Header Ads

  • Breaking News

    Trung Quốc sẵn sàng cho chiến tranh đến mức nào?

    Phần 1

    Nguồn: Michael Beckley và Hal Brands, “How Primed for War Is China?,” Foreign Policy, 04/02/2024

    Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

    Còn tiếp 1 phần

    21/02/2024

    https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/02/46.-How-Primed-for-War-Is-China-1.jpg

    Rủi ro xung đột đang ở mức báo động đỏ.

    Khả năng Trung Quốc phát động chiến tranh là bao nhiêu? Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong các vấn đề quốc tế ngày nay. Nếu Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự chống lại Đài Loan hoặc một mục tiêu khác ở Tây Thái Bình Dương, kết quả có thể là chiến tranh với Mỹ – một cuộc chiến giữa hai gã khổng lồ sở hữu vũ khí hạt nhân đang tranh giành quyền bá chủ khu vực, và rộng hơn là bá quyền thế giới. Nếu Trung Quốc tấn công trong bối cảnh chiến tranh đang nổ ra ở Ukraine và Trung Đông, thế giới sẽ bị huỷ diệt bởi các cuộc xung đột đan xen trên khắp các khu vực trọng điểm của lục địa Á-Âu, một cuộc xung đột toàn cầu chưa từng có kể từ Thế chiến II.

    Chúng ta nên lo lắng đến mức nào?

    Gần đây đã xuất hiện những động thái ngoại giao cấp cao giữa Washington và Bắc Kinh, nhưng các dấu hiệu cảnh báo chắc chắn vẫn còn đó. Dưới thời Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Bắc Kinh đang tích lũy các tàu, máy bay và tên lửa như một phần trong kế hoạch xây dựng quân sự lớn nhất của bất kỳ quốc gia nào trong hàng chục năm qua. Bất chấp một số nỗ lực nhằm thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài eo hẹp, Trung Quốc vẫn đang dự trữ nhiên liệu, thực phẩm, và cố gắng giảm thiểu khả năng nền kinh tế của mình bị tổn thương trước các biện pháp trừng phạt – những bước đi có thể được thực hiện nếu xung đột đến gần. Tập nói rằng Trung Quốc phải chuẩn bị cho “các tình huống xấu nhất và cực đoan nhất” và sẵn sàng chống chọi với “gió lớn, biển động, và thậm chí cả bão tố hiểm nguy.” Nguyên nhân đến từ việc Bắc Kinh ngày càng trở nên cưỡng ép (và đôi khi bạo lực) trong cách đối xử với các nước láng giềng, gồm Philippines, Nhật Bản và Ấn Độ – đồng thời thường xuyên tìm cách phô trương khả năng tấn công, phong tỏa, và xâm lược Đài Loan.

    Nhiều quan chức Mỹ tin rằng nguy cơ chiến tranh đang gia tăng. Giám đốc CIA William Burns nhận định Tập đang tìm kiếm khả năng xâm lược Đài Loan vào năm 2027. Và trong lúc nền kinh tế Trung Quốc chật vật, một số nhà quan sát –  kể cả nhiều nhà phân tích tình báo Mỹ – đang tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy một Trung Quốc đang đạt đỉnh có thể trở nên hung hăng, nhằm đánh lạc hướng sự chú ý khỏi các vấn đề nội bộ hoặc củng cố thành quả trước khi quá muộn.

    Các nhà phân tích khác lại cho rằng nguy cơ Trung Quốc gây hấn đã bị thổi phồng quá mức. Một số học giả tin rằng mối nguy có thể được kiểm soát với điều kiện Washington không khiêu khích Bắc Kinh – đây là sự lặp lại của một lập luận lâu đời hơn, rằng Trung Quốc sẽ không thay đổi hiện trạng vốn đã có lợi cho họ. Những người khác chỉ ra rằng Trung Quốc đã không phát động chiến tranh kể từ khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979. Và cũng có những người gạt bỏ triển vọng rằng Trung Quốc có thể gây chiến để ứng phó với nền kinh tế đang chậm lại và các vấn đề trong nước khác, tuyên bố rằng nước này không có lịch sử chiến tranh đánh lạc hướng. Điều liên kết những lập luận này với nhau là niềm tin vào tính liên tục trong cách ứng xử của Trung Quốc: ý tưởng rằng một quốc gia chưa phát động một cuộc chiến thảm khốc nào trong hơn bốn thập niên qua sẽ khó có thể làm vậy trong thời hiện đại.

