06/12/2024
Không ai từng nhận được nhiều đề cử cho Giải Nobel Hòa bình hơn Carl von Ossietzky. Đây là câu chuyện của ông ấy. [1]
Lần đầu tiên Carl von Ossietzky đi tù, một đám đông người ủng hộ đã cổ vũ ông. Đó là một ngày thứ Ba đầy nắng của tháng 5 năm 1932. Một số người bạn đã hộ tống nhà báo đi xuyên qua Berlin. Họ buộc các dải băng giấy màu đen, đỏ và vàng vào ô tô của mình và khởi hành từ các văn phòng phía tây của tạp chí thiên tả Die Weltbühne (The World Stage), tạp chí mà Ossietzky biên tập. Khi họ diễu hành chậm rãi về phía Nhà tù Tegel, ở phía bắc thành phố, màu sắc của Cộng hòa Đức tung bay xung quanh họ trong các tuyến giao thông.
Trong khu rừng bên ngoài cổng chính của nhà tù, khoảng 100 trí thức nổi tiếng, các nhà báo đồng cảm và những người có thiện chí đã tập trung. Đám đông đã vi phạm lệnh cấm tụ tập nhóm lớn của Berlin, được ban hành để dập tắt bạo lực giữa những kẻ cực đoan ở cánh tả và cánh hữu của Đức, nhưng nhà văn Kurt Grossman, thư ký của Liên đoàn Nhân quyền Đức, một tổ chức theo chủ nghĩa hòa bình mà Ossietzky là thành viên, đã thuyết phục được cảnh sát để tuần tra tránh xa khu vực này trong 90 phút. Ossietzky có thể dành thời gian chào tạm biệt những người ủng hộ của mình. “Tôi không đầu hàng,” ông nói. Ông khẳng định, trong tù, ông sẽ “vẫn là một cuộc biểu tình sống động chống lại phán quyết của tòa án cao nhất”.
Mười bốn tháng trước đó, biên tập viên 42 tuổi nầy đã bị buộc tội phản quốc vì đã xuất bản một bài báo về những nỗ lực tái vũ trang của Không quân Đức, vi phạm Hiệp ước Versailles. Hiệp ước cấm Đức tích lũy trang thiết bị chiến tranh hoặc duy trì nhiều hơn một quân đội nhỏ theo định hướng phòng thủ. Sự thật về việc tái vũ trang không được biết đến rộng rãi trong công chúng cho đến khi bài báo từ tạp chí Die Weltbühne được đăng tải. Ngược lại, quân đội cáo buộc cả biên tập viên Ossietzky và tác giả bài báo, Walter Kreiser, cho rằng họ phản bội đất nước.
Số lượng phát hành của tạp chí Die Weltbühne ít nhưng lượng độc giả của nó có sức ảnh hưởng lớn; điều này bao gồm các nhà lãnh đạo tư tưởng về chính trị và văn hóa cả ở Đức và bên ngoài biên giới nước này. Trước sự phản đối kịch liệt của quốc tế, Bộ Ngoại giao Đức bày tỏ nghi ngờ về việc truy tố hai nhà báo, nhưng luật sư bang vẫn tiến hành một phiên tòa kín. Trong hai ngày, Ossietzky và Kreiser ngồi cạnh nhau trong một phòng trưng bày rộng lớn trống trải, lắng nghe tiếng vọng của những giọng nói cạnh tranh của các luật sư. Ossietzky sau này đã viết: “Thật kỳ lạ, một nhà hát lại không có khán giả như vậy”. Hai nhà báo cuối cùng bị kết án với tội danh nhẹ hơn - công bố bí mật quân sự - và bị kết án 18 tháng tù. Họ được gia hạn đến đầu tháng 5 năm 1932 để tự trình diện với chính quyền. Kreiser trốn khỏi Đức để tránh thời gian ở tù. Ossietzky đã quyết định ở lại.
Ossi, như tên bạn bè vẫn gọi ông, là một người đàn ông nhỏ nhắn, trầm lặng, có vầng trán cao, chiếc mũi dài hẹp và đôi môi mỏng như dao. Khuôn mặt nổi bật của ông khiến ông dễ bị biếm họa, và báo chí thường làm điều đó. Ông ta có xu hướng nhìn xuống sàn trong cuộc trò chuyện bình thường, cầm điếu thuốc đang cháy giữa những ngón tay lắc nhẹ. Sự dè dặt của ông, cùng với chữ “von” trong họ của ông, theo truyền thống là dấu hiệu của dòng dõi quý tộc, khiến người lạ nhầm ông với một quý tộc. Nhưng Ossietzky xuất thân từ một khu dân cư thuộc tầng lớp lao động ở Hamburg. Ông chưa học hết cấp hai và sau đó làm việc bơ phờ với tư cách là thư ký trong cơ quan quản lý tư pháp của Hamburg cho đến năm 1914. Kinh nghiệm phục vụ trong Đại chiến đã củng cố cam kết của ông đối với hòa bình và khơi dậy niềm yêu thích viết lách của ông. Ông chuyển đến Berlin vào năm 1919, nơi ông trở thành thư ký của Hiệp hội Hòa bình Đức và được ca ngợi với tư cách là một nhà bình luận chính trị lập luận chống lại chủ nghĩa quân phiệt và ủng hộ dân chủ.
