Trần Xuân Thời
Tháng 01/ 2024
" Trong năm 2024, trên toàn thế giới có 60 quốc gia tự do tổ chức bầu cử với khoảng 4 tỷ cử tri, được mệnh danh là năm bầu cử lớn nhất trong lịch sử (the biggest election year in history). Tiếc rằng nhà cầm quyền CS Việt Nam độc tài đảng trị lạc hậu nên nhân dân Việt nam quốc nội mất cơ hội sánh vai với các quốc gia dân chủ, tự do văn minh trên thế giới.
Trên đây là những nhận xét tổng quát về thủ tục bầu cử tại Hoa Kỳ. Tất cả các khiếu nại về bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ, nếu không được giải quyết ở cấp tiểu bang, sẽ được chung quyết bởi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ".
(VNTB) – Hiến pháp quy định bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ cứ bốn năm một lần vào ngày Thứ Ba sau ngày thứ hai tuần thứ nhất tháng 11.
Hầu hết chúng ta đã tham dự các cuộc bầu cử tự do tại Việt Nam trước 1975 và tại các quốc gia tự do mà chúng ta đang cư ngụ sau năm 1975. Trong các quốc gia tự do, dân chủ, phương thức bầu cử tự do được áp dụng trong các cơ chế công quyền và các hiệp hội tư nhân để chọn người đại diện.
Tại Hoa Kỳ, các chính quyền tiểu bang đảm trách công tác tổ chức bầu cử các viên chức công cử tiểu bang và liên bang. Thể thức bầu cử được quy định bởi các đạo luật do chính quyền tiểu bang ban hành, do đó có một số khác biệt về kỹ thuật tổ chức giữa các tiểu bang. Nếu có vấn nào chưa được sáng tỏ khi áp dụng luật bầu cử, toà án tiểu bang sẽ thụ lý và tòa án Liên bang sẽ chung quyết nếu có liên quan đến thẩm quyền tòa án Liên bang (Federal issue).
1. Quyền bầu cử:
Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 không quy định quyền bầu cử cho mọi công dân Hoa Kỳ. Vì thế các Tu chính án thứ 15 ban hành năm 1870 quy định thêm quyền bầu cử cho người Mỹ thiểu số…Tu chính án thứ 19 ban hành năm 1920 công nhận quyền bầu cử cho cử tri nữ giới…..Hiến pháp quy định bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ cứ bốn năm một lần vào ngày Thứ Ba sau ngày thứ hai tuần thứ nhất tháng 11.
2. Ghi danh bầu cử:
Mọi công dân hội đủ điều kiện đều được ghi danh bầu cử: Công dân Hoa Kỳ, 18 tuổi, không can án hay bị tước quyền bầu cử, phải là cư dân hợp lệ tại tiểu bang nơi bầu cử hay ứng cử, cử tri có thể ghi danh trước hoặc tại phòng phiếu trước khi bầu cử… hoặc theo thủ tục do tiểu bang ấn định
Năm 1965, Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật về Quyền Bầu Cử “Voting Rights Act” đã bãi bỏ các điều kiện cử tri phải biết đọc, biết viết (literacy tests), đóng thuế bầu cử (poll taxes). Các điều kiện nầy thường được áp dụng tại các tiểu bang miền Nam Hoa kỳ gọi chung là “Jim Crow Laws”. Tuổi được bầu cử cũng thay đổi qua thời gian và Tu chính Án thứ 26 (1971) đã thống nhất tuổi được bầu cử là 18 tuổi cho công dân trên toàn quốc cho các cuộc bầu cử các viên chức công cử tiểu bang và liên bang.
3. Chứng Minh Thư (ID Card):
Đến năm 2023, khoảng 36 tiểu bang buộc phải xuất trình căn cước (ID) trước khi cho ghi danh bầu cử. Khoảng 14 tiểu bang chưa có luật buộc phải xuất trình căn cước. Hai đảng CH và DC có hai đường lối khác nhau về vấn đề này.