    Chúng tôi tin rằng niềm tin này đã bị đặt sai chỗ một cách nguy hiểm. Hành vi của một quốc gia được định hình sâu sắc bởi hoàn cảnh của quốc gia đó, không kém gì truyền thống chiến lược của nước đó, và hoàn cảnh của Trung Quốc đang thay đổi một cách đáng kể. Các nhà khoa học chính trị và các sử gia đã xác định một loạt yếu tố khiến các cường quốc ít nhiều có xu hướng gây chiến. Khi xem xét bốn yếu tố này, có thể thấy rõ rằng những thứ từng tạo điều kiện cho sự trỗi dậy hòa bình giờ đây có thể khuyến khích sự suy tàn một cách bạo lực.

    Thứ nhất, các tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp khác của Trung Quốc đang trở nên ít có khả năng thỏa hiệp hoặc giải quyết hòa bình hơn trước đây, khiến chính sách đối ngoại trở thành một trò chơi có tổng bằng không. Thứ hai, cán cân quân sự ở châu Á đang thay đổi theo hướng có thể khiến Bắc Kinh lạc quan đến mức nguy hiểm về kết quả của chiến tranh. Thứ ba, dù triển vọng quân sự ngắn hạn của Trung Quốc đã được cải thiện, triển vọng kinh tế và chiến lược dài hạn của nước này lại trở nên u ám hơn – đây chính là kết hợp thường khiến các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại trở nên bạo lực hơn trong quá khứ. Thứ tư, Tập đã biến Trung Quốc thành một chế độ độc tài cá nhân, một kiểu chế độ rất dễ vướng vào những tính toán sai lầm tai hại và những cuộc chiến phải trả giá đắt.

    Điều này không có nghĩa là Trung Quốc sẽ xâm lược Đài Loan trong một tuần, tháng, hoặc năm cụ thể. Không thể dự đoán chính xác khi nào xung đột có thể xảy ra bởi nguyên nhân thường là một cuộc khủng hoảng không lường trước được. Ngày nay, chúng ta đều biết rằng châu Âu đang trên đà xảy ra chiến tranh vào năm 1914. Tuy nhiên, Thế chiến I có thể đã không xảy ra vào thời điểm đó nếu tài xế chở Đại Công tước Áo Franz Ferdinand không rẽ nhầm đường, dẫn đến một trong những bước ngoặt bi thảm nhất của lịch sử. Chiến tranh giống động đất hơn: Chúng ta không thể biết chính xác khi nào chúng sẽ xảy ra, nhưng chúng ta có thể nhận ra các yếu tố dẫn đến mức độ rủi ro cao hơn hoặc thấp hơn. Và giờ đây, các chỉ số rủi ro của Trung Quốc đang nhấp nháy màu đỏ.

    Thoạt nhìn, khả năng xảy ra chiến tranh Mỹ-Trung có vẻ xa vời. Bắc Kinh đã không tham gia một cuộc chiến lớn nào trong 44 năm qua, và quân đội của họ cũng không giết hại một lượng lớn người nước ngoài kể từ năm 1988, khi các tàu khu trục nhỏ của Trung Quốc bắn chết 64 thủy thủ Việt Nam trong một cuộc giao tranh trên quần đảo Trường Sa. Cho đến nay, cái gọi là hòa bình châu Á – việc không có chiến tranh giữa các quốc gia ở Đông Á kể từ năm 1979 – vẫn dựa trên nền hòa bình của Trung Quốc.

    Nhưng không có chiến tranh không có nghĩa là không có xâm lược: Bắc Kinh đã sử dụng các khả năng quân sự và bán quân sự để mở rộng quyền kiểm soát của mình ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng nhiều lần xung đột đẫm máu với Ấn Độ. Tuy nhiên, thực tế là Bắc Kinh đã tránh tham gia các cuộc chiến lớn – trong khi Mỹ đã tham gia một vài cuộc chiến trong số đó – đã cho phép các quan chức Trung Quốc tuyên bố rằng đất nước của họ đang đi theo một con đường hòa bình độc nhất để trở thành cường quốc toàn cầu. Và tuyên bố đó cũng buộc những người lo ngại về chiến tranh phải giải thích tại sao Trung Quốc, quốc gia đã tăng trưởng kỷ lục nhờ hai thế hệ hòa bình, lại quyết định đột ngột thay đổi hướng đi?

