Header Ads

  • Breaking News

    Hiệp ước SKYES-PICOT và 100 năm hỗn loạn ở Trung Đông

    Phần 3

    Chủ nghĩa thực dân ở Trung Đông
    Tác giả: Tôn Thất Thông

    Tháng Mười 2023

    https://diendankhaiphong.files.wordpress.com/2023/05/photo-nahost-map.jpg?w=618


    Sự hỗn loạn suốt một thế kỷ ở Trung Đông là hậu quả của Sykes-Picot cho đến hiện tại. Hoa Kỳ, Nga và ở một mức độ nào đó là Liên minh châu Âu là những cường quốc quốc tế mới đã thay thế Anh và Pháp trong việc cố gắng định hình khu vực Trung Đông. Họ có những toan tính riêng liên quan đến cách thức khu vực này nên phát triển như thế nào. Họ đã đầu tư mạng sống và tiền bạc để hiện thực hóa những toan tính đó. Ngoài ra, những cường quốc lớn trong khu vực như Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Saudi Arabia lại có những kế hoạch riêng cho tương lai của khu vực. Nhưng một lần nữa, chính sự thay đổi không ngừng của các chủ thể địa phương, các tác nhân nhà nước và phi-nhà-nước sẽ định hình kết quả cuối cùng cho khu vực [xem Ottaway].

    Khi đế chế Ottoman kêu gọi “thánh chiến” chống lại phe Triple Entente (Anh, Pháp, Nga) vào tháng 11 năm 1914, Vương quốc Anh đã cố gắng thuyết phục người Ả Rập nổi dậy chống lại Ottoman, nhất là sau khi Anh thua trận ở Gallipoli. Bắt đầu từ năm 1915, Cao ủy Anh tại Ai Cập, Sir Henry McMahon và Tiểu Vương Husayn của Mecca đã đàm phán về các điều khoản của một cuộc nổi dậy của người Ả Rập chống lại sự cai trị của Ottoman. Để đổi lấy cho hoạt động quân sự này, Anh cam kết hỗ trợ việc thành lập một quốc gia Ả Rập độc lập sau khi chiến tranh chấm dứt. Cả hai bên đều nhận thấy thế hợp tác cộng sinh để đạt mục đích riêng của mỗi bên. Tuy nhiên vào thời điểm đó, người Ả Rập không hề biết rằng Pháp và Anh đã thực hiện các thỏa thuận khác trong khuôn khổ Hiệp ước Sykes-Picot [xem BPB]. Chính vì những mâu thuẫn rõ rệt về nội dung hai cuộc thương lượng song song nói trên, cho nên Sykes và Picot đã phải đàm phán và ký kết hiệp ước trong bí mật.

    Sự sắp xếp bí mật giữa Anh, Pháp và Nga ngay từ đầu đã mâu thuẫn với những cam kết mà người Anh đã hứa hẹn cho vương triều Hashemite Ḥusayn Ibn Ali, Tiểu vương vùng Mecca, trong suốt thời gian thương thảo và thư từ qua lại giữa hai bên trong năm 1915. Dựa trên sự thỏa thuận rằng người Ả Rập cuối cùng sẽ hưởng quyền độc lập, Ḥusayn đã tổ chức người Ả Rập ở Hejaz nổi dậy chống lại lại Ottoman kể từ giữa năm 1916 [xem Encyclopedia]. Trong bối cảnh đó, hiệp ước Sykes-Picot là một công cụ của Anh và Pháp mang tính chất đánh lừa người Ả Rập. Những hứa hẹn về độc lập trong lúc còn chiến tranh chỉ là lời hứa suông có tính chiến thuật ngắn hạn nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi lâu dài của Anh và Pháp ở khu vực Trung Đông.