Đảng Cộng Hòa ủng hộ tiểu bang cấp căn cước cho cử tri nhằm tránh sự gian lận như bầu cử như nhiều lần, không đủ điều kiện bầu cử vẫn được đi bầu cử, không phải là công dân Hoa Kỳ, di dân bất hợp pháp đi bầu, người chết đi bầu … Vấn đề gian lận bầu cử (election fraud) đã được nêu lên trong nhiều cuộc bầu cử. Cao điểm của vấn đề này được đề cập đến sau cuộc bầu năm 2020.
Đảng Dân chủ chủ trương ngược lại để cho mọi người được bầu cử tự do không cần chứng minh thư (ID) vì lý do nhiều người không có giấy tờ tùy thân… (Phát biểu của ông Eric Holder, Tổng Trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ ( Tổng Chưởng Lý, Nội các của TT Obama, US Attorney General, Pres. Obama Administration).
Sự tranh chấp nầy khiến cho Tối Cao Pháp Viện (US Supreme Court) phải phân xử. Năm 2008 Tối Cao Pháp Viện công nhận luật tiểu bang Indiana đòi hỏi cử tri phải có căn cước. Các tiểu bang khác như Texas, Tennessee, Rhode Island, Kansas, Georgia… năm 2012 đã thông qua luật đòi hỏi cử tri phải có căn cước. Tuy nhiên một số tiểu bang khác còn lại vẫn còn tranh cãi về luật ID card. Trong năm 2016, 17 tiểu bang đã ban hành luật đòi hỏi phải xuất trình khai sinh, chứng chỉ nhập tịch… nhưng vẫn gặp khó khăn khi áp dụng, không phải mọi người có tinh thần tuân luật như nhau.
4. Các chức vụ dân cử:
Có rất nhiều loại chức vụ dân cử tiểu bang và liên bang tại mỗi tiểu bang. Mỗi tiểu bang, như một tiểu quốc, có đầy đủ cơ chế dân cử: Lập Pháp với lưỡng viện Quốc hội, Hành Pháp với Thống Đốc và các Bộ, Phủ, Tư pháp với một hệ thống tòa án. Tiểu bang Nebraska … chỉ có một viện (unicameral), không có lưỡng viện Quốc hội (bicameral) như các tiểu bang khác.
Nghị Sĩ Liên bang (US Senator): Mỗi Tiểu bang đồng đều có 2 Nghị Sĩ Liên bang, nhiệm kỳ 6 năm. Dân biểu Liên bang (US Representative): Có nhiều dân biểu Liên bang cho mỗi tiểu bang tùy theo dân số của tiểu bang, nhiệm kỳ 2 năm. Từ khi lập quốc, khoảng 30,000 dân được bầu một Dân biểu. Ngày nay số Dân biểu gia tăng theo dân số căn cứ trên bảng kiểm tra dân số cứ 10 năm một lần. Một dân biểu hiện nay có thể đại diện cho trên nửa triệu dân. Tiểu bang nhỏ nhất có 1 dân biểu và 2 Nghị Sĩ. Tiểu bang lớn nhất như CA có 52 Dân biểu và 2 Thượng Nghị Sĩ. Số Thượng Nghị Sĩ không thay đổi. Số Dân biểu có thể thay đổi tùy theo dân số gia tăng.
5. Phân khu bầu cử:
Vì dân số gia tăng nên có vấn đề tái phân chia khu bầu cử (Congressional redistricting). Khi tái phân khu như vậy có thể sẽ gây thất lợi cho một trong hai đảng Dân Chủ hay Cộng Hoà. Sự tái phân cử tri là nhiệm vụ của chính quyền tiểu bang và có ảnh hưởng đến vấn đề bầu cử dân biểu liên bang và các viên chức công cử tiểu bang nên thường tạo nên các cuộc tranh luận sôi nổi trong quốc hội tiểu bang. Sự tái phân định lại ranh giới khu bầu cử, có trường hợp phải nhờ Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phân xử.