    Đây không phải là lần đầu tiên một cường quốc tưởng chừng đang trỗi dậy hòa bình lại bất ngờ thay đổi. Trước năm 1914, Đức không hề tham gia một cuộc chiến lớn nào suốt hơn 40 năm. Vào thập niên 1920, đối với nhiều nhà quan sát nước ngoài, Nhật Bản là một bên liên quan có trách nhiệm, sẵn sàng ký các hiệp ước cam kết hạn chế hải quân, chia sẻ quyền lực ở châu Á và tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Đầu những năm 2000, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cân nhắc việc gia nhập NATO và đưa Nga đến gần hơn với phương Tây. Việc mỗi nước trong nhóm này bất chấp tất cả để phát động các cuộc chiến tranh chinh phục man rợ đã nhấn mạnh một sự thật cơ bản: Mọi thứ đều thay đổi. Cùng một nước vẫn có thể hành xử khác nhau, thậm chí khác xa, tùy thuộc vào hoàn cảnh.

    Một tình huống như vậy thường xảy ra do tranh chấp lãnh thổ. Phần lớn các cuộc chiến đều xoay quanh việc ai sở hữu dải đất nào trên Trái Đất; khoảng 85% các cuộc xung đột quốc tế diễn ra kể từ năm 1945 đều xoay quanh các yêu sách lãnh thổ. Lãnh thổ rất khó phân chia vì chúng thường có ý nghĩa mang tính biểu tượng hoặc chiến lược. Ngay cả khi các quốc gia đồng ý cùng phân chia một khu vực nào đó, thì cuối cùng họ vẫn sẽ đối đầu để giành lấy những phần có giá trị nhất, chẳng hạn như thành phố, mỏ dầu, thánh địa, hải cảng, hoặc điểm cao chiến lược. Ngoài ra, việc bảo vệ lãnh thổ đòi hỏi sự hiện diện vật lý dưới hình thức hàng rào, binh lính, hoặc dân định cư. Vì vậy, khi các quốc gia tuyên bố chủ quyền trên cùng một lãnh thổ, họ chắc chắn tiếp xúc thường xuyên và theo cách không thân thiện. Tranh chấp lãnh thổ đặc biệt có khả năng leo thang nếu một bên lo ngại yêu sách của mình đang biến mất nhanh chóng. Nỗi sợ rằng lãnh thổ lịch sử đang bị tước đoạt hoặc đất nước bị kẻ thù chia cắt có thể kích động hành vi xâm lược, điều mà một quốc gia có biên giới an toàn sẽ không lựa chọn.

    Nguyên nhân thứ hai dẫn đến chiến tranh là sự thay đổi cán cân quân sự. Các cuộc chiến diễn ra vì nhiều vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều có chung một nguyên nhân cơ bản: sự lạc quan sai lầm. Chúng xảy ra khi cả hai bên tin rằng họ có thể sử dụng vũ lực để đạt được mục tiêu – nói cách khác, khi cả hai bên tin rằng mình có thể giành chiến thắng. Chiến tranh rất hiếm khi có kẻ toàn thắng – nghĩa là ít nhất một bên – và thường là cả hai – đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp sức mạnh của đối thủ. Nói tóm lại, một cán cân quân sự mang tính cạnh tranh hoặc mơ hồ sẽ dẫn đến chiến tranh; do đó, bất cứ điều gì khiến cho cán cân đó trở nên cạnh tranh hơn hoặc mơ hồ hơn, chẳng hạn như việc áp dụng công nghệ mới hoặc sự tăng cường quân sự quy mô lớn của bên yếu hơn, đều làm tăng nguy cơ chiến tranh.

    Thứ ba, các cường quốc trở nên hiếu chiến khi họ lo sợ sự suy tàn trong tương lai. Cạnh tranh địa chính trị rất khốc liệt và không khoan nhượng, vì vậy các quốc gia sẽ cố gắng bảo vệ sự giàu có và quyền lực tương đối của mình. Ngay cả những quốc gia hùng mạnh nhất cũng có thể rơi vào vòng xoáy bất ổn bạo lực khi phải đối mặt với trì trệ kinh tế, bao vây chiến lược, hoặc các xu hướng kéo dài khác vốn đe dọa vị thế quốc tế của họ và khiến họ dễ bị kẻ thù tấn công. Được vũ trang mạnh mẽ nhưng ngày càng trở nên lo lắng, một cường quốc đang trên bờ vực suy tàn sẽ vội vã, thậm chí tuyệt vọng, tìm cách chống lại các xu hướng bất lợi bằng mọi giá. Đối với đế quốc Đức, đế quốc Nhật, và nước Nga của Putin, điều đó có nghĩa là chiến tranh.