    Khi Ngoại trưởng Balfour báo cáo về hiệp ước Sykes-Picot cho Edward House, cố vấn chính sách đối ngoại của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson, thì House chỉ phê bình trong nội bộ: “Mọi chuyện được thiết kế thật tồi tệ và tôi đã nói với Balfour như thế. Đây là cách họ tạo ra lò ấp trứng cho một cuộc chiến trong tương lai”. Thực vậy, nhà sử học người Anh James Barr gọi kế hoạch Sykes-Picot là một “bài tập hàn lâm” chứ không phải là một bản thiết kế cẩn thận của một chính phủ sáng suốt. Khi đế chế Ottoman tan rã, các cường quốc châu Âu trở thành thế lực chiếm đóng và tất nhiên giữ trách nhiệm vùng Trung Đông. Nói cách khác, “người Thiên Chúa giáo sẽ cai trị cộng đồng Hồi giáo”. Những công chức thuộc địa vốn dĩ không hiểu gì về văn hóa địa phương, đã vẽ lên những đường biên giới để phân chia quyền lợi của các cường quốc thực dân mà không hể để ý đến yếu tố chủng tộc, văn hóa, bản sắc của cư dân địa phương; cứ thế, những quốc gia mới mẻ được thành hình một cách tùy tiện, như Syria, Iraq, Jordan [xem Hermann].

    Thực sự Anh và Pháp chưa hiểu văn hóa bộ tộc ở địa phương, mà lại không chịu học hinh nghiệm của đế chế Ottoman vốn đã cai trị thành công khu vực này suốt bảy thế kỷ. Dưới sự thống trị của Ottoman, vùng đất này tương đối sống trong hòa bình. Đế chế Ottoman đã chia khu vực thành những vùng nhỏ có dân cư đồng nhất để ngăn ngừa xung đột vốn dĩ có thể xảy ra khi nhiều nhóm dân tộc khác nhau được gộp chung vào nhau. Ngoài ra, vùng dân cư càng nhỏ thì càng dễ quản lý. Các cường quốc thực dân châu Âu không hiểu nguyên lý đó: Họ đã gộp ba tỉnh của Ottoman (Baghdad, Mosul und Basra) để tạo nên một quốc gia mà họ đặt tên là Iraq với ba giống dân khác nhau Ả Rập, Kurds và Thổ khó lòng đoàn kết, thêm vào đó là xung khắc tôn giáo giữa phái Sunni và Shia, mỗi bên chiếm gần một nửa cư dân Hồi giáo. Nước Syria thì được tạo thành bởi ba tỉnh khác mà trong thực tế, một quốc gia như thế khó lòng trở thành hiện thực. Để giữ cho những quốc gia nhân tạo đó được sống trong hòa bình, người ta cần trước hết là quân đội và cảnh sát của các thế lực thực dân bảo hộ và sau đó là những chế độ độc tài cai trị bằng bàn tay thép. Khi các sức mạnh đó không còn tồn tại, cả vùng đất rộng lớn sẽ rơi vào chiến tranh và hỗn loạn [xem Hermann].

    Đó là trường hợp chúng ta có thể thấy rõ ở Iraq và Syria, cho đến thế kỷ 21 vẫn còn hỗn loạn, chia rẽ, xung khắc tôn giáo, nội chiến. Nguyên do chính vì sự thiếu đồng nhất về dân tộc tính trong quốc gia, tạo nên xung khắc nội bộ mà để áp chế nó, họ cần một nhà nước chuyên chế với một thủ lĩnh cứng rắn, cai trị đất nước bằng bạo lực. Suốt một thế kỷ dài, phản ứng chua chát đối với quá trình thực hiện hiệp ước Sykes-Picot thể hiện qua những ý thức hệ chính trị cực đoan dần dần thành hình trong các quốc gia, thí dụ như học thuyết Nasser ở Ai Cập, học thuyết Baath ở Iraq và Syria, tất cả đều đặt trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi có mặt khắp nơi trên vùng đất Trung Đông. Hậu quả tai hại nhất là từ đó thành hình phong trào phục hồi Nhà nước Hồi giáo. Chúng ta còn nhớ năm 2014, khi Nhà nước Hồi giáo muốn xóa biên giới giữa Syria và Iraq, họ tuyên bố sẽ xóa bỏ tất cả biên giới các nước Trung Đông và khai tử hiệp ước Sykes-Picot. Sau khi càn quét những vùng đất rộng lớn ở Syria và Iraq, thủ lĩnh Abu Bakr al-Baghdadi của họ tuyến bố rằng, “sự bành trướng này sẽ không dừng lại cho đến lúc chúng ta đóng chiếc đinh cuối cùng lên chiếc quan tài của mưu đồ Sykes-Picot” [xem Wright]. Bất kể số phận của Nhà nước Hồi giáo hiên nay như thế nào, tương lai của hai nước Syria và Iraq dường như rất vô định, khó ai đoán được tương lai của họ sẽ như thế nào.