Trường hợp có nhiều cử tri cùng chung khuynh hướng chính trị được tái phân vào một khu bầu cử tạo nên hiện tượng “Vote packing”, có lợi cho vị dân biểu đương nhiệm (incumbent). Ngược lại vị dân biểu đương nhiệm có thể bị thất cử nếu có nhiều cử tri thuộc các khuynh hướng khác chiếm đa số hoặc cử tri thường hỗ trợ dân biểu đương nhiệm bị phân tán “Vote cracking”. Vấn đề tranh cãi là phải phân khu như thế nào để dung hòa các khuynh hướng chính trị trong địa phương liên hệ.
6. Vấn đề tài trợ các cuộc vận động bầu cử:
Ứng cử mà thiếu tài chánh thì không có hy vọng đắc cử. Mặt trái của vấn đề vận động tài chánh là các ứng cử viên, sau khi đắc cử, có thể lo “ơn đền, nghĩa trả” cho những người đóng góp tài chính bằng cách thỏa mãn nhu cầu của những người tài trợ, những nhóm quyền lợi (interest groups) áp lực các viên chức đắc cử. “Pay and play- tiền trao cháo múc”, thay vì dùng thì giờ hay công quỹ để phục vụ công ích.
Để giảm thiểu vấn đề thiên vị phục vụ cho phe phái đã giúp các ứng cử đắc cử. bằng nhiều mánh khóe khác nhau, năm 1907 đạo luật Tillman Act được ban hành để cấm các đại công ty đóng góp tài chính cho các cuộc vận động bầu cử các viên chức liên bang và ấn định mức chi tiêu tối đa cho mỗi ứng cử viên. Luật Federal Corrupt Practices Act được ban hành năm 1925 ấn định mức đóng góp. Luật Federal Election Campaign Act được ban hành năm 1971 bắt buộc các ứng cử viên tường trình số tiền đóng góp nhận được trong thời gian vận động tranh cử. Năm 1974, Quốc Hội thành lập cơ quan Federal Election Commission (FEC) do 3 Ủy viên Cộng Hoà và 3 Ủy Viên Dân Chủ kiểm soát tài chính của các cuộc tranh cử…. Dù luật lệ có quy định nhưng trong thực tế các nhóm áp lực vẫn đóng góp tài chính cho các ứng cử viên để được hưởng lợi lộc sau khi các ứng cử viên được đắc cử qua nhiều phương thức khác nhau.
7. Các Uỷ Ban Hoạt Động Chính Trị:
Chúng ta thường nghe nói đến danh từ PAC. PAC là Political Action Committee. Các ủy ban vận động chính trị được thành lập tại các tổ chức, công ty, đảm trách vấn đề gây quỷ đóng góp cho các cuộc vân động tranh cử như GOPAC (Republican leadership PAC). Nhiều đoàn thể chính trị tại các tiểu bang cũng thành hình các ủy ban vận động chính trị. Những nhóm nầy được thành lập theo Section 527 của Internal Revenue Code/ IRS Code. Trong cuộc bầu cử năm 2004, cơ quan Swift Boat Veterans for Truth vận động tài chánh để ủng hộ George W. Bush và bài bác John Kerry. Ngược lại, cơ quan America Coming Together (ACT) ủng hộ Kerry chống Bush. Cả hai cơ quan nầy đã bị phạt bạc triệu vì hoạt động ngoài sự kiểm soát của Federal Election Commission. (FEC)
Al Gore khi làm Phó Tổng Thống cũng bị khiếu nại vì dùng điện thoại của văn phòng Phó TT vận động tài chánh cho ứng cử viên của đảng DC và Tổng Thống Clinton cũng bị báo chí phanh phui khi mời các mạnh thường quân đến nghỉ ngơi tại Toà Bạch Ốc. Thống Đốc Illinois Rod Blagojevich, đảng DC, bị tù vì bán ghế Thượng Nghị Sĩ của Barack Obama để trống của tiểu bang Illinois để lấy tiền tranh cử.
