quy định thiên vị cho đảng cầm quyền trong bầu cử) ở Hàn Quốc thậm chí trở nên trắng trợn và quá xá hơn trong cuộc bầu cử Quốc Hội 1978 tiếp sau, khi đảng NDP đối lập giành được phần phiếu phổ thông lớn nhất nhưng chỉ được 26 phần trăm số ghế quốc hội. Trong khi đó, DRP của Park được ít phiếu hơn đối lập, nhưng bởi vì các quy tắc phân chia và quyền phân bổ ghế của tổng thống, đảng cầm quyền rốt cục đã kiểm soát 63 phần trăm ghế Quốc Hội. Nói cách khác, đối lập đã thắng phiếu phổ thông nhưng vẫn thua cuộc bầu cử.
Hiến pháp Yushin đã không phải chỉ là một lối chơi quyền lực chính trị, mà là một cố gắng để ủng hộ vai trò lãnh đạo của nhà nước trong việc chỉ huy sự phát triển kinh tế. Với sự bám chặt quyền lực chính trị không thể nghi ngờ của Park, nhà nước kiến tạo-phát triển đã đẩy mạnh hơn và nhanh hơn sự công nghiệp hóa và phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Trong đầu các năm 1970, Park đã tiết lộ chính sách công nghiệp “cú thúc lớn,” lái nền kinh tế vào các ngành công nghiệp nặng, như thép và hóa chất. Các khu vực này được chọn một cách chiến lược bởi vì chúng cung cấp các đầu vào công nghiệp quan trọng cho cái Park hình dung là một nền kinh tế công nghiệp được đa dạng hóa hơn.
Các hãng Hàn quốc đã tiếp tục leo lên chuỗi giá trị toàn cầu, chuyển khỏi sự chế tác công nghiệp nhẹ thâm dụng-lao động vào các khu vực giá trị-gia tăng-cao hơn như xây dựng, đóng tàu, và cuối cùng các ngành công nghiệp chế tạo công nghệ cao như ô tô và điện tử. Việc dùng một hỗn hợp của các thuế quan chiến lược, các khuyến khích xuất khẩu, nghiên cứu và triển khai được chính phủ trợ cấp, và sự phân bổ vốn đầu tư do nhà nước-kiểm soát, nhà nước kiến tạo-phát triển đã sắp đặt sự biến đổi công nghiệp liên tục.
Các công ty trong nước đã tăng về kích thước và quy mô. Các chaebol Hàn quốc hàng đầu, như Samsung và Hyundai—các tập đoàn tài chính và công nghiệp khổng lồ, được đa dạng hóa trong nội bộ nhưng được hợp nhất về mặt tổ chức—chiếm một tỷ lệ việc làm áp đảo cũng như phần lớn sản lượng công nghiệp và xuất khẩu.
Cách chế độ Park xử trí các sự tăng giá đột biến 1973 của OPEC (Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu) minh họa cách tiếp cận hung hăng của nhà nước đến sự phát triển kinh tế, và đặc biệt sự cam kết của Park đối với một cách tiếp cận bành trướng và định hướng-xuất khẩu. Sự ngược với Đài Loan là đặc biệt đáng rút ra bài học ở đây. Như chúng tôi đã mô tả trong chương 4, QDĐ đã theo đuổi một chính sách tiền tệ bảo thủ để giải quyết lạm phát do khủng hoảng OPEC gây ra. Về cơ bản, QDĐ đã làm chậm nền kinh tế lại gần như tới một sự tạm dừng. Hàn Quốc, ngược lại, đã chấp nhận một chiến lược khác và hung hăng hơn nhiều. Thay cho việc kiềm chế cung tiền, như QDĐ đã làm, chế độ Park đã theo đuổi một chính sách lạm phát bằng việc mở rộng cung tiền, kể cả việc vay các khoản vay nước ngoài mới. Chiến lược của Park là để tăng giao dịch xuất khẩu, mà đã tăng ba lần về giá trị giữa 1973 và 1977, từ khoảng US$3,3 tỉ trong giao dịch ra ngoài lên $10 tỉ. Hàn Quốc đã xuất khẩu cách thoát khỏi khủng hoảng của nó. Trong khi nền kinh tế Đài Loan đã làm chậm sự tăng trưởng của nó xuống chỉ 1 phần trăm trong năm 1974 trong một cố gắng để đệm sự tăng giá đột biến của OPEC, nền kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng 8,5 phần trăm trong 1974 và 14 phần trăm trong 1973 trong đỉnh cao của khủng hoảng OPEC.14
Từ một góc nhìn tăng trưởng kinh tế, các năm 1970 đã đơn giản phi thường cho Hàn Quốc. Theo mọi số đo, nền kinh tế đã phát triển với một nhịp độ chóng mặt, tăng trưởng trung bình 9,6 phần trăm hàng năm giữa 1970 và 1979. Thu nhập trên đầu người đã tăng từ khoảng US$240 lên chỉ ngay dưới $1,600 trong cùng thời kỳ, gần bảy lần trong một thập niên. Các khu vực chế tạo của Hàn Quốc đã trở nên tự-túc hơn và ít phụ thuộc hơn vào đầu vào công nghiệp nhập khẩu. Chiến lược định hướng-xuất khẩu của nó đã có kết quả, khi tổng giá trị xuất khẩu đã tăng gần mười bảy lần, từ khoảng US$880 triệu trong 1970 lên $14,7 tỉ trong 1979.
Sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc, đặt trong bối cảnh của sự cai trị độc đoán, đã tạo ra một xã hội đòi hỏi khắt khe hơn về mặt chính trị, với các kỳ vọng được nâng cao và những sự thất vọng về sự thiếu cải cách chính trị. Bất chấp tốc độ tăng trưởng tuyệt vời, sự đối lập với chế độ được kích dưới thời Park, thậm chí còn gay gắt hơn trước.
Độ lớn của tầng lớp trung lưu đã tăng trong các năm 1970. Các kết quả khảo sát cho thấy rằng bất chấp được lợi từ sự tăng trưởng, các tầng lớp-trung lưu Hàn quốc đã tìm kiếm không chỉ sự ổn định kinh tế mà cả sự dân chủ hóa chính trị từ từ. Các nhà hoạt động giai cấp lao động đã cảm thấy bị bỏ lại phía sau trong sự biến đổi kinh tế của Hàn Quốc, và các cuộc phản kháng lao động đã bùng lên. Các công nhân đã mong đợi cải cách chính trị. Park đáp lại bằng việc đàn áp thẳng tay thậm chí gắt gao hơn, kích động nhiều sự chỉ trích hơn và nhiều sự phản đối hơn, và kích động xung đột giữa nhà nước độc đoán và xã hội.
Các năm 1970 đã nâng các chính trị gia bất đồng nổi tiếng Kim Young-sam và Kim Dae-jung lên sự nổi bật chính trị, cả hai ông đã kêu gọi sự chấm dứt chế độ độc đoán. Trong mùa thu 1979, các sinh viên tại Đại học Busan đã phản đối chế độ tàn bạo và hiến pháp Yushin ngột ngạt của nó. Hàng ngàn sinh viên và các nhà hoạt động khắp đất nước đã gia nhập những người biểu tình Busan để chỉ trích chế độ Park. Họ đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ cho Park rằng chế độ độc đoán đã vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó. Đã có một hy vọng le lói rằng một nền dân chủ-qua-kịch bản sức mạnh nằm trên đường chân trời.15
Tuy vậy, một diễn biến gây sốc đã làm thay đổi tiến trình sự kiện ở Hàn Quốc. Vào ngày 26 tháng Mười, 1979, các đặc vụ CIA Hàn quốc đã ám sát Park. Các chi tiết quanh sự ám sát ông vẫn không rõ cho đến ngày này. Nhiều người tin một sự tranh giành quyền lực giữa CIA Hàn quốc và giới thân cận của Park đã dẫn tới cái chết của ông. Sự suy đoán cũng gợi ý rằng một số nhà lãnh đạo giữa elite cầm quyền đã cảm thấy chế độ cần giảm bớt sự đàn áp của nó và rằng chế độ đã đi quá xa, ngược với Park, người đã không ngừng thúc đẩy cho một sự đàn áp thẳng tay thậm chí mạnh hơn chống lại đối lập. Bất chấp lý do vì sao Park bị ám sát, cái chết đột ngột của ông đã để lại một chân không chính trị khổng lồ, cho phép một đợt bột phát của hoạt động chống-độc đoán trong xã hội Hàn quốc.
Tăng Gấp đôi Chế độ Độc tài
Theo liền sau vụ ám sát Park, cửa sổ cho cải cách dân chủ đã lại mở ra. Xã hội dân sự Hàn quốc đòi chấm dứt chủ nghĩa độc đoán. Các nhà hoạt động muốn cải cách chính trị. Dường như rằng một số nhà lãnh đạo bên trong chế độ Park đang tìm cách nới lỏng chiến thuật đàn áp của chế độ. Một chính phủ lâm thời được thành lập ngay sau sự ám sát ông, và nó bắt đầu mở cửa về mặt chính trị và xóa bỏ các thực hành độc tài của chế độ trước. Sự lạc quan tỏa khắp nơi.
Trong đầu 1980, trong thời kỳ được biết đến như “Mùa Xuân Seoul,” các nhà hoạt động đối lập đã huy động xuống đường để thúc đẩy cho cải cách chính trị. Chính phủ lâm thời đã thu hồi một số biện pháp khẩn cấp mà Park đã áp đặt dưới hiến pháp Yushin. Nhiều nhà hoạt động bị tù, đáng chú ý nhất là các giáo sư và các sinh viên có đầu óc cải cách, được chính phủ lâm thời thả ra. Các nhà bất đồng chính kiến, kể cả các nhà lãnh đạo đối lập Kim Young-sam và Kim Dae-jung, đã được khôi phục các quyền dân sự của họ.