Ông tin rằng các nhà báo phải “nắm gương soi thời đại” và là “lương tâm của thời đại”. Hết tuần này sang tuần khác, Ossietzky cho ra đời những bài báo tràn đầy năng lượng. Đồng nghiệp của ông, Rudolf Arnheim từng nói rằng Ossietzky có thể khiến ngay cả những độc giả phi chính trị nhất quan tâm đến số phận của đất nước bởi vì “ông diễn tả những suy nghĩ của mình không dùng những từ to và dị biệt mà bằng một ngôn ngữ mà người ta thường dùng hàng ngày để mô tả hoa, âm nhạc và phụ nữ”. Các bài viết của Ossietzky là bài viết của người ủng hộ một nền dân chủ non trẻ bị các phe phái chính trị ngày càng cực đoan kéo dài đến mức tan vỡ. Ông không muốn nền cộng hòa non trẻ chết dưới sự canh gác của ông.
Sau khi Ossietzky tiếp quản tạp chí Die Weltbühne vào năm 1927, ông đã dành nhiều thời gian làm việc trong tình trạng chỉ mặc áo sơ mi giữa đống giấy tờ lộn xộn tại văn phòng tạp chí. Ông là kiểu biên tập viên thích dùng bút chì để đề nghị sửa đổi trong các bài báo hơn là dùng bút đỏ. Ông luôn nhớ mua bia và xúc xích cho những người làm việc để in tờ báo. Dưới sự lãnh đạo của ông, tạp chí Die Weltbühne đã xuất bản các tác phẩm từ khắp cánh tả chính trị, một sự thật khiến những người ủng hộ tạp chí cánh tả nầy bực tức, vì họ mong muốn ông theo đuổi một đường lối thiên tả cực đoan hơn. Tạp chí đã dần dần trở thành một diễn đàn cần thiết dù đơn độc đối với những người không liên kết chặt chẽ với các đảng công nhân hàng đầu của Đức.
Một chủ đề thảo luận thường xuyên trên các trang của tạp chí là chủ nghĩa quân phiệt của Đức, một tội lỗi nguyên thủy đã đưa đất nước vào cuộc Đại chiến và mở đường cho chủ nghĩa phát xít mới chớm nở. Điều này đã nhiều lần khiến nhà xuất bản gặp rắc rối với chính quyền. Trước phiên tòa xét xử Ossietzky năm 1931, tạp chí Die Weltbühne đã phải đối mặt với một vụ kiện về việc đưa tin về Schwarze Reichswehr, một nhóm bán quân sự cánh hữu đã tự nắm luật pháp vào tay họ để thực hiện nhiều vụ giết người cảnh cáo vào đầu những năm 1920. Các bài báo của tạp chí đã gây áp lực buộc Bộ Tư pháp Đức phải truy tố những kẻ giết người và vạch trần việc làm của quân đội, vốn đã phủ nhận sự tồn tại của các nhóm vũ trang ngầm ngay cả khi quân đội ngầm ủng hộ các hoạt động của họ. Sau đó, quân đội nhất quyết đưa ra một cáo buộc khác chống lại tạp chí Die Weltbühne, lần này là vì đã xuất bản một bài bình luận cho rằng “quân đội gồm cả những kẻ sát nhân”.
Các điều khoản trừng phạt Ossietzky vì tội công bố bí mật quân sự đã khiến bạn bè và những người ngưỡng mộ ông choáng váng. Những người bị kết tội phạm chính trị cấp cao ở Đức thường bị tù với một hình thức giam cầm thoải mái hơn. Đó là trường hợp của Adolf Hitler sau cuộc đảo chính ở quán bia năm 1923; trong khi bị giam giữ, Hitler vẫn được phép tiếp khách, và chính trong thời gian đó ông ta đã viết cuốn Mein Kampf. Tuy nhiên, tòa án đã ra lệnh cho Ossietzky thụ án trong một nhà tù chung cùng với những tên trộm và kẻ giết người. Công lý, nhiều người ở cánh tả của Đức càu nhàu, chỉ bị mù mắt phải.
Ossietzky nhấn mạnh rằng bản án của ông phù hợp với các nguyên tắc nghề nghiệp của ông. Ông từng viết: “Họ có thể lên án chúng tôi, hôm nay, ngày mai, ngày kia, [và] chúng tôi sẽ chấp nhận điều đó”. “Nhưng niềm tin của chúng tôi sẽ … trở nên mạnh mẽ hơn, sắc bén hơn, dày đặc hơn và cứng rắn hơn. Đó là lý do tại sao chúng tôi là nhà báo.” Lập trường của ông đã truyền cảm hứng cho các thành viên báo chí.