Trong vụ án Citizens United v. Federal Election Commission, (2011) Tối Cao Pháp viện cấm không được hạn chế sự đóng góp của các nghiệp đoàn, công ty thương mại cho các cơ quan bất vụ lợi. Đồng thời xác nhận các hiệp hội sinh lợi và bất vụ lợi có tư cách pháp nhân (không những là legal entity và cũng là legally person) nên có quyền nhận đóng góp như quyền tự do ngôn luận dành cho mọi công dân! Phán quyết nầy cũng gây nên sự kinh ngạc cho một số người. Kết quả, các PAC có quyền nhận sự đóng góp vô giới hạn của tư nhân cũng như của các hiệp hội, các công ty thương mại và được mệnh danh là Super PACs, rồi sau đó Super super PAC tha hồ nhận tiền đóng góp để hỗ trợ cho ứng cử viên gà nhà …khiến cho Lawrence Lessig, giáo sư tại Trường Luật Harvard, viết sách “ Republic, Lost: How Money Corrupts Congress – and a Plan to Stop It ” để chống đối sự nhũng lạm do tiền tài gây nên tại Washington DC, để cảnh giác thành viên của chính quyền, Hành Pháp, Lập Pháp không nên chỉ lo vận động tài chánh để tranh cử mà lơ là quốc sự…
Nhiệm vụ của Tối Cao Pháp Viện rất quan trọng trong tiến trình hình thành hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Chánh nhất Hughes (1862- 1948) đã nhận xét rằng ý nghĩa của Hiến pháp do Tối Cao Pháp Viện giải thích. Tổng Thống Woodrow Wilson sánh Tối Cao Pháp Viện như là một “Quốc Hội Lập Hiến thường trực” vì vai trò của Tố Cao Pháp Viện như là cơ quan cuối cùng giải thích Hiến pháp, nói khác đi giải thích Hiến pháp của TCPV có tính cách chung thẩm.
Theo Tổng Thống Thomas Jefferson, giao trọng trách giải thích Hiến pháp cho Tối Cao Pháp Viện là một tập tục nguy hiểm. TT Jefferson cho rằng quyền của nhân dân Hoa Kỳ phải để cho nhân dân Hoa Kỳ định đoạt hơn là chấp nhận sự giải thích có tính cách khống chế của riêng một cơ quan, để cho công dân Hoa kỳ định đoạt qua lá phiếu cũng là một phương cách tốt. Nhiều vấn đề khó khăn khác được bàn cãi hiện nay với ý kiến chống đối nhau như vấn đề phá thai, đạo và đời, tự do cá nhân, vấn đề nhân quyền, vấn đề tự do kết liễu sinh mệnh… Theo quan niệm của một số giới chức, Tối Cao Pháp Viện đi hơi xa trong vấn đề giải thích Hiến Pháp, do đó hai đảng cố gắng thay đổi chiều hướng giải thích Hiến pháp theo quan điểm của mỗi đảng.
Đảng Cộng Hòa chủ trương Hiến pháp phải được giải thích theo ý chỉ của những bậc khai quốc công thần đã đại diện nhân dân Hoa Kỳ soạn thảo Hiến pháp năm 1787. Đảng Dân Chủ thì muốn thay đổi, cho nên hai đảng phải tranh cho được chức vụ Tổng Thống mới có thẩm quyền bổ nhiệm các vị Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện theo khuynh hướng của mỗi đảng.
8. Đề cử đại biểu:
Thủ tục đề cử đại biểu thông thường cho các đảng chính trị được diễn ra như sau:
(1) tuyển chọn các đại biểu (delegate) từ các phiên hội sơ bộ (caucus) tại các khu tuyển cử (precinct) trong các thành phố.
(2) Các đại biểu được các precinct bầu sẽ tham dự đại hội cấp County (County Convention) để đề cử đại biểu tham dự đại hội cấp tiểu bang (State Convention)
(3) Đại hội cấp tiểu bang sẽ tham dự đại hội đảng Toàn Quốc (National Convention) để đề cử Ứng cử viên đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ.