Chính phủ lâm thời cũng tìm cách ban hành một hiến pháp mới: cụ thể, một hiến pháp dân chủ hóa hệ thống chính trị một cách có ý nghĩa bằng việc tăng cường thẩm quyền của Quốc Hội và tư pháp, tạo ra các quy tắc bầu cử công bằng hơn sao cho các đảng đối lập có một cơ hội, cũng như việc cắt bớt các quyền lực hành pháp của tổng thống. Tóm lại, mùa Xuân Seoul đã là một thời hy vọng cho các nhà hoạt động và một thời khắc thử nghiệm dân chủ của Hàn Quốc.
Tuy vậy, giữa cảm giác phấn chấn này về sự hy vọng dân chủ thì Tướng Chun Doo-hwan đang phối hợp một sự chiếm đoạt quyền lực chính trị ở hậu trường. Một cựu đồng minh của Park, Chun đã huy động sự ủng hộ của quân đội sau vụ ám sát Park. Ông cũng đã nắm sự kiểm soát CIA Hàn quốc. Nhìn lại, đã rõ rằng chỉ là vấn đề thời gian trước khi chính phủ lâm thời sụp đổ. Quả thực nó đã đến một sự kết thúc đôt ngột trong mùa xuân 1980, chỉ vài tháng sau khi Park bị giết, khi Chun thành lập đảng Công lý Dân chủ (DJP) và nhanh chóng tiếp quản chính quyền dân sự của chính phủ Hàn quốc.
Chế độ Chun ngay lập tức đè bẹp bất kể đà nào hướng tới nền dân chủ. Theo nhà khoa học chính trị John Kie-Chiang Oh, chế độ Chun là “chế độ độc đoán trần trụi nhất nói chung ở Triều Tiên đương đại,” thậm chí tàn bạo hơn chế độ Park. Chun tuyên bố quân luật trong 1980.16 Các nhà lãnh đạo đối lập Kim Young-sam và Kim Dae-jung lại lần nữa bị gạt sang bên lề. Quốc Hội bị đình chỉ, và chế độ Chun đóng cửa các khuôn viên đại học, mà đã là các ổ cho hoạt động đối lập. Chế độ ban hành các luật mới bằng sắc lệnh làm xói mòn quyền tự do báo chí. Việc chính phủ Chun thông qua các luật lao động hết sức hạn chế đã cắt bớt các quyền của các công nhân.
Các sinh viên biểu tình đã xuống đường, đòi Chun hủy bỏ quân luật và quay lại con đường cải cách chính trị được hình dung mấy tháng trước trong mùa Xuân Seoul. Các cuộc biểu tình lớn nhất đã xảy ra ở Kwangju, thủ phủ Tỉnh Nam Cholla. Nam Cholla xa Seoul, và như nơi sinh của nhà lãnh đạo bất đồng chính kiến nổi tiếng Kim Dae-jung, tỉnh đã chín muồi cho hoạt động đối lập. Khoảng 100.000 người biểu tình đã đối đầu với chế độ trong cuộc nổi dậy Kwangju. Chính phủ Chun đã đáp lại bằng việc triển khai gần 20.000 binh lính đến thành phố và, vào cuối tháng Năm 1980, đã lệnh cho họ để bắn vào những người biểu tình. Hơn 500 người đã chết trong “vụ thảm sát Kwangju,” mặc dù các ước lượng là cao đến 2.000.
Giống chế độ Park, Chun đã củng cố quyền lực chính trị của ông qua sức mạnh đàn áp của bộ máy an ninh quốc gia cũng như các cuộc bầu cử gian lận cho Quốc Hội. Trong bầu cử lập pháp 1981, gerrymandering bầu cử đã bảo đảm cho DJP của ông một đa số ghế trong cơ quan lập pháp, mặc dù DJP chỉ được hơn một phần ba số phiếu. Tuy vậy, không thỏa mãn với kết quả bầu cử Chun đã thay đổi Luật Bầu cử Quốc Hội để tăng sự phân bổ sai ghế quốc hội thậm chí có lợi hơn cho đảng cầm quyền. Do đó, bốn năm sau, trong 1985, DJP lại giành được một đa số ghế Quốc Hội, mặc dù nó còn xa mới được đa số cử tri ủng hộ với chỉ 35 phần trăm số phiếu. Đảng Dân chủ Mới Hàn quốc (NKDP) đối lập thực sự đã mất các ghế trong Quốc hội, bất chấp sự tăng phần phiếu phổ thông của nó lên 29 phần trăm.
Các cuộc bầu cử Quốc Hội 1985 đã là một sự kiện làm nổi bật quan trọng. Chúng đã nêu bật sự lạm dụng quyền lực rành rành của chế độ và sự ham muốn giảm đi giữa những người Hàn quốc cho sự cai trị chuyên quyền, bất chấp sự phát triển kinh tế được chế độ cầm quyền hứa hẹn. Gerrymandering quá xá đã bóc trần sự sốt sắng của Chun để bẻ cong các quy tắc thể chế để làm lợi cho chế độ DJP. Trong khi đó, sự trình diễn phi thường của NKDP đã phản ánh sự nổi tiếng tăng lên của đối lập ủng hộ dân chủ, chống-DJP. Trong cuộc bầu cử, NKDP đã mở rộng cơ sở cử tri ủng hộ của nó, gồm các công nhân, các sinh viên, tầng lớp trung lưu, và giáo hội. Các nhà hoạt động dân chủ đã không sớm có tiến bộ, và có lẽ, đối lập chống-độc đoán đã khích động sự ủng hộ cử tri có cơ sở rộng.17 Sự đối đầu giữa đối lập và chế độ Chun đến lúc nguy kịch. Chun bắt đầu cảm thấy áp lực.
Sau cuộc bầu cử Quốc Hội 1985, Chun báo hiệu ông có thể xem xét việc tự do hóa hệ thống chính trị, đề xướng một thử nghiệm khác về cải cách chính trị. Chế độ Chun đã thả các tù nhân chính trị, đáng chú ý các nhà lãnh đạo đối lập nổi tiếng Kim Young-sam và Kim Dae-jung. Chun cũng hứa xem xét việc đưa các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp vào. Giữa 1986 và 1987, chế độ cầm quyền và đối lập đã thử thương lượng cải cách hiến pháp, mà được xem như một sự nhượng bộ tiềm năng.18
Sau hàng tháng thảo luận, tuy vậy, hai bên đã không đi đến một thỏa thuận. Điều này một phần bởi vì đảng cầm quyền và đối lập đã quá xa nhau để đi đến một sự thỏa hiệp. Đối lập bị phân mảnh nội bộ cũng đã không có khả năng để hình thành một sự đồng thuận bên trong phe của chính nó. Một xung đột đang kéo đến giữa “hai ông Kim” và những người ủng hộ của họ đã làm gãy sự đoàn kết đối lập. Cảm nhận sự rạn nứt, Chun đã cắt đứt các cuộc thương lượng trong tháng Tư 1987, chấm dứt thử nghiệm tự do hóa ngắn ngủi. Một ngày sau, chế độ đã ra lệnh một cuộc đàn áp sâu rộng và đã vây bắt 4.000 nhà hoạt động dân chủ. Sự tan băng 1985 đã kết thúc nhanh chóng và chế độ Chun đã trượt trở lại con đường độc đoán của nó.
Có thể đoán trước đối lập đã phẫn nộ. Trong vài tháng tiếp, các cuộc biểu tình dân chủ đã tăng cường. Chính phủ đã tăng gấp đôi chủ nghĩa độc đoán bằng việc đàn áp các phong trào xã hội. Ngày càng hung bạo, quang cảnh chính trị Hàn quốc được New York Times mô tả như một “vùng chiến tranh.”19
Việc kích động đối lập thêm nữa, vào ngày 10 tháng Sáu 1987, Chun công bố Đại tướng Roh Tae-woo là người kế vị của ông làm tổng thống và lãnh đạo của DJP. Roh là đồng chí quân đội của Chun và đã tiến hành vài chiến dịch của Chun để tiêu diệt các nhà hoạt động đối lập trong triều đại của ông, kể cả vụ thảm sát Kwangju. Roh đã là cánh hẩu của Chun và có được sự thăng tiến chính trị của ông trên hệ thống độc đoán của Hàn Quốc. Kế hoạch kế nhiệm 1987 của Chun đã không báo trước cải cách dân chủ, nó cũng đã chẳng truyền sự tự tin giữa các nhà hoạt động chống-chế độ rằng nền dân chủ ở trên đường chân trời. Thay vào đó, sự bổ nhiệm Roh đã xát muối vào các vết thương của các nhà hoạt động đối lập.
Sau tuyên bố của Chun, một số ước tính lên đến 250.000 nhà hoạt động ủng hộ dân chủ đã đổ xuống đường khắp Hàn Quốc. Vào ngày 19 tháng Sáu, Chun ra lệnh cho các binh lính sẵn sàng để đè bẹp các cuộc biểu tình. Thời khắc đã cực kỳ căng thẳng. Như John Kie-Chiang Oh viết, “Hàn Quốc trên một vách đá trước vực thẳm, đối mặt với một vụ quân đội của nó tàn sát đẫm máu nhân dân chưa từng thấy.”20
Chọn Nền dân chủ
Trong tháng Giêng 1987, sáu tháng trước các cuộc biểu tình mùa hè, chế độ Chun đã giam giữ và tra tấn một sinh viên Đại học Quốc gia Seoul, Park Chong-chol. Park đã chết muộn hơn và đã trở thành một kẻ tử vì các hoạt động dân chủ của Hàn Quốc. Cái chết của anh đã khích động thêm liên minh minjung (dân chúng) ủng hộ dân chủ của các phong trào xã hội, khơi mào một làn sóng mới huy động chống-chế độ. Xung đột giữa nhà nước và xã hội đã lên đỉnh điểm khi hàng trăm ngàn người biểu tình chống-chế độ tham gia vào cuộc Diễu hành Hòa bình Vĩ đại của Nhân dân vào cuối tháng Sáu 1987.