Mặc dù đó không phải là mục tiêu của ông, nhưng bằng cách giám sát việc đưa tin về chủ nghĩa quân phiệt của Đức và đối mặt với sự phán xét về nó, Ossietzky cũng trở thành biểu tượng cho phong trào hòa bình ở Đức — và cho những người phản đối chủ nghĩa phát xít. Ông nói với một cộng tác viên của tạp chí Die Weltbühne: “Nếu bạn muốn chiến đấu hiệu quả chống lại tinh thần thối nát của một quốc gia, bạn phải chia sẻ số phận của của quốc gia thối nát ấy.”
Ngày Ossietzky trình diện để nhận bản án tù của mình, ông đã đưa ra lời hứa cuối cùng: Khi bạn bè gặp lại ông, ông sẽ “được thả nhưng không thay đổi gì cả”. Mũ trong tay, ông vẫy tay chào đám đông và để mình bị nuốt chửng bởi những bức tường gạch đỏ của nhà tù.
Phòng giam mới được sơn lại với sàn đá khiến Ossietzky nhớ đến một phòng tắm. Thức ăn nhà tù cung cấp cho ông rất ít ỏi. Ông ta cần sự cho phép của bác sĩ để hút thuốc và bị giới hạn 10 điếu thuốc mỗi ngày. Nhưng tình hình không quá khủng khiếp, ông nói với vợ mình, Maud. Ít nhất ông ấy có thể đọc và viết. Ossietzky đã viết vô số lá thư cho những người ủng hộ và những người đóng góp cho tạp chí Die Weltbühne. Ông ta soạn thảo các bài báo, được một trong những luật sư của ông ta lén đưa ra khỏi nhà tù Tegel, được xuất bản dưới bút danh Thomas Murner. Và ông viết cho Maud với hàng chục yêu cầu nhỏ: sách, xà phòng, dao cạo râu, dây giày, khăn tay, đồ lót. Đôi khi ông ấy xin giấy, lần khác xin phong bì.
Maud, một phụ nữ Anh-Ấn nhỏ bé với đôi mắt nâu to tròn, không có khả năng nhạy bén với việc làm của ông. Cô đã chuyển nhiều yêu cầu của Ossietzky cho người quản lý hoạt động cộc cằn nhưng hiệu quả của tạp chí, Hedwig Hünicke, người mà một nhân viên gọi với cả tình yêu và nỗi sợ hãi như nhau là “một nhân vật đáng gờm và thiết yếu” trong hoạt động của tờ báo.
Tạp chí Die Weltbühne vẫn tiến lên phía trước nhờ Hünicke và Hellmut von Gerlach, bạn thân của Ossietzky và là đồng nghiệp lâu năm trong phong trào hòa bình. Gerlach khoảng sáu mươi tuổi, có chòm râu dê màu xám và có khiếu hài hước trẻ con. Các bài xã luận hàng tuần của ông đã dựa trên kinh nghiệm phong phú của ông với tư cách là một nhà báo, một cựu chính trị gia và là chủ tịch hiện tại của Liên đoàn Nhân quyền Đức. Gerlach giám sát việc sản xuất 42 số tạp chí khi Ossietzky vắng mặt, xuất bản tác phẩm của hàng chục cộng tác viên nam nổi tiếng và một số phụ nữ, những người viết dưới bút danh nam.
Người bạn đồng hành trẻ hơn hàng thập kỷ của Gerlach, Milly Zirker, là một trong những người phụ nữ đó. Zirker thời trang làm biên tập viên cho tờ nhật báo “8 Uhr Abendblatt” và viết bài bình luận chính trị cho tạp chí Die Weltbühne dưới cái tên Johannes Bückler. Theo Gerlach, Zirker là người cứng rắn cũng như lời nói; cô được cho là đã cứu mạng ông một lần trong một cuộc biểu tình phản chiến trở nên bạo lực. Hilde Walter là một cộng tác viên nghiêm túc khác của tạp chí Die Weltbühne, người đã viết các bài báo về các vấn đề công đoàn và phụ nữ. Bạn bè mô tả Walter là người quyết đoán và kiên định, nhưng không tham vọng hay viển vông; đôi khi thô lỗ nhưng luôn trung thực.
Ngoài việc tiếp tục xuất bản, tạp chí Die Weltbühne còn hỗ trợ Liên đoàn Nhân quyền Đức và chi nhánh Câu lạc bộ PEN ở Đức thu thập 42.036 chữ ký ủng hộ việc giảm án cho Ossietzky. Đơn thỉnh cầu thất bại, nhưng dù sao thì Ossietzky cũng được trả tự do sớm như một phần của lệnh ân xá hàng loạt được thông qua quốc hội bởi một liên minh bất thường gồm các đại diện từ các Đảng Quốc xã, Cộng sản và Đảng Dân chủ Xã hội. Ossietzky rời nhà tù Tegel vào ngày 22 tháng 12 năm 1932, sau 7 tháng 12 ngày sau song sắt. Ông ấy sẽ không được tự do lâu đâu.
Nguồn:
1. Kate McQueen. The Journalist Who the Nazis Could Not Silence. November 2024; Available from: https://longreads.com/2024/12/05/carl-von-ossietzky-journalism-nazi-germany/.
Không có nhận xét nào