Tuy vậy, thủ tục có thể thay đổi tùy theo tiểu bang. Đảng Dân Chủ chọn ứng viên từ các cuộc bầu cử sơ bộ tại cấp tiểu bang. Các đại biểu cấp tiểu bang sẽ tham dự đại hội toàn quốc để chọn ứng cử viên đại diện cho đảng ra tranh cử Tổng Thống. Số đại biểu đảng Dân Chủ thay đổi trong mỗi kỳ bầu cử, khoảng trên dưới 4000 đại biểu được chọn để tham dự Đại hội đảng toàn quốc để đề cử đại diện đảng ra ứng cử Tổng Thống.
Các ứng cử viên chỉ cần đạt được số phiếu tương đối (simple majority) đã được định trước. Số phiếu nầy là do số đại biểu riêng của mỗi mỗi đảng, để chọn UCV làm đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống. Các đại biểu nầy được gọi là đại biểu có cam kết “Pledged delegates”, thường đã gặp các ứng cử viên tại các phiên hội tại các Precinct, County và State convention hay National Convention. Ngoài các đại biểu chọn từ cấp tiểu bang, cấp lãnh đạo đảng chọn thêm một số đại biểu khác làm “Superdelegates” trong số các Dân biểu, Nghị Sĩ, Thống Đốc của đảng để quyết định ứng cử viên đại diện cho đảng ra tranh cử Tổng Thống trong trường hợp cần có “ Brokered Convetion” để chọn ứng cử viên mỗi khi ứng cử viên chưa đủ túc số phiếu ấn định để đại diện cho đảng ra tranh cử.
Trong cuộc vận động bầu cử TT năm 2016, bà Clinton có nhiều Superdelegates và Ông Sanders tỏ ra bất bình về vấn đề phe phái nầy. Năm 2008, Đảng DC có đến 796 Superdelegates, là những người có chức vụ, quyền thế và có ngân qủy, có khả năng hỗ trợ cuộc bầu cử. Đa số là thành viên của nhóm Establishment, tạo thành một thành trì bảo vệ quyền lợi của đảng.
Đảng Cộng hòa cũng chọn đại biểu từ cấp Precinct, County, State Conventions, để tham dự National Convention, nhưng chọn khoảng trên dưới 2000 đại biểu mỗi kỳ bầu cử. Đảng CH cũng chọn thêm các đại biểu từ các đại hội tại các tiểu bang và từ giới lãnh đạo đảng, nhưng không dùng danh xưng “superdelegates” mặc dù một số delegates được chọn từ trong giới lãnh đạo đảng CH, hay những thành viên của nhóm Establishment của đảng CH.
9. Vận động tranh cử:
Trong tiến trình chọn ứng cử viên từ hàng chục người ghi danh ra tranh cử (contender) cho đến khi chọn được ứng cử viên chính thức đại diện đảng ra tranh cử kéo dài khoảng 2 năm. Trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 2016-2020, theo danh sách ứng viên ghi danh với Federal Election Committee có 37 người ghi danh dự tranh và trên phiếu bầu Tổng Thống Hoa Kỳ 2016, có ghi danh ứng cử Viên của chín (9) đảng chính trị ra tranh cử.
Trong cuộc chạy đua vào Toà Bạch Ốc, đa số ứng viên đã lần lượt rút lui sau những lần tranh luận ”so tài” do các cơ quan ngôn luận tư nhân tổ chức hay qua kết quả bầu cử sơ bộ tại một số tiểu bang mẫu như Iowa, New Hampshire và South Carolina… Ngoài các tiểu bang đông dân cư, có một số tiểu bang không phải là những tiểu bang đông dân số, nhưng là những tiểu bang tiêu biểu cho các khuynh hướng của cử tri và có tính cách thử thách các ứng viên, xem thử các ứng viên có được các tiểu bang nhỏ ủng hộ, như Iowa tiêu biểu cho cử tri ngành nông nghiệp.