Chế độ đã lại ở một ngã ba đường: nó có thể chọn để đàn áp đối lập, hay nó có thể tự do hóa về mặt chính trị và đặt Hàn Quốc lên một con đường hướng tới nền dân chủ. Đấy không phải là lần đầu tiên một nhà độc tài Hàn quốc đối mặt với quyết định này, mặc dù trong quá khứ—từ Rhee đến Park và đến Chun—chế độ cầm quyền rốt cuộc đã luôn chọn để tăng gấp đôi chủ nghĩa độc đoán.
Vào ngày 29 tháng Sáu, một tuần sau khi Chun ra lệnh cho binh lính để chuẩn bị trấn áp đối lập, Roh đã bất ngờ đưa ra một Tuyên bố về Dân chủ hóa và Cải cách. Ông đưa ra một bản kế hoạch dân chủ cho cải cách chính trị, kể cả các cam kết hiến định cho các quyền con người, quyền tự do báo chí, phóng thích các tù nhân chính trị và các nhà bất đồng chính kiến, các cơ chế pháp lý mới để chống tham nhũng, và sự trao quyền lực cho các nhà chức trách địa phương. Bản kế hoạch cải cách đề xuất ban hành các luật mới để kiềm chế quyền lực của tổng thống và để thể chế hóa các kiểm soát và đối trọng (checks and balances) lên nhánh hành pháp, kể cả việc trao thẩm quyền cho Quốc Hội được bàu để buộc tội và xét xử (impeach) tổng thống. Roh cũng công bố các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp sẽ được tổ chức trong tháng Mười Hai 1987, tiếp sau là các cuộc bầu cử Quốc Hội trong tháng Ba năm sau. Chế độ đương nhiệm đã dỡ bỏ các hạn chế lên các ứng viên đối lập, và các nhà lãnh đạo nổi tiếng Kim Young-sam và Kim Dae-jung đã được phép để tranh cử. Cải cách của Roh cam kết đưa ra lời hứa long trọng về sân chơi chính trị ngang bằng hơn, một điều kiện thiết yếu cho sự chuyển đổi dân chủ có ý nghĩa.21
Quyết định tháng Sáu 1987 của Roh để thừa nhận dân chủ đã đột ngột và bất ngờ. Các sự mở cửa và thử nghiệm dân chủ nổi lên trước đó ở Hàn Quốc, như chúng tôi đã kể lại sớm hơn trong chương này. Các chính trị gia đối lập đã huy động trước đây. Đảng cầm quyền đã có kết quả bầu cử tồi trước đó. Đây cũng là lần đầu tiên chế độ đã đối mặt với sự phản đối bình dân. Cuộc nổi dậy Kwangju đã mạnh như các cuộc biểu tình 1987. Tuy nhiên trong 1979, chế độ Chun đã đè bẹp phong trào đối lập một cách tàn bạo.
Thế vì sao Roh thừa nhận dân chủ như khi ông đã làm? Theo lý thuyết dân chủ qua sức mạnh của chúng tôi, các chế độ độc đoán đương nhiệm có nhiều khả năng hơn để xem xét một chiến lược thừa nhận dân chủ khi chúng đối mặt với các tín hiệu rõ và mạnh rằng sự cố bám lấy quyền lực của họ vis-à-vis đối lập đang tàn đi và bắt đầu suy giảm. Như chúng tôi phác họa trong phần dẫn nhập của cuốn sách này, các chế độ độc đoán có thể nhận bốn loại tín hiệu: địa-chính trị, bầu cử, lôi thôi (gây tranh cãi), và kinh tế. Khi các chế độ nhận các tín hiệu này, chúng có nhiều khả năng hơn để thừa nhận dân chủ, đặc biệt khi các chi phí chính trị của sự đàn áp là cao đến mức không chịu nổi (các tín hiệu báo điềm xấu) và đảng đương nhiệm được trấn an rằng nó có thể vẫn có sức cạnh tranh trong nền dân chủ (các tín hiệu làm yên lòng).
Xem xét phong cảnh chính trị-kinh tế trong mùa hè 1987, Roh có lẽ đã thấy các tín hiệu rõ và mạnh rằng chế độ độc đoán đang suy sụp, và rằng đảng cầm quyền đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của nó. Thật quan trọng, tuy vậy, các tín hiệu kinh tế báo trước đã không có trong số đó. Như ở Đài Loan, nền kinh tế Hàn quốc đã vẫn đầy sức sống và mạnh suốt giữa-các năm 1980. Sự phát triển công nghiệp đã tiếp tục thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, và các chaebol đã là các đối thủ cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu.
Chính phủ Hoa Kỳ báo hiệu rằng chế độ độc đoán đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của nó khi sử dụng áp lực chính trị công khai lên chế độ để dân chủ hóa. Chính phủ Mỹ đã dùng áp lực đằng sau-hậu trường trước đây, từ chính phủ Rhee thời hậu-chiến của các năm 1950 cho đến mùa hè 1987. Hoa Kỳ đã lặng lẽ phê phán gay gắt Chun và sự đàn áp của ông trong cuộc nổi dậy Kwangju. Tuy vậy, Hoa Kỳ đã chẳng bao giờ công khai lên án chính phủ độc đoán của Hàn Quốc. Các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ ở Hàn Quốc thực ra đã chỉ trích chính phủ Hoa Kỳ vì vẻ hờ hững của nó đối với, và đôi khi thậm chí sự ủng hộ bề ngoài của nó cho, chủ nghĩa độc đoán ở Hàn Quốc. Các nhà hoạt động đã đặc biệt phê phán Hoa Kỳ khi Tổng thống Ronald Reagan mời Chun như vị khách chính thức đầu tiên của chính quyền Nhà Trắng của ông, và khi Hoa Kỳ vẫn rõ ràng yên lặng khi các chế độ độc tài Park và Chun gạt các nhà lãnh đạo đối lập Kim Young-sam và Kim Dae-jung ra bên lề.22
Chiến thuật Mỹ về chỉ trích một cách riêng tư trong khi công khai ủng hộ chế độ độc đoán của Hàn Quốc đã thay đổi trong 1987. Khi Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc, chính phủ Hoa Kỳ trở nên ít khoan dung hơn với các đồng minh độc đoán của nó. Không lâu sau khi Chun lệnh cho binh lính để sẵn sàng trong mùa hè 1987, chính phủ Hoa Kỳ đã cảnh cáo Chun mạnh mẽ chống lại nước đi này. Một phái đoàn do Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách châu Á Gaston Sigur “đã cảnh báo nghiêm khắc” Chun “chống lại việc dùng quân đội Hàn quốc cho các mục đích chính trị.”23 Sớm hơn trong năm đó, Sigur đã quở trách các chiến thuật độc đoán của Chun, khuyến khích Chun và các đồng minh của ông để “văn minh hóa chính trị của họ.”24 Trong tháng Sáu 1987 Reagan gửi cho Chun một bức thư cá nhân “khẩn nài ông đừng dùng lực lượng quân sự trong việc giải quyết sự náo động.”25
Việc chính phủ Mỹ chuyển sang sự chỉ trích chế độ công khai và rõ ràng trong 1987 lần đầu tiên đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ cho Seoul. Chính phủ Hoa Kỳ, nhà bảo trợ ngoại giao, quân sự, và kinh tế quan trọng nhất của Hàn Quốc, đang mất sự kiên nhẫn với chiến thuật đàn áp của chế độ.
Các nhà độc tài Hàn quốc cũng đã chẳng phải trơ ra với sự truyền bá cải cách chính trị khu vực. Chẳng hạn, các sự kiện ở Đài Loan khoảng cùng thời gian đã được để ý ở Hàn Quốc. Quyết định của tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc để thừa nhận các cải cách chính trị bắt đầu trong 1986 và sự bãi bỏ quân luật năm tiếp theo chắc chắn đã ảnh hưởng đến các tính toán của Roh về cái giá chính trị của sự tiếp tục đàn áp độc đoán. Quyết định của Tưởng để thừa nhận cải cách dân chủ cũng đã báo hiệu các lợi ích chính trị cho chế độ đương nhiệm ở Hàn Quốc nếu nó nới lỏng hệ thống chính trị một cách tương tự trong khi nó vẫn tương đối mạnh. Tấm gương của Đài Loan cho thấy làm sao việc thừa nhận dân chủ đã không phải là hồi chuông báo tử của chế độ đương nhiệm, và rằng thực ra việc thừa nhận dân chủ qua sức mạnh có thể củng cố sự nắm lấy quyền lực của một đảng cầm quyền.
Các tín hiệu lôi thôi nội bộ cũng hết sức quan trọng. Vào 1987, kích thước và quy mô của phong trào đối lập đã áp đảo chế độ độc đoán đương nhiệm. Căn cứ vào hình mẫu phát triển dân chủ từng đợt một của Hàn Quốc, sự phản kháng dân chúng chống lại chế độ đã chẳng có gì mới. Các chính phủ độc đoán kế tiếp ở Hàn Quốc đã đối mặt với các làn sóng đối lập mạnh trước đó. Sự huy động xảy ra trong mùa xuân và mùa hè 1987, tuy vậy, đã có độ lớn chưa từng thấy, báo hiệu cho Roh rằng đối lập với chế độ độc đoán đã đạt một mức cường độ chưa từng có và sẽ không nao núng.