    Cuối cùng, cách hành xử của một quốc gia được định hình bởi chế độ của quốc gia đó. Các chế độ độc tài cá nhân có nguy cơ phát động chiến tranh cao gấp đôi so với các chế độ dân chủ hoặc chế độ chuyên chế trong đó quyền lực được nắm giữ trong tay nhiều người. Các nhà độc tài khởi xướng nhiều cuộc chiến hơn vì họ ít phải gánh chịu cái giá phải trả của xung đột: Trong 100 năm qua, chỉ có 30% nhà độc tài thua trận bị hạ bệ khỏi quyền lực, trong khi gần 100% các nhà lãnh đạo dưới các chế độ khác khi thua trận đều bị bỏ phiếu truất quyền hoặc bị lật đổ. Các nhà độc tài lựa chọn con đường cực đoan vì xung quanh họ là những kẻ nịnh bợ, những kẻ sẽ dốc hết sức để đáp ứng yêu cầu của “lãnh đạo kính yêu.” Các nhà độc tài cũng nuôi dưỡng những đối thủ nước ngoài, cả có thật lẫn tưởng tượng, bởi chủ nghĩa dân tộc dựa trên huyết thống và lãnh thổ (blood-and-soil nationalism) giúp họ biện minh cho sự cai trị hà khắc trong nước. Vì vậy, trong khi các nhà lãnh đạo của các chính phủ bị kiểm soát (một cách dân chủ) thường cai trị một cách khiêm tốn và chìm vào quên lãng, thì các nhà độc tài – bao gồm Adolf Hitler của Đức, Benito Mussolini của Ý, Joseph Stalin của Liên Xô, Mao Trạch Đông của Trung Quốc, Saddam Hussein của Iraq, Vladimir Putin của Nga – lại thường xuyên đi vào các sách lịch sử.

    Bốn yếu tố này – biên giới bất ổn, cán cân quân sự mang tính cạnh tranh, những kỳ vọng tiêu cực, và chế độ độc tài cá nhân – giúp giải thích việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc trong lịch sử, và chúng cũng có những ảnh hưởng đáng lo ngại ngày nay.

    Một tấm áp phích tuyên truyền của Trung Quốc có tựa đề “Nhân dân Chiến tranh Thắng lợi Vạn tuế!” khoảng năm 1966. © Fine Art Images/ Heritage Images/ Getty Images 

    Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời trong chiến tranh. Sau một thế kỷ chịu đựng ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc nước ngoài, Trung Quốc trở thành chiến trường chính của Thế chiến II ở châu Á sau khi Nhật Bản xâm lược vào năm 1937. Ít nhất 14 triệu người Trung Quốc đã thiệt mạng. Sau đó, từ năm 1945 đến năm 1949, Nội chiến Trung Quốc lên đến đỉnh điểm đẫm máu, khiến thêm ít nhất 2 triệu người thiệt mạng khi phe Cộng sản lên nắm quyền.

    Được rèn giũa giữa những xung đột này, Trung Quốc nổi lên như một quốc gia siêu hiếu chiến. Trong nhiều thập niên, họ là một trong những quốc gia có nhiều xung đột nhất thế giới, trải qua 5 cuộc chiến và trở thành kẻ thù chính của cả hai siêu cường Chiến tranh Lạnh. Kỷ lục bạo lực này không có gì đáng ngạc nhiên bởi Trung Quốc đã bộc lộ cả bốn yếu tố có nguy cơ dẫn đến chiến tranh.