Từ năm 1976, UCV Dân Chủ Jimmy Carter thắng hạng nhì tại cuộc bầu cử sơ bộ tại Iowa, sau đó đắc cử Tổng Thống. Đảng DC xem sự thành công sơ khởi tại Iowa một dấu hiệu tốt cho sự thành công trên toàn quốc.
Thử thách thứ hai thường được thực hiện tại New Hampshire, nơi đây đa số cử tri không thuộc DC hay CH mà đa số là cử tri độc lập (independent voter). New Hampshire là một địa bàn tốt thử thách các ứng viên xem thử họ có khả năng thuyết phục các cử tri độc lập?
Ngoài các tiểu bang nêu trên, đảng Cộng Hoà cũng xem tiểu bang South Carolina là một thí điểm tốt để đo lường tâm lý của cử tri và khả năng của ứng cử viên. Các đảng bộ quốc gia Công hòa (National Republican Committee) hay Dân Chủ (Democratic National Committee) buộc lòng phải hỗ trợ những UCV được nhiều phiếu nhất trong các cuộc bầu cử sơ bộ và Đại hội đảng toàn quốc đề cử đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống. Không có chuyện đảng cử những ƯCV không xứng đáng và buộc dân phải bầu như các chế độ độc tài đảng trị. Nhờ thế mà, dù muốn, dù không, ứng cử viên nào đắc cử sẽ trở thành Tổng Thống của toàn dân.
Trong cuộc chạy đua vào toà vào Bạch Ốc năm nay 2024:
Đảng Dân chủ có 3 Ứng cử viên sẽ tham dự bầu cử sơ bộ (Primary election) là Tổng Thống Joe Biden, sinh năm 1942, Tiểu bang Pennsylvania; ông Dean Phillips, sinh năm 1969, tiểu bang Minnesota và bà Marianne Williamson, sinh năm 1952, tiểu bang Texas. Đảng Cộng hoà, ngoài cựu Tổng Thống Donald Trump, sinh năm 1946, tiểu bang New York, còn có ông Chris Christie, sinh năm 1962, tiểu bang New Jersey; ông Ron Desantis, sinh năm 1978, tiểu bang Florida, Bà Nikki Haley, sinh năm 1950, tiểu bang South Carolina, ông Asa Hutchinson, sinh năm 1950, Tiểu bang Arkansas và ông Vivek Ramaswamy, sinh năm 1985 tiểu bang Ohio.
Chúc các ngài mã đáo thành công.
Các cuộc bầu cử sơ bộ thường do các tiểu bang tổ chức theo thời gian và địa điểm thuận tiện do tiểu bang ấn định . Các cuộc bầu cử sơ bộ được tổ chức vào ngày thứ ba trong tuần của nhiều tiểu bang được mệnh danh: “Super Tuesday”.
Trong trường hợp không có ứng viên được đa số phiếu ấn định tại đại hội đảng toàn quốc để được đại diện đảng ra tranh cử Tổng Thống, đại hội đảng toàn quốc sẽ bỏ phiếu quyết định theo phương thức “Brokered Convention” như đảng CH đã dự trù trước đây, nếu UCV Trump không đủ phiếu tín nhiệm theo luật định trong cuộc bầu cử 2016, nhưng trường hợp nầy đã không xảy ra.
Hiến pháp Hoa Kỳ ấn định cuộc bầu cử Tổng Thống được tổ chức vào NGÀY THỨ BA sau ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 11. Các tiểu bang có tính cách phụ trợ quyết định thắng cử như New Hampshire, Iowa, Ohio, Michigan, Pennsylvania, Florida, New Mexico là những Swing states mà các ứng cử viên cần tranh thủ cử tri ngoài những tiểu bang có số cử tri tương đối cố định như các ”Green states” bầu cho ứng viên Dân chủ hay “Red states” thường bầu cho ứng viên Cộng hoà.
Ứng viên đảng DC thường thắng phiếu tại các tiểu bang Minnesota, Washington State, Oregon, California, New York. Đảng CH thường thắng phiếu tại các tiểu bang tại Trung và Đông Mỹ. Có những tiểu bang “yellow” là những tiểu bang có nhiều cử tri độc lập hay “swing state” mà các ứng cử viên Dân Chủ hay Cộng Hoà cần nỗ lực tranh thủ đế thắng.