Không giống ở Đài Loan, nơi các nhà hoạt động tangwai đã chủ yếu là các chính trị gia đối lập và các trí thức elite bất đồng chính kiến, ở Hàn Quốc, phong trào minjung nổi lên trong giữa-các năm 1980 đã huy động hàng trăm ngàn nhà hoạt động chống-chế độ ngang các giai cấp xã hội và các sự chia tách chính trị-kinh tế. Quy mô và độ lớn của liên minh minjung, to lớn về mặt con số, đã đủ rắc rối cho chế độ. Độ rộng của phong trào, bao gồm và khích động rất nhiều nhà hoạt động khác nhau quanh một kẻ thù chung, truyền đi một tín hiệu báo điểm gở cho chế độ độc đoán.26
Áp lực địa-chính trị và sự nổi lên của chính trị gây tranh cãi chưa từng có đã cung cấp các tín hiệu rất mạnh mẽ cho Chun và Roh rằng sự ủng hộ cho sự cai trị độc đoán cả bên trong và bên ngoài đã tàn đi. Tuy vậy, như ở Đài Loan, tín hiệu rõ nhất cho chế độ rằng nó đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của nó đã là tín hiệu bầu cử. Đảng cầm quyền đã thất bại để tăng phần phiếu phổ thông của nó giữa các cuộc bầu cử lập pháp1981 và 1985, giành được chỉ một-phần ba số phiếu trong cả hai cuộc bầu cử. Trong khi đó, đảng đối lập chính đã tăng đầy kịch tính phần phiếu của nó thêm 8 phần trăm trong hai cuộc bầu cử, với NKDP giành được 29 phần trăm phiếu phổ thông trong 1985.
Trong cả hai cuộc tranh đua, đảng DJP đương nhiệm đã tìm được cách để có được một đa số ghế Quốc Hội, nhưng điều này là do gerrymandering. Hiển nhiên với tất cả mọi người, kể cả đảng cầm quyền, lý do chính cho DJP duy trì đa số của nó trong quốc hội là nó đã trắng trợn lừa đảo và thao túng các quy tắc bầu cử. So với QDĐ ở Đài Loan, thành tích bầu cử của DJP đã ít ấn tượng hơn đáng kể. Trong khi đó QDĐ đã tiếp tục giành được các đa số phiếu phổ thông đến ngay đêm trước của chuyển đổi dân chủ ở Đài Loan, còn DJP của Hàn Quốc gỏi nhất đã thêm vào các đa số hẹp.
Chuyển đổi dân chủ ở Hàn Quốc đã không bị các rắc rối kinh tế thúc đẩy. Đúng hơn, sự huy động bền vững cấp cơ sở từ dưới lên, sự suy giảm cử tri, và các áp lực địa-chính trị đã báo hiệu cho Roh rằng sự bám chặt quyền lực chính trị một thời không thể bị nghi ngờ của chế độ cầm quyền đang teo đi. Vào mùa hè 1987, hệ thống độc đoán của Hàn Quốc đã rơi xa vào vùng buồn vui lẫn lộn, và xa hơn QDĐ ở Đài Loan rất nhiều. Một mặt, chế độ Chun đã thừa kế các sức mạnh đáng kể có trước. DJP tiếp tục thống trị cơ quan lập pháp ngay cả khi phần phiếu phổ thông của nó đang co lại. Chế độ kiểm soát hoàn toàn bộ máy an ninh và nền kinh tế Hàn quốc đã mạnh. Tuy nhiên mặt khác, các tín hiệu rằng chế độ độc đoán đã bắt đầu suy thoái—rằng nó đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của nó—đã cũng rõ ràng và ngày càng báo điềm gở. Đã là hiển nhiên cho Roh và Chun rằng “thời gian đang hết hạn cho hình thức chính trị độc đoán cũ.”27
Các tín hiệu rõ và mạnh cho chế độ rằng sự bám lấy quyền lực của nó yếu đi đã giới thiệu một kịch bản thử nghiệm dân chủ cho tổng thống Roh mới đến nhập chức. Thật mỉa mai, chính là Chun, người tiền nhiệm của Roh và một trong những nhà độc tài tàn bạo nhất của Hàn Quốc, người đã khuyên Roh để thừa nhận cải cách và đẩy nhanh một chuyển đổi dân chủ. Theo thư ký ghi chép của Chun, ông đã giải thích rằng, “xét đến đòi hỏi tăng lên cho một cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp, việc chấp nhận một đòi hỏi như vậy sẽ là nước đi được lòng dân nhất” cho chế độ. Ông đã suy đoán thêm, “Hành động duy nhất này sẽ cho phép Roh để thắng hai ông Kim [các nhà lãnh đạo đối lập Kim Young-sam và Kim Dae-jung]. Như thế,” ông xác nhận, “tôi đã bảo Roh chấp nhận hệ thống bàu cử trực tiếp.”28 Bất chấp sự cổ vũ của Chun, Roh đã lo một cách có thể dự đoán được về việc thừa nhận dân chủ, vì cải cách dân chủ có thể dẫn đến sự thất bại và sự loại bỏ chế độ DJP hoàn toàn. Ông cũng đa lo về tất cả sự báo thù chống lại những người liên kết với chế độ Chun, kể cả bản thân ông.
Đáng nhắc lại: việc thừa nhận dân chủ luôn luôn là một canh bạc rủi ro, có tiền cược cao cho một chế độ đương nhiệm. Từ quan điểm của Chun, tuy vậy, doanh lợi biên của chế độ đương nhiệm đang giảm dần cho chế độ độc đoán trong hình thức hiện thời của nó. Chính là lợi ích tốt nhất của đảng cầm quyền để cho chế độ khởi xướng sự chuyển đổi dân chủ, hơn là để cho chế độ yếu đi thêm và lại một lần nữa cần dùng đến sự đàn áp dữ dội ồ ạt. Về mặt tư lợi của chính Chun, sự thừa nhận dân chủ sẽ cũng dọn đường cho ông và các cánh hẩu của ông để được ân xá vì các tội ác độc đoán của họ. Tuy vậy, Chun đã hiểu rằng Roh phải là người lãnh đạo cải cách dân chủ. Chun đã không thể làm được việc đó. Ông đã không có tính chính danh nào như một nhà cải cách dân chủ, vì sự liên đới của ông với vụ thảm sát Kwangju và việc ông đã bắt các nhà cải cách dân chủ câm miệng lặp đi lặp lại.
Việc thừa nhận các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp sẽ biến Roh thành một “anh hùng,” Chun lập luận. Việc cổ vũ Roh để tự tin theo đuổi sự thừa nhận dân chủ, Chun đã đi xa đến mức để “đảm bảo chiến thắng của Roh.” Ông đã chỉ ra các sức mạnh trước đó (antecedent strength) của chế độ đương nhiệm, và đặc biệt thành tích phát triển của đảng, và chúng cho Roh một lợi thế đáng kể đến thế nào trước đối lập. Roh cuối cùng đã bắt đầu chấp nhận chiến lược thừa nhận, một phần bởi vì những tín hiệu báo điềm xấu về sự sa sút sắp xảy ra của chế độ đã trở nên rất rõ, nhưng cũng do sự tự tin rằng chế độ giữ lại đủ quyền lực chính trị để sống sót qua một sự thừa nhận dân chủ, và thậm chí có khả năng phát đạt như một đảng dân chủ cầm quyền theo tinh thần LDP của Nhật Bản hay QDĐ của Đài Loan.
Tuyên bố 29 tháng Sáu 29 là một thông báo đầy kịch tính, một cuộc biểu diễn công khai được tổng thống Chun sắp mãn nhiệm dàn dựng với Roh người kế vị của ông. Lúc đưa ra tuyên bố, Roh ngay lập tức tiết lộ ông sẽ trình một đề xuất cải cách tám điểm lên Chun, tổng thống-lúc đó, cho sự chuẩn y của ông. Để thêm cảm giác kịch tính cho sân khấu chính trị, Roh cũng công bố ông sẽ hủy bỏ sự ứng cử tổng thống của mình nếu Chun không chấp nhận các đề xuất cải cách. Bằng việc làm thế, Roh đã cột vận mệnh dân chủ Hàn quốc với cả tuyên bố táo bạo của ông lẫn sự sẵn lòng của Chun để ủng hộ sự thừa nhận dân chủ. Ông đã miêu tả cả hai người họ như các nhà cải cách dân chủ. Trong cái các nhà quan sát mô tả như một “trò lừa đảo tinh vi,” Chun đã công khai chuẩn y đề xuất tám điểm của Roh vào ngày 1 tháng Bảy, mặc dù ông biết về nó từ trước và thậm chí đã nhúng tay vào việc soạn ra nó.29
Thừa nhận với sự Tự tin (Nào đó)
Như chúng tôi nói rõ trong lý thuyết của mình, các chế độ độc đoán chắc có khả năng hơn để xem xét một chiến lược thừa nhận dân chủ khi chúng đã tích lũy các sức mạnh trước đó nhưng sau khi chúng đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của chúng. Các chế độ chắc có khả năng nhất để thừa nhận dân chủ khi chúng nhận các tín hiệu rõ ràng và báo điềm xấu rằng chúng đang trong sự suy thoái mới bắt đầu và sự bám lấy quyền lực độc đoán của chúng đang tàn đi. Những kẻ chuyên quyền, tuy vậy, cần được trấn an rằng việc thừa nhận dân chủ sẽ không nhất thiết dẫn đến sự chết hay sự lỗi thời chính trị của chúng. Đúng hơn, sự thừa nhận dân chủ từ một vị thế mạnh là một lựa chọn chiến lược chắc có khả năng đảm bảo sự sống sót và thậm chí sự hồi sinh của nó một cách tiềm năng như các nhà cai trị đầy đủ của chế độ đương nhiệm trong nền dân chủ. Trong khi việc thừa nhận dân chủ là một nước đi rủi ro, các sức mạnh trước đó của chế độ đương nhiệm cho các nhà ra quyết định sự tự tin rằng việc ủng hộ hơn là việc bác bỏ cải cách dân chủ có thể dẫn đến một quá trình chuyển đổi ổn định trong đó đảng đương nhiệm có một cơ hội chiến đấu tuyệt vời để phát đạt trong nền dân chủ.