    Đầu tiên, Trung Quốc được lãnh đạo bởi Mao Trạch Đông, biểu tượng đỉnh cao của chế độ độc nhân trị. Ông thường xuyên thanh trừng các đồng nghiệp của mình và đơn phương ra quyết định giữa đêm, khi vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ, dựa trên những lý do khó hiểu và hay thay đổi. Ông cũng có thái độ coi thường mạng sống con người thật đáng kinh ngạc. Khoảng 45 triệu người đã bị bỏ đói, đánh đập, hoặc bị bắn chết trong Đại Nhảy vọt, kế hoạch đầy thiếu sót của Mao nhằm biến Trung Quốc thành siêu cường ngay khi ông còn tại vị. Phần nào để tập hợp cả nước ủng hộ kế hoạch tai hại này, Mao đã gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế vào năm 1958 bằng cách pháo kích vào các hòn đảo do chính phủ Quốc Dân Đảng nắm giữ ở Đài Loan.

    Mao là một bạo chúa, nhưng ngay cả một nhà lãnh đạo ít tàn nhẫn hơn cũng sẽ chật vật tìm cách gìn giữ hòa bình cho một quốc gia đã tan vỡ đến vậy. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc nội chiến, chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phải tái lập sử kiểm soát của chính quyền trung ương ở từng làng và nỗ lực tiêu diệt sự phản kháng của các dân tộc thiểu số, lãnh chúa, và những người có cảm tình với Quốc Dân Đảng. Tệ hơn nữa, sự sụp đổ của các đế chế Nhật Bản và châu Âu khiến Trung Quốc bị bao vây một phần bởi các quốc gia mới có thái độ thù địch, bất ổn, hoặc cả hai. Phần lớn biên giới Trung Quốc đều vướng vào tranh chấp ở một mức độ nào đó. Tính đến những năm 1960, biên giới Xô-Trung chính là nơi được quân sự hóa nhiều nhất trên thế giới. Còn Đài Loan trở thành căn cứ của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đối địch, được Mỹ hậu thuẫn, với các kế hoạch công khai nhằm tái chiếm đại lục. Về phần mình, Ấn Độ đã tiếp đón chính phủ Tây Tạng lưu vong và tuyên bố chủ quyền với nhiều vùng lãnh thổ của Trung Quốc. Trong khi đó, khu trung tâm của Trung Quốc bị chèn ép giữa hai điểm nóng Chiến tranh Lạnh là Đông Dương và Bán đảo Triều Tiên.

    Trung Quốc thường xuyên cho rằng họ có nguy cơ bị chia cắt, một tổn thương lịch sử vốn đã trở nên trầm trọng hơn do những thảm họa kinh tế và biến động chính trị mà Mao gây ra. Tuy nhiên, Bắc Kinh luôn có một chiến lược khả thi để chống lại từng nước láng giềng trên đất liền, vì dân số khổng lồ của Trung Quốc cho phép nước này nuốt chửng đối thủ thông qua cái mà Bắc Kinh gọi là “chiến tranh nhân dân,” một sự kết hợp giữa các cuộc tấn công bằng biển người và các cuộc tấn công du kích. Tóm lại, đây là một sự kết hợp dễ phát nổ: một chế độ độc tài tàn bạo có nhiều tranh chấp lãnh thổ và được trang bị nguồn nhân lực dường như vô tận.

    Do đó, Trung Quốc đi từ xung đột này sang xung đột khác, trở nên bạo lực khi nước này cảm thấy đặc biệt dễ bị tổn thương hoặc lo sợ vị thế của mình sắp bị suy giảm. Năm 1950, Trung Quốc tấn công lực lượng Mỹ trên đường tiến sâu vào lãnh thổ Triều Tiên, chấp nhận nguy cơ bị trả đũa hạt nhân. Cuối thập niên đó, Trung Quốc gần như đã phát động thêm hai cuộc chiến bổ sung bằng cách pháo kích các đơn vị đồn trú của Quốc Dân Đảng trên các đảo ngoài khơi ở Eo biển Đài Loan. Năm 1962, Bắc Kinh tấn công lực lượng Ấn Độ sau khi người Ấn xây dựng các tiền đồn trên lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở dãy Himalaya. Trong Chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc đã gửi hàng nghìn quân sang để chống Mỹ. Năm 1969, Bắc Kinh một lần nữa mạo hiểm với chiến tranh hạt nhân khi phục kích lực lượng Moscow dọc theo Sông Ussuri, sau khi Liên Xô tăng cường quân sự đáng kể ở đó. Mười năm sau, Trung Quốc tấn công Việt Nam sau khi Việt Nam tiếp đón lực lượng Liên Xô và đưa quân vào Campuchia, một trong những đối tác thân thiết duy nhất của Bắc Kinh.