10. Thể thức đầu phiếu:
Bầu phiếu được áp dụng cho hầu hết các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang theo thể thức bầu cử phổ thông (popular), đa số tương đối (simple majority), trực tiếp (direct) và kín (secret). Đa số tương đối có nghĩa là ứng cử viên nào được nhiều phiếu phổ thông thì được đắc cử.
Tuy nhiên, đắc cử vào chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ không chỉ căn cứ vào phiếu phổ thông (popular vote) mà còn căn cứ vào phiếu của Cử Tri Đoàn (electoral vote). Thông thường, ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông tại một tiểu bang thì thắng luôn phiếu cử tri đoàn cử tri đoàn của tiểu bang đó (Winner-take all). Nhưng thỉnh thoảng có những trường hợp thất cử dù thắng phiếu phổ thông nhưng thua phiếu cử tri đoàn trên toàn quốc.
“Thi không ăn ớt thế mà cay”! Trong cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ năm 2000, ứng cử Viên Albert “AL” Gore có 600,000 phiếu phổ thông cao hơn phiếu phổ thông của ứng Cử Viên George W. Bush. Tuy nhiên ứng cử viên George W. Bush thắng phiếu tại Florida nên số phiếu cử tri đoàn cao hơn Al Gore. Al Gore khiếu nại và Tối Cao Pháp Viện tuyên bố George W. Bush đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2000-2004.
Muốn hiểu rõ thêm trường hợp nầy xin đọc thêm án lệ (Bush v. Gore, 531 US 98 (2000). Sự kiện nầy cũng cho chúng ta thấy vai trò của Tối Cao Pháp Viện quan trọng như thế nào. Tân Tổng Thống đắc cử có cơ hội bổ nhiệm các thẩm phán Tối Cao Pháp Viện có cùng khuynh hướng chính trị trong thời gian 4 hay 8 năm tới. Nếu có nhiều thẩm phán cùng một khuynh hướng trong Tối Cao Pháp Viện tạo thành tình trạng Court packing.
11. Phiếu Phổ Thông và Phiếu Cử Tri Đoàn:
Mỗi tiểu bang có một số “cử tri đoàn” (electoral college) bằng số Nghị Sĩ Liên bang và số Dân biểu Liên bang của tiểu bang: Vi dụ tiểu bang có 2 Nghị sĩ NS và 1 Dân biểu như Delaware. Cử tri đoàn là 3 người. Tiểu bang California có 52 Dân biểu và 2 Nghị sĩ là tiểu bang lớn nhất có 54 phiếu cử tri đoàn.
Hoa Kỳ có 538 phiếu cử tri đoàn gồm có: 100 Nghị Sĩ Liên bang (US Senator) và 438 Dân biểu Liên bang (US House of Representatives). Số dân biểu có thể được điều chỉnh tuỳ theo dân số… Muốn đắc cử Tổng Thống, ứng cử viên phải hội đủ 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu. Nghĩa là ít nhất phải hơn đối thủ 2 phiếu. Ứng cử viên nào thắng phiếu phổ thông tại tiểu bang sẽ thắng luôn phiếu của cử tri đoàn tại tiểu bang đó.
Trong lịch sử bầu cử Tổng Thống Hoa kỳ có vài trường hợp bất thường xảy ra. Năm 1787 Quốc Hội Hoa Kỳ đã tranh luận về vấn đề bầu cử Tổng Thống và để dung hoà hai ý kiến:
1) Tổng thống do Quốc hội bầu (cử tri đoàn) hay do dân chúng bầu (phiếu phổ thông )?
2) Quốc hội đã biểu quyết dùng cả hai phương thức.
Muốn đắc cử, UCV phải thắng phiếu phổ thông thông từng tiểu bang và từ đó thắng tổng số phiếu cử tri đoàn trên toàn quốc.