Giữa các tín hiệu rõ và mạnh mẽ rằng chế độ độc đoán đang trong sự suy thoái chớm nở, Roh vẫn đã có nhiều lý do để tự tin về danh tiếng quyền lực chính trị của nó. Sự thực nền kinh tế rất mạnh đã giúp đảng cầm quyền đương nhiệm chứng minh cho các cử tri rằng sự tiếp tục là vì lợi ích tốt nhất của họ. Chế độ đã chứng minh còn mạnh hơn bằng cách nêu bật việc đối lập thiếu kinh nghiệm trong quản lý và tăng trưởng kinh tế. Trong 10 năm giữa 1981 và 1990, nền kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng hơn 9,5 phần trăm mỗi năm. Đặc biệt giữa 1986 và 1988, thời kỳ khi Roh khởi xướng cải cách dân chủ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã gần 13 phần trăm một năm. Nói cách khác, việc thừa nhận dân chủ trong 1987 đã có nghĩa là chế độ chuyển đổi trong “khoảng thời gian rất thành công.” Thành tích của nhà nước kiến tạo-phát triển đã lôi cuốn các cử tri tầng lớp-trung lưu, và lời hứa cải cách chính trị của Roh trung hòa sự chia tách chế độ mà đã kích hoạt đối lập tầng lớp-trung lưu. Bằng việc thừa nhận dân chủ, chế độ đương nhiệm đã có một cơ hội tốt để mở rộng cơ sở ủng hộ cốt lõi của nó.
Các quy tắc trò chơi bầu cử cụ thể đã là quan trọng trong việc xác nhận quyết định của Roh tiến lên với các cải cách dân chủ. Giống với tình hình ở Nhật Bản và Đài Loan, các quy tắc bầu cử Quốc Hội đã thiên vị đảng đương nhiệm, mà đã giúp cho sự tự tin chiến thắng của DJP (và của Roh). Các cải cách bầu cử được thực hiện ngay trước các cuộc bầu cử lập pháp 1988 đã đi một chặng đường dài để làm phẳng sân chơi cho tất cả các đảng nhưng vẫn trao các lợi thế được cài sẵn cho đảng cầm quyền đương nhiệm.
Chẳng hạn, bởi vì DJP thu hút các cử tri từ khắp đất nước, đảng đương nhiệm đã có một lợi thế trong việc chiến thắng các khu vực bầu cử có một đại diện duy nhất nơi ứng viên được một đa số thường (hơn là đa số) của sự ủng hộ cử tri sẽ giành được ghế*. Các đảng đối lập nhỏ hơn, có cơ sở vùng, mặt khác, đã bị bất lợi. Cả hai nhà lãnh đạo đảng đối lập, Kim Young-sam và Kim Dae-jung, đã lôi cuốn sự ủng hộ cử tri của họ từ các cơ sở vùng quê hương của họ. Kim Dae-jung đã vô cùng nổi tiếng ở Tỉnh Nam Cholla, còn Kim Young-sam về mặt lịch sử đã lôi cuốn sự ủng hộ cử tri không cân xứng ở tỉnh Kyungsang quê ông. Cả hai đảng đối lập được kỳ vọng để giành được chiến thắng trong các khu vực tương ứng của chúng nhưng chắc sẽ không vượt qua DJP và Roh trên quy mô quốc gia.
Các khu vực bầu cử cũng được vẽ ra để đại diện quá mức nông thôn, nơi DJP về mặt lịch sử đã thống trị. Lần nữa, điều này không phải không giống tình hình đối mặt với LDP ở Nhật Bản và QDĐ ở Đài Loan. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội 1988, sự phân bổ khu vực bầu cử đã cho đảng cầm quyền đương nhiệm một phần thưởng ghế khá lớn trong các vùng nông thôn. DJP đã củng cố thêm sự ủng hộ cử tri nông thôn của mình khi nó công bố kế hoạch của chính phủ để mở rộng các phúc lợi bảo hiểm y tế cho các nông dân và những người lao động nông thôn tự-làm chủ trong 1988, vào lúc trùng với cuộc bầu cử Quốc Hội đầu tiên.
Các quy tắc đại diện tỷ lệ (proportional representation-PR) trong hệ thống bầu cử lập pháp đã làm lợi thêm cho DJP đương nhiệm bằng việc cho đảng lớn nhất một phần không cân đối của các ghế PR. Các quy tắc này hầu như bảo đảm cho đảng cầm quyền một mẻ khá lớn ghế trong Quốc Hội. Như thế trong khi các cuộc bầu cử Quốc Hội 1988 đã tự do và các quy tắc trò chơi bầu cử đã làm ngang bằng sân chơi một cách đáng kể, chúng đã hầu như không công bằng hoàn toàn. Giống QDĐ ở Đài Loan, DJP đương nghiệm đã gắn những sự bảo vệ vào hệ thống bầu cử để đảm bảo cho đảng độc đoán trước kia những lợi thế dứt khoát trong sự cạnh tranh dân chủ.
Nơi chế độ đương nhiệm đã ít tự tin hơn vể chiến lược thừa nhận dân chủ của nó, tuy vậy, là trong sự cá cược của nó rằng Kim Young-sam và Kim Dae-jung sẽ chia tách sự ủng hộ cử tri giữa các cử tri đối lập.30 Việc chia rẽ đối lập đã là con đường chắc chắn nhất cho Roh để thắng cuộc bầu cử tổng thống 1987 và cho đảng của ông để thành công trong cuộc tranh đua lập pháp 1988. Nếu hai ông Kim bằng cách nào đó thống nhất các cơ sở chính trị khác hẳn nhau của họ, Roh và DJP đối mặt với khả năng cao sẽ bị đánh bại tại các nơi bỏ phiếu. Chun và Roh đánh giá tình hình trong mùa hè 1987 và đã xác định hai ông Kim sẽ không có khả năng để thống nhất các khối cử tri bị chia rẽ của họ kịp thời cho các cuộc bầu cử dân chủ sáng lập.
Đánh giá của họ đã chính xác, như hóa ra là thế. Kim Young-sam và Kim Dae-jung, bất chấp là các đồng minh trong cuộc vận động cho nền dân chủ, đã có một lịch sử dài về xung đột và sự thù hằn giữa họ. Họ đã là các quán quân dân chủ nhưng cũng cạnh tranh gay gắt trong việc giành được sự lãnh đạo của phong trào ủng hộ dân chủ của Hàn Quốc. Vào thời dưới các chế độ độc tài Park và Chun, hai ông Kim đã hợp lực, nhất là trong các năm 1970 và các năm 1980 khi sự đàn áp độc đoán dữ dội nhất. Tuy vậy, các liên minh đã sinh ra từ sự tiện lợi chính trị, mà không có một nền tảng rõ ràng cho một liên minh lâu dài một khi dân chủ hóa không còn đòi hỏi một cuộc đấu tranh đối lập thống nhất nữa.31
Trước cuộc bầu cử tổng thống 1987, Kim Young-sam và Kim Dae-jung đã tán tỉnh với ý tưởng về tranh cử trên cùng danh sách ứng cử trong sự đối lập với chế độ đương nhiệm. Họ nhận ra rằng cách tốt nhất để đánh bại chế độ đương nhiệm là thành lập một liên minh. Hai ông Kim đã đi xa đến mức thành lập Đảng Dân chủ Tái-Thống nhất trong 1987 để tranh đua các cuộc bầu cử tổng thống và lập pháp. Tuy vậy, liên minh đã chết yểu. Trong tháng Mười 1987, chỉ vài tháng trước cuộc bầu cử tổng thống sáng lập, Kim Dae-jung rời bỏ để thành lập Đảng Dân chủ Hòa bình. Như Chun và Roh đã dự đoán—và có lẽ đã cầu nguyện—sự chia rẽ đối lập.
Việc lãnh đạo quá trình chuyển đổi dân chủ, như Roh đã làm trong 1987, không chỉ đã cho chế độ đương nhiệm các quyền lực để định hình quá trình cải cách với các lợi thế của nó; nó đã cho phép chế độ để miêu tả bản thân mình như đảng cải cách và như một đảng chính trị được cải cách. Hãy nhớ lại rằng ở Đài Loan, Tưởng Kinh Quốc đã miêu tả bản thân ông và QDĐ như các nhà cải cách chính trị đáng tin cậy bằng việc khởi xướng chuyển đổi dân chủ. Các chính trị gia bảo thủ ở Nhật Bản đã theo đuổi một chiến lược tương tự, dựa vào các lý tưởng dân chủ trước chiến tranh của họ và tích cực soạn thảo hiến pháp sau chiến tranh với các lãnh đạo Mỹ chiếm đóng. Roh tương tự đã được lợi về mặt chính trị bằng việc thừa nhận chuyển đổi dân chủ một cách phòng ngừa, trung hòa sự chia tách chính trị then chốt của đối lập.