    Sau đó, tiếng súng của Trung Quốc đã gần như im bặt. Đúng là có những trường hợp ngoại lệ, đáng chú ý nhất là vào năm 1995 và 1996, khi Trung Quốc phóng tên lửa gần Đài Loan. Nhưng nhìn chung, Bắc Kinh đã bớt gai góc và hung hăng hơn trong giai đoạn 1980 đến giữa những năm 2000, khi hoàn cảnh của nước này thay đổi đáng kể.

    Đầu tiên, chế độ đã ôn hoà hơn. Năm 1976, Mao qua đời và được thay thế bởi Đặng Tiểu Bình, người từng bị Mao thanh trừng và hiểu rõ sự nguy hiểm của chế độ độc nhân trị. Dưới sự chỉ đạo của Đặng, giới hạn nhiệm kỳ cho các lãnh đạo cấp cao đã được thiết lập. Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ bắt đầu nhóm họp thường xuyên. Một bộ máy hành chính chuyên nghiệp bắt đầu thành hình. Những thể chế này còn lâu mới hoàn hảo, nhưng chúng đã tạo ra những biện pháp kiểm soát quyền lực mà dưới thời Mao hoàn toàn không có.

    Thứ hai, vị thế địa chính trị của Trung Quốc được cải thiện và các mối đe dọa đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của nước này cũng giảm bớt. Sau khi Mỹ mở cửa với Trung Quốc vào những năm 1970, chính phủ đối địch ở Đài Loan đã mất phần lớn sự công nhận về mặt ngoại giao và liên minh quân sự với Mỹ. Để dồn ép Liên Xô, Mỹ đã thành lập một “bán liên minh” với Trung Quốc và chuyển giao công nghệ tiên tiến cho các công ty của nước này. Đài Loan, Liên Xô, Ấn Độ, và Việt Nam không còn có thể xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc mà không kích động phản ứng từ Mỹ. Và khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, các mối đe dọa lớn đối với biên giới đất liền của Trung Quốc gần như biến mất hoàn toàn. Nếu không có sự hỗ trợ của Nga, Ấn Độ, Việt Nam, và các quốc gia mới thành lập ở Trung Á sẽ không thể tranh giành biên giới với Trung Quốc. Thay vào đó, họ chuyển sang bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh.

    Thứ ba, quan điểm của Trung Quốc về tương lai dần trở nên tươi sáng hơn. Sau khi xích lại gần Mỹ và các nền dân chủ khác, Trung Quốc đã dễ dàng tiếp cận nền kinh tế toàn cầu và có được một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 2000, nền kinh tế nước này tăng trưởng với tốc độ chóng mặt. Hết nước này đến nước khác đều hết lòng ủng hộ Bắc Kinh để tiếp cận thị trường đang bùng nổ của họ. Anh trao trả Hong Kong, còn Bồ Đào Nha từ bỏ Ma Cao. Mỹ nhanh chóng đưa Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển bùng nổ và các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới đều chào đón sự trỗi dậy của nước này, Bắc Kinh chẳng có lý do gì để đảo lộn hiện trạng dường như đang trở nên tốt đẹp hơn từng ngày.

    Cuối cùng, Trung Quốc ít có cơ hội chinh phạt. Dù ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao của họ đã tăng vọt, Trung Quốc rõ ràng vẫn không đủ khả năng quân sự để chiếm giữ các lãnh thổ vẫn đang tranh chấp, phần lớn trong số đó nằm trên biển. Trước những năm 2000, với lực lượng không quân và hải quân yếu, một cuộc xâm lược của Trung Quốc nhắm vào Đài Loan sẽ giống như việc “hàng triệu người cùng nhảy xuống nước,” trong khi một cuộc đụng độ hải quân với các lực lượng tiên tiến của Nhật Bản sẽ kết thúc chỉ sau vài giờ. Quan trọng nhất, Mỹ có thể sẽ đè bẹp sự hung hăng của Trung Quốc ở vùng biển châu Á. Sau khi chứng kiến lực lượng Mỹ tiêu diệt quân đội Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định đi theo châm ngôn nổi tiếng của Đặng – “ẩn mình chờ thời.”

    (Còn tiếp một phần)

    https://nghiencuuquocte.org/2024/02/21


    Không có nhận xét nào