Như trên đã đề cập, ngoài phiếu phổ thông, Tiểu bang có nhiệm vụ chọn ch ọn cử tri của Cử tri đoàn (electoral college) cho mỗi tiểu bang. Tổng số đại biểu của cử tri đoàn tại mỗi tiểu bang bằng tổng số dân biểu liên bang và 2 nghị sĩ liên bang. Cử tri đoàn của 50 tiểu bang gốm. 100 US nghị sĩ + 438 US dân biểu=538.
Lịch sử bầu Tổng Thống Hoa Kỳ cũng đã ghi lại năm 1800, ứng cử viên Thomas Jefferson và ứng cử viên AAron Burr mỗi người nhận 73 phiếu. Sự kiện này đã được trình Hạ Nghị Viện, chiếu Hiến Pháp Hoa Kỳ để quyết định và UCV Jefferson đã đắc cử. Cuộc bầu cử năm 1824 và 1876 cũng do Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ quyết định mặc dù ứng cử viên trong hai cuộc bầu cử nầy không nhận được đa số phiếu phổ thông.
Năm 2000, Tối Cao Pháp Viện phán George W. Bush đắc cử chức vụ Tổng Thống nhờ có phiếu cử tri đoàn cao hơn phiếu cử tri đoàn của Al Gore, nhưng phiếu phổ thông của Al Gore cao hơn phiếu phổ thông của George W. Bush. Hiện nay, có khuynh hướng vận động bãi bỏ phiếu phiếu cử tri đoàn. Nếu khuynh hướng nầy thắng thế thì những tiểu bang đông dân số sẽ “đè bẹp” các tiểu bang có dân số thấp, tạo nên sự bất công giữa các tiểu bang.
Trong cuộc bầu cử 2020, khoảng 235,087,000 công dân đủ điều kiện đi bầu (Weldon Cooper Center, University of Virginia). Tỷ số ghi danh đi bầu khoảng 70%, Tỷ số ghi danh ước tính căn căn cứ vào thông kê bầu cử các nhiệm kỳ trước. Ứng cử Tổng Thống nào thắng đa số phiếu phổ thông (popular vote) sẽ thắng (winner-take all) phiếu cử tri đoàn (electoral vote) tại tiểu bang đó.
Muốn thắng cử, ứng cử viên Tổng Thống phải đạt được ít nhất 270 phiếu cử tri đoàn trên 538 phiếu.
Trong kỳ bầu cử năm 2016, UCV Trump, đảng CH đạt được 309 phiếu cử tri đoàn và đã đánh bại bà Clinton chỉ có 229 phiếu.
Vấn đề sai biệt giữa phiếu cử tri đoàn và phiếu phổ thông có thể xảy ra vì sự sai biệt dân số và số cử tri đoàn giữa các tiểu bang. Tiểu bang không thể quân phân dân số chính xác khi ấn định số dân biểu Liên bang. Do đó, đã xảy ra trường hợp, một ứng viên có đa số phiếu phổ thông nhưng lại không có đủ số phiếu cử tri đoàn như trường hợp ứng cử viên Al Gore năm 2000 và trường hợp của bà Clinton năm 2016.
12. Tạm kết:
Trong năm 2024, trên toàn thế giới có 60 quốc gia tự do tổ chức bầu cử với khoảng 4 tỷ cử tri, được mệnh danh là năm bầu cử lớn nhất trong lịch sử (the biggest election year in history). Tiếc rằng nhà cầm quyền CS Việt Nam độc tài đảng trị lạc hậu nên nhân dân Việt nam quốc nội mất cơ hội sánh vai với các quốc gia dân chủ, tự do văn minh trên thế giới.
Trên đây là những nhận xét tổng quát về thủ tục bầu cử tại Hoa Kỳ. Tất cả các khiếu nại về bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ, nếu không được giải quyết ở cấp tiểu bang, sẽ được chung quyết bởi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.
Chúc Xuân Giáp Thìn đến tất cả quý vị đồng hương.
01-10-2024
Không có nhận xét nào