Theo liền sau tuyên bố 29 tháng Sáu, Roh đã xức dầu thánh bản thân ông như nhà vô địch dân chủ hóa, bất chấp sự lưỡng lự ban đầu của ông để bắt tay vào cải cách chính trị. Ông bắt đầu ngay lập tức để giành lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ, nhà bảo trợ địa-chính và đối tác kinh tế quốc tế quan trọng nhất của Hàn Quốc. Trong tháng Chín 1987, trong một chuyến đi được ca ngợi nhiều đến Hoa Kỳ, Roh đã cam đoan với Tổng thống Reagan rằng Hàn Quốc đang trên một con đường không thể đảo ngược được tới nền dân chủ. Ông thậm chí đã cam đoan với tổng thống một sự chuyển giao quyền lực yên bình trong sự kiện hoặc Roh hay DJP bị đánh bại trong các cuộc bầu cử sắp tới. Roh đã—hay chí ít ông được cho là—sẵn sàng không chỉ thừa nhận dân chủ mà cũng để thừa nhận thất bại (bầu cử).
Tóm lại, tuy đã không tự tin gần như QDĐ đã tự tin về các triển vọng dân chủ của nó ở Đài Loan, Roh đã khởi xướng chuyển đổi dân chủ ở Hàn Quốc với một độ tự tin khá lớn rằng ông và đảng đương nhiệm có thể chí ít sống sót qua sự chuyển đổi, và rằng thậm chí đã có một kịch bản khả dĩ trong đó DJP có thể phát đạt và giữ quyền lực mà không có sự gián đoạn. Một nền kinh tế tăng trưởng, một hệ thống bầu cử có lợi cho đảng đương nhiệm, khả năng lớn là đối lập sẽ phân mảnh, và sự tín nhiệm đến với việc khởi xướng cải cách dân chủ tất cả đều là các nguồn của sự tự tin rằng việc thừa nhận dân chủ là một rủi ro đáng chấp nhận.
Cuộc đánh bạc đã mang lại kết quả hậu hĩ cho Roh và đảng DJP. Roh đã thắng cuộc bầu cử tổng thống 1987 với một đa số thường của sự ủng hộ, giành được 36 phần trăm phiếu phổ thông. Kim Young-sam đứng thứ hai với 28 phần trăm, và Kim Dae-jung theo sau với 27 phần trăm phiếu toàn quốc. Như Roh và Chun đã đoán trước, hai ông Kim rốt cuộc đã chia tách phiếu đối lập dọc theo các cơ sở khu vực của sự ủng hộ dân chúng. Phần phiếu kết hợp của họ lẽ ra đã dẫn đến một đa số rõ ràng cho đối lập, củng cố quan niệm rằng giả như hai ông Kim đã thống nhất cơ sở ủng hộ của họ, Roh lẽ ra đã bị đánh bại trong cuộc bầu cử tổng thống.
Các cuộc bầu cử Quốc Hội kể một câu chuyện tương tự. DJP giành được 34 phần trăm phiếu phổ thông, nhưng bởi vì các quy tắc phân bổ bị lệch cho các ghế đại diện tỷ lệ, đảng đương nhiệm cuối cùng kiểm soát 125 ghế trong cơ quan lập pháp có 299-thành viên, hay khoảng 42 phần trăm tổng số ghế. Đảng Dân chủ Hòa bình của Kim Dae-jung giành được 71 ghế (hay 24 phần trăm của cơ quan lập pháp), và Đảng Dân chủ Tái-Thống nhất của Kim Young-sam kiểm soát 59 ghế (20 phần trăm). Một đảng thứ tư và mới, Đảng Dân chủ Cộng hòa Mới, được 35 ghế. Mặc dù phần ghế lập pháp của đảng cầm quyền đương nhiệm đã không đủ một đa số, DJP đã vẫn là đảng lớn nhất trong Quốc Hội. Nói cách khác, mặc dù đảng độc đoán cầm quyền trước kia đã chịu một cú đòn trong các cuộc bầu cử dân chủ 1988, nó “đã không từ bỏ” quyền lực chính trị.32
Trở thành một nền Dân chủ Bình thường
Roh quan sát trong đầu năm 1988, “Có một cơn gió thay đổi mạnh đang thổi qua đất nước.” Lặp lại Tưởng ở Đài Loan, mà tương tự nhận thấy “thời thế đã thay đổi” đến thế nào, Roh tuyên bố, “Chúng ta sẽ có một kỷ nguyên dân chủ trưởng thành” ở Hàn Quốc.33 Roh và Tưởng chia sẻ nhiều điểm tương đồng của họ liên quan đến việc mở ra nền dân chủ. Các quyết định của họ để thừa nhận dân chủ là kết quả của các quá trình dài hơn của sự biến đổi kiến tạo-phát triển ở Hàn Quốc và Đài Loan. Roh và Tưởng bản thân họ đã không là các nhà dân chủ tận tâm, nhưng nền dân chủ đã phục vụ các lợi ích của họ và của các đảng cầm quyền của họ nữa.
Các thập niên phát triển kinh tế dưới sự cai trị độc đoán cuối cùng đã dựng sân khấu cho sự chuyển đổi dân chủ do bảo thủ-lãnh đạo. Mô hình tăng trưởng do nhà nước-lãnh đạo của họ đã biến đổi các xã hội của họ, tạo ra các công dân đòi cải cách chính trị. Vào giữa-các năm 1980, hai chế độ nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển nhận ra rằng bất chấp việc đã dựa vào tính chính danh thành tích kinh tế để duy trì sự cai trị độc đoán của chúng, các chế độ đã vượt qua đỉnh điểm quyền lực của chúng và đã bước vào vùng buồn vui lẫn lộn. Nếu từng có một thời gian tốt cho đảng độc đoán để thừa nhận dân chủ, từ quan điểm của chế độ đương nhiệm, thì là thời gian này.
Mặc dù những kinh nghiệm Hàn quốc và Đài Loan có nhiểu điểm tương đồng, chúng là không giống hệt nhau. Như chúng tôi lập luận trong chương trước, Đài Loan là trường hợp mẫu mực về dân chủ qua sức mạnh. Khi QDĐ bắt đầu cải cách dân chủ, nó đã ở trong vị thế mạnh hơn DJP ở Hàn Quốc rất nhiều. Tại Đài Loan, các nhà hoạt động đối lập đã huy động chống lại QDĐ, nhưng không gần với mức độ, về mặt cả độ lớn và quy mô, mà chúng ta thấy ở Hàn Quốc trong các năm 1980. Sự ủng hộ cử tri của QDĐ đã giảm sút trong các năm 1980, nhưng không dốc đứng như DJP đã trải nghiệm ở Hàn Quốc. Nói cách khác, chế độ đương nhiệm ở Hàn Quốc đã mạnh khi Chun và Roh chung sức để thừa nhận dân chủ trong 1987, mặc dù không gần mạnh như QDĐ ở Đài Loan khi Tưởng bắt đầu cải cách dân chủ ở đó.
Trong lý thuyết của chúng tôi về dân chủ qua sức mạnh, chúng tôi rất chú ý đến những sự khác biệt như vậy, lưu ý rằng các chế độ độc đoán đương nhiệm dàn hàng ngang trên một phổ sức mạnh. Như chúng tôi cho thấy trong chương trước, trong giữa-các năm 1980, QDĐ đã vừa vượt qua đỉnh điểm quyền lực của nó và vừa bước vào vùng buồn vui lẫn lộn, còn DJP đã ở xa hơn nhiều rồi dọc theo sự sa sút của nó vào vùng buồn vui lẫn lộn. Sự khác biệt giữa QDĐ và DJP và các sức mạnh tương ứng của chúng đã không rõ ràng nhất trong thành tích bầu cử của hai đảng đương nhiệm trong thời gian dẫn tới chuyển đổi dân chủ. Trong khi đó sự được lòng cử tri của DJP đã giảm tới mức nơi nó đã thường xuyên chỉ được không nhiều hơn một phần ba tổng số phiếu bàu, QDĐ đã tiếp tục giành được đa số phiếu trong các cuộc tranh đua bầu cử ngay đến tận thời điểm thừa nhận dân chủ.
Tuy nhiên không giống các chế độ độc đoán bám quyền lực quá lâu, đảng cầm quyền đương nhiệm của Hàn Quốc đã không va mạnh qua vùng buồn vui lẫn lộn hoàn toàn. Đúng như tình hình của DJP ở Hàn Quốc trong 1987 đã không hệt như của QDĐ ở Đài Loan, nó đã không tương tự như sự sụp đổ của chế độ Marcos ở Philippines. Đúng hơn, DJP đã vẫn đủ mạnh mẽ để sống sót một sự chuyển đổi dân chủ, mặc dù các triển vọng của nó trong nền dân chủ đã không chắc chắn hơn so với QDĐ. Trong khi đó QDĐ đã đi từ một đảng độc đoán rất mạnh đến trở thành một Đảng Dân chủ thống trị ngang thế—đi từ sức mạnh đến sức mạnh—DJP đã chuyển đổi từ một đảng độc đoán cầm quyền tương đối mạnh nhưng đang yếu đi thành một đảng chính trị dân chủ bấp bênh nhưng vẫn cầm quyền.
Như được kỳ vọng, nền dân chủ Hàn quốc đã cập bến trên một nền tảng dễ lung lay hơn nền dân chủ Đài Loan. DJP đương nhiệm đã ở trong một vị thế dễ bị tổn thương sau các cuộc bầu cử tổng thống và lập pháp sáng lập. Nó đã tiếp tục là đảng đảng cầm quyền, mặc dù phần ủng hộ cử tri của nó đã không dứt khoát và sự kiểm soát của nó về các ghế Quốc Hội đã không đạt được một đa số. Tuy nhiên, bằng việc giữ quyền lực chính phủ, DJP đã có cơ hội để trở thành một Đảng Dân chủ bình thường. Cũng vậy, Roh đã có thể trở thành một tổng thống được bàu một cách dân chủ bình thường.
DJP và Roh đã chấp nhận rằng họ cần giành được sự ủng hộ để cai trị và đã không thể còn dựa vào sự đàn áp để giữ quyền lực. Giống QDĐ ở Đài Loan và LDP trước nó ở Nhật Bản, chế độ đương nhiệm ở Hàn Quốc đã làm dịu các lập trường chính trị và kinh tế của nó để mở rộng sự thu hút cử tri của nó và để đứng xa quá khứ độc đoán của nó. Liên quan đến nền kinh tế, chính phủ đã tiếp tục chú tâm đến sự tăng trưởng và phát triển. Sự tăng trưởng kinh tế đã là chìa khóa để giành lại những người ủng hộ tầng lớp-trung lưu mà trước đó đã đào ngũ sang đối lập ủng hộ dân chủ. DJP cũng đã bắt đầu tìm thấy nền tảng của nó như một đảng “bao quát (catch-all)” và, giống LDP và QDĐ, cố tình mởi rộng cơ sở cử tri bằng việc thúc đẩy một chương trình phát triển “tăng trưởng với công bằng” kinh tế. Chính phủ DJP đã mở rộng các sơ đồ bảo hiểm y tế cho những người lao động tự-chủ nông thôn và đô thị trong 1988 và 1989, phổ quát hóa sự tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe. Với áp lực từ dưới lên từ các công đoàn, nó đã cải cách các luật lao động của Hàn Quốc và đã ban hành các chính sách để phát triển khu vực doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa.34
Về mặt chính trị, DJP đã không trở thành một kẻ làm hỏng dân chủ, bất chấp sự khởi động run rảy của đảng cầm quyền đương nhiệm như một chính phủ được bàu một cách dân chủ. DJP đã không đảo ngược cải cách dân chủ, như chúng ta có thể kỳ vọng khi một đảng độc đoán trước kia dễ bị tổn thương, mà đúng hơn đã tiếp tục làm sâu sắc và bình thường hóa các thực hành và các định chế dân chủ ở Hàn Quốc. Nó đã thực hiện tốt cam kết của Roh để thể chế hóa các quy tắc trò chơi dân chủ và tiến thành các thay đổi hiến pháp. Chính phủ đã mở không gian chính trị cho xã hội dân sự và sự phản kháng. Quân đội được đưa dưới sự kiểm soát dân sự. Media được để một mình. Các nhà bất đồng chính kiến đã tự do để huy động, và các đảng đối lập đã tự do để tranh cử.
Quan trọng nhất, DJP—giống LDP ở Nhật Bản và QDĐ ở Đài Loan—đã củng cố quyền lực của nó sau 1987 qua các phương tiện dân chủ ngược với việc quay lại các chiến thuật độc đoán. Thay vì liếm các vết thương của nó và sự tán tỉnh suy thoái dân chủ sau sự trình diễn đáng thất vọng của nó trong các cuộc bầu cử sáng lập của Hàn Quốc, DJP đã cải cách bản thân mình như một Đảng Dân chủ thống trị. Một cách cụ thể, nó đã củng cố quyền lực chính trị của nó như một Đảng Dân chủ khi nó hợp nhất với hai đảng đối lập, kể cả Đảng Dân chủ Tái-Thống nhất của Kim Young-sam, để hình thành Đảng Dân chủ Tự do (DLP) trong 1990. Đảng mới được hình thành đã kiểm soát một siêu đa số ghế Quốc Hội. Trong khi sự hình thành DLP đã củng cố quyền lực chính trị vào một đảng thống trị (dominant), nó đã không phá hoại nền dân chủ.
Làm theo LDP và QDĐ, DLP đã là một đảng thực dụng về ý thức hệ và bao quát vừa phải. Liên minh với Kim Young-sam, một trong những nhà lãnh đạo dân chủ vững chắc nhất của Hàn Quốc kể từ các năm 1970, đã cho DLP sự đáng tin dân chủ giữa các cử tri. Bất chấp sự chỉ trích của nhà lãnh đạo đối lập Kim Dae-jung đối với DLP, mà ban đầu ông xem như một sự tấn công lên nền dân chủ, sự hợp nhất ba đảng trong 1990 đã đẩy nhanh sự củng cố của đối lập. Sau sự hình thành của DLP, Kim Dae-jung đã huy động liên minh Đảng Dân chủ trong 1991, củng cố và ổn định hệ thống hai đảng dân sự mà đã ít nhiều bền chắc, bất chấp những sự thay đổi liên tục về tên của các đảng, trong nền dân chủ của Hàn Quốc từ đó đến giờ. Khi Kim Young-sam của DLP giành được chức tổng thống trong 1992, Hàn Quốc đã bàu một cách dân chủ tổng thống dân sự đầu tiên của nó từ trước đến giờ trong lịch sử sau chiến tranh của đất nước.35 Cái bắt đầu như một thử nghiệm dân chủ nữa có thể đảo ngược được cuối cùng, cho đến ngày này sau vài thập niên, đã tỏ ra là không thể đảo ngược được.
6. Trung Quốc đến 1989
QUÁ YẾU ĐỂ THỪA NHẬN
TRONG NHỮNG GIỜ ĐẦU ngày 4 tháng Sáu 1989, Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đã nổ súng bắn những sinh viên biểu tình, tụ tập mùa xuân đó trên Quảng Trường Thiên An Môn của Bắc Kinh. Sau vài tháng biểu tình ôn hòa, các cuộc tuyệt thực, sự cầu xin để gặp các nhà lãnh đạo ĐCSTQ (Đảng Cộng sản Trung quốc), và đòi cải cách chính trị, chế độ độc đoán đã đáp lại một cách hung dữ, chấm dứt phong trào dân chủ của Trung Quốc. Các học giả ước lượng rằng hàng trăm, có lẽ hàng ngàn sinh viên và các đồng minh của họ đã bị giết trong cuộc đàn áp. Hàng ngàn người đã bị thương, và vài ngàn người nữa đã bị bắt. Nhiều nhà bất đồng chính kiến đã trốn khỏi đất nước, thoát khỏi chế độ và từ bỏ những cố gắng của họ để xây dựng một Trung Quốc dân chủ từ bên trong. Bất chấp làn sóng chuyển đổi dân chủ xảy ra quanh thế giới lúc đó—nhất là trong thế giới cộng sản—ĐCSTQ đã chọn chống lại nền dân chủ.
Các cuộc biểu tình và cuộc đàn áp 1989 đã không phải là sự bắt đầu cũng chẳng phải là sự kết thúc cuộc đấu tranh dân chủ của xã hội Trung quốc. Thảm kịch Quảng Trường Thiên An Môn chặn một xung lực dân chủ đã thấm từ lâu vào các giới trí thức và nhà hoạt động Trung quốc. Vào lúc kết thúc triều đại nhà Thanh trong đầu thế kỷ thứ hai mươi, vài thập niên trước khi Trung Quốc bị ĐCSTQ cai trị, các nhà tư tưởng Trung quốc đã mơ rồi về một quốc gia hiện đại và thống nhất, và với giấc mơ đó, sự hứa hẹn về sự phát triển kinh tế và chính trị. Phong trào Văn hóa Mới, một phong trào trí thức và văn học nổi lên trong các năm 1910, đã ca ngợi nghệ thuật tự do và chủ nghĩa thực dụng duy lý. Nó lấy khoa học và dân chủ như các vật tổ tượng trưng của nó. Trong phong trào Ngũ Tứ (ngày 4 tháng Năm) 1919, các trí thức Trung quốc đã hình dung một Trung Quốc tự-lực hơn, hùng mạnh hơn, và dân chủ hơn.
Phong trào Báo Tường Dân chủ Bắc Kinh 1978 đã gieo lại các hạt giống của hoạt động dân chủ ở Trung Quốc cộng sản, chỉ để bị ĐCSTQ quét sạch nhanh chóng. Các cuộc biểu tình sinh viên toàn quốc lại đã nổ ra trong cuối 1986, kêu gọi cải cách chính trị sau khi Trung Quốc bắt đầu tiến trình hiện đại hóa kinh tế của nó dưới Đặng Tiểu Bình. Cả hai cuộc đó đã bị chế độ ĐCSTQ trấn áp.
Kể từ 1978, khi Trung Quốc mở cửa đầu tiên cho thương mại quốc tế và thực hiện các cải cách tự do hóa kinh tế, đất nước ở trên một con đường trở thành gã khổng lồ kinh tế hiện đại mà các nhà dân tộc chủ nghĩa Trung quốc đã hình dung từ lâu. Tuy nhiên thật nghịch lý, sự biến đổi kinh tế chưa từng có của Trung Quốc đã được chủ trì bởi một đảng cầm quyền vẫn kiên định chống-dân chủ. Mặc dù ý tưởng về nền dân chủ đã không mới cũng chẳng xa lạ giữa các nhà tư tưởng và các nhà hoạt động Trung quốc, bạo lực tàn bạo của cuộc đàn áp 4 tháng Sáu tuy nhiên đã có tính quyết định, giáng một đòn cuối cùng vào các triển vọng dân chủ ở Trung Quốc trong các thập niên sắp tới. Như sử gia Jonathan Spence than vãn trong các trang cuối của The Search for Modern China (Tìm kiếm Trung Quốc Hiện đại), ĐCSTQ “mà đã lên nắm quyền bốn mươi năm trước bằng việc thách thức tất cả các chuẩn mực xã hội, chính trị và kinh tế hiện có, bây giờ lại dường như không có mục đích nào trừ đảm bảo rằng bản thân nó không đối mặt với các thách thức như vậy.”1 Đã là rõ trong 1989 rằng ĐCSTQ không quan tâm đến việc dẫn dắt sự biến đổi dân chủ.
Ngoài cảnh tượng bi thảm về cuộc đàn áp 4 tháng Sáu, các sự kiện 1989 cũng để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa lên những người quan sát Trung Quốc nghĩ thế nào về các triển vọng dân chủ ở Vương quốc Trung tâm (Trung Quốc). Một cách cụ thể, các sự kiện 1989 và sự kháng cự của chế độ với nền dân chủ đã truyền một kỳ vọng rộng rãi rằng nền dân chủ ở Trung Quốc sẽ chỉ xảy ra khi khi đảng cầm quyền yếu; nói đơn giản, nền dân chủ chỉ có thể nổi lên từ đống tro tàn của sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ.
Chính với các hình ảnh về dân chủ hóa đang quay cuồng khắp toàn cầu trong cuối các năm 1980 và đầu các năm 1990, viễn cảnh “thuyết sụp đổ” này có ý nghĩa hoàn hảo. Các chế độ cộng sản đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu bởi vì sự yếu kém chế độ. Nếu chủ nghĩa cộng sản Trung quốc đã sống sót còn các chế độ cộng sản khác đã chết, chỉ có thể bởi vì ĐCSTQ đã mạnh hơn các đối tác cộng sản đã sụp đổ của nó.2 Được bênh vực bởi tính chính danh dân tộc chủ nghĩa từ cuộc cách mạng cây nhà lá vườn thành công của nó và các hạt giống của tính chính danh thành tích từ một thập niên hứa hẹn cải cách kinh tế—các sức mạnh mà khối Soviet rõ ràng đã thiếu—Trung Quốc quả thực đã ít dễ bị sụp đổ hơn nhiều chế độ cộng sản khác, như Quảng Trường Thiên An Môn đã chứng tỏ một cách đau đớn.3
Tuy nhiên như các chương trước về Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc đã cho thấy, sức mạnh độc đoán không khiến cho dân chủ hóa là không thể, hay thậm chí nhất thiết không đáng mong muốn cho những người đương nhiệm độc đoán. Các chế độ mạnh có thể không sụp đổ, nhưng chúng có thể thừa nhận. Nền dân chủ là có thể khi một chế độ độc đoán là mạnh hay yếu. Trong lý thuyết của chúng tôi, dân chủ hóa có khả năng hơn để ổn định một nước khi một chế độ độc đoán là mạnh, không phải yếu, và khi nó đã có sức mạnh tổ chức và đã tạo ra tính chính danh thành tích giữa các công dân và các cử tri tương lai của nó để sắp xếp một sự chuyển đổi dân chủ trong đó nó vẫn là một đảng chính trị xuất chúng.
So sánh Trung Quốc với các láng giềng nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó như thế đem lại một bài học rất khác với việc so sánh nó với các anh em họ Soviet và được Soviet-hậu thuẫn xa lắc của nó. Viễn cảnh so sánh là quan trọng trong những kết luận chúng ta rút ra. Từ quan điểm của chúng ta, ĐCSTQ đã tránh chuyển đổi dân chủ trong mùa hè 1989 không chỉ bởi vì nó đã quá mạnh để sụp đổ mà cũng bởi vì nó đã quá yếu để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh. Nó đã thiếu sự tự tin rằng nó có thể thừa nhận dân chủ và phát đạt, như được thấy trong ba chương trước về Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc. Bất chấp sự sẵn sàng của chế độ để dùng bạo lực trong 1989 để đàn áp những người biểu tình, tiết lộ các công cụ lỗ mãng và tàn bạo của chủ nghĩa độc đoán, ĐCSTQ đã vẫn chưa tạo được tính chính danh được lòng dân hay tích lũy được các sức mạnh có trước để thừa nhận cải cách chính trị với sự tự tin. Trong ngôn ngữ lý thuyết của chúng tôi, đảng đã thiếu sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định trong 1989 rằng về mặt chính trị nó có thể sống qua nền dân chủ và rằng Trung Quốc sẽ vẫn duy trì sự ổn định cần thiết để tiếp tục sự biến đổi kinh tế nhanh của nó.
Chương này kể về sự phát triển chính trị và kinh tế Trung quốc từ cách mạng cộng sản suốt đến cuối các năm 1980. Sự tường thuật chấm dứt trong 1989 để nhấn mạnh sự thiếu tương đối của chế độ về sức mạnh và sự tự tin có trước vào lúc đó để thừa nhận dân chủ, không giống ba láng giềng Đông Á của nó vừa được thảo luận. Luận đề của chúng tôi là dân chủ qua sức mạnh đã vẫn chưa sẵn có về mặt lịch sử cho ĐCSTQ như một lựa chọn khả thi vào 1989; nhưng ngày nay, như chúng tôi tranh luận trong chương 9, sau hàng thập niên là thành viên thành công của châu Á kiến tạo-phát triển, Trung Quốc có thể dân chủ hóa với sự tự tin theo một cách tương tự như dân chủ hóa của các tiền bối dân chủ của nó ở Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc.
Bằng việc chấm dứt sự tường thuật trong 1989, chương này lịch sử hóa đúng đắn sự cất cánh phát triển của Trung Quốc và vai trò của ĐCSTQ trong việc lãnh đạo sự phát triển đó. Do sự biến đổi xuất sắc của Trung Quốc kể từ đó và sự lên địa vị siêu cường của nó, có thể là khó về mặt lịch sử để ngữ cảnh hóa sự kém-phát triển và sự yếu kém của đảng trong 1989, hơn ba thập niên trước. Người ta rất có thể bị cám dỗ, một cách có thể hiểu được, để đánh giá quá sức mạnh của Trung Quốc và sức mạnh của đảng cầm quyền trong 1989 bởi vì sức mạnh của chúng ngày nay.
Sự thực, tuy vậy, là GDP trên đầu người ở Trung Quốc ngày nay trên US$10.000, trong 1989 nó đã chỉ khoảng $300. Nền kinh tế trong 1989 đã vẫn chủ yếu là một nền kinh tế nông dân và không phải trung tâm công nghiệp toàn cầu mà nó là ngày nay. Chế độ hiện tại có vẻ đáng sợ, về mặt chính trị và kinh tế, còn trong các năm 1980, ĐCSTQ đã chỉ vừa nổi lên từ sự hỗn loạn và sự tàn phá của Cách mạng Văn hóa một thập niên trước. Sự trị vì và rồi cái chết của Mao Trạch Đông trong cuối các năm 1970 đã tiếp tục chia rẽ đảng cầm quyền, và như chúng tôi cho thấy trong chương này, ĐCSTQ còn xa mới là một tác nhân thống nhất trong các cuộc biểu tình Quảng Trường Thiên An Môn 1989. Nói cách khác, chế độ chắc chắn đang thu thập sức mạnh trong các năm 1980, nhưng nó đã không tích lũy đủ sức mạnh để thừa nhận dân chủ với sự tự tin.
Điều này biện hộ một sự diễn giải mới về sự phát triển chính trị và các triển vọng dân chủ hóa của Trung Quốc kể từ Thiên An Môn, mà chúng tôi thực hiện trong chương 9 về chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển. Các nhà quan sát Trung Quốc hy vọng cho dân chủ hóa từ lâu đã tự hỏi, và đã hỏi lặp đi lặp lại, Khi nào ĐCSTQ sẽ trở nên yếu đến mức nó sụp đổ hoàn toàn? Theo logic ngầm định trong câu hỏi này, ĐCSTQ trở nên mạnh hơn, thì dân chủ hóa sẽ ít có khả năng hơn để đến Trung Quốc. Nhưng nếu nền dân chủ ở châu Á kiến tạo-phát triển nảy sinh qua sức mạnh thường xuyên hơn qua sự yếu kém, câu hỏi xác đáng trở thành, Khi nào ĐCSTQ sẽ trở nên đủ mạnh để nó có thể thừa nhận dân chủ một cách tự tin? Nói cách khác, ba mươi năm thành công phát triển có thể làm cho dân chủ hóa ở Trung Quốc là một triển vọng gần hơn chứ không phải ngày càng xa hơn.
Như phần còn lại của chương này cho thấy, khi so với các chế độ nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển được khảo sát trong các chương 4 và 5, chúng đều đối mặt với các áp lực dân chủ hóa trong các năm 1980 cùng với Trung Quốc, ĐCSTQ đã là yếu nhất trong số chúng. Quốc Dân Đảng (QDĐ), chúng tôi lập luận, đã trong vị trí mạnh nhất khi Đài Loan bắt đầu dân chủ hóa trong cuối các năm 1980. Đảng Công lý Dân chủ (DJP) ở Hàn Quốc đã ít mạnh hơn về mặt chính trị và đối mặt với một đối lập lớn hơn đáng kể, mặc dù đảng cầm quyền đương nhiệm đã có đủ các sức mạnh được tích lũy mà nó đặt cược một cách hợp lý nền dân chủ sẽ cho đảng một cuộc sống mới. Đài Loan và Hàn Quốc thừa nhận cải cách dân chủ, chúng tôi lập luận, chính xác bởi vì các chế độ đương nhiệm đã đủ mạnh, và tương đối mạnh hơn ĐCSTQ. Thật trớ trêu, mặc dù không phải không thể giải thích được theo lý thuyết của chúng tôi về dân chủ qua sức mạnh, chế độ độc đoán yếu nhất trong số chúng đã là chế độ cưỡng lại nền dân chủ. Phần còn lại của chương này giải thích vì sao.
* Tức là ai được nhiều phiếu nhất (plurality) chứ không phải đa số (majority >50% phiếu) sẽ thắng. Về các hệ thống bầu cử khác nhau xem thêm L. Diamond & M. F. Plattner, Các hệ thống bầu cử trên thế giới, Book Hunter, NXB Đà Nẵng 2022.
https://vandoanviet.blogspot.com/2024/12/tu-phat-trien-en-dan-chu-su-bien-oi-cua_01510977555.html
Không có nhận xét nào