    Việc Sykes và Picot tùy tiện vẽ lại các đường biên giới tưởng tượng đưa đến hậu quả là, khi sau này trở thành những quốc gia độc lập, không có một quốc gia nào có dân cư đồng nhất về văn hóa, bất kể biên giới được vẽ lại thế nào sau chiến tranh. Trong lịch sử thực dân, Anh và Pháp chỉ có kinh nghiệm về chuyện chiếm đất, kiểm soát người bản xứ, đàn áp các cuộc nổi dậy và quản lý thuộc địa thế nào để mang lại lợi ích cho mẫu quốc, chứ chưa hề có kinh nghiệm về việc thành lập quốc gia mới, huống hồ không chỉ là một mà hàng loạt quốc gia mới cần được thành lập ở Trung Đông sau Thế chiến I. Anh và Pháp có đủ sức mạnh để đàn áp phe phản kháng và giữ quyền kiểm soát, nhưng không có thời gian hoặc năng lực để xây dựng một hệ thống chính trị hoạt động tốt với các định chế cần thiết, và kiến tạo một bản sắc chung bên trong các biên giới [xem Ottaway]. Vì thế, các quốc gia được thành lập vẫn trống rỗng và bất lực, trong thời kỳ còn bị bảo hộ, cũng như sau này khi đã độc lập một thời gian dài. Bất ổn, nổi loạn, đảo chánh quân đội là chuyện xảy ra thường kỳ. Thí dụ, chỉ riêng tại Iraq trong năm 1941, có năm cuộc đảo chánh. Tóm lại, Trung Đông vẫn tiếp tục hỗn loạn, nhất là khi chiến tranh lạnh bắt đầu từ 1948, sự tranh giành ảnh hưởng tại đây giữa hai ý thức hệ càng làm cho khu vực này hỗn loạn hơn. Trung Đông trở thành bãi chiến trường thường trực suốt một thế kỷ và chắc hẳn còn tiếp tục kéo dài.

    Bất chấp thỏa thuận Sykes-Picot, ban đầu, người Anh vẫn tỏ ra ủng hộ quyền tự quyết của người Ả Rập, giúp con trai của Ḥusayn là Fayṣal và lực lượng của ông ta tiến vào Syria (vùng của Pháp) vào năm 1918 và thành lập chính phủ ở Damascus. Tuy nhiên, tại Hội nghị San Remo vào tháng 4 năm 1920, các cường quốc Entente đã đồng ý phân chia quyền quản lý khu vực thành các nhiệm vụ riêng biệt, theo các đường lối tương tự như những đường lối đã được thỏa thuận trong Hiệp ước Sykes-Picot. Biên giới của các lãnh thổ này chia cắt các vùng đất Ả Rập và cuối cùng dẫn đến các biên giới hiện đại của Iraq, Israel và các lãnh thổ Palestine, Jordan, Lebanon và Syria, bất chấp tình trạng phân hóa về chủng tộc và giáo phái của các nhóm dân cư. Các cuộc xung đột đẫm máu hiện nay ở Syria và Iraq chứng tỏ rằng, sự chia cắt tùy tiện vùng Trung Đông rộng lớn dựa vào thiết kế của Sykes-Picot và hội nghị San Remo chỉ dẫn đến xung đột không bao giờ dứt.

    Sykes và Picot cố gắng vẽ lại các đường biên giới của khu vực Ả Rập, nhưng hoàn toàn bất lực trong việc định hình các nhà nước trong biên giới đó có khả năng đoàn kết người dân. Ngoài ra, hai nhà ngoại giao này không hề cứu xét đến những yếu tố phức tạp của một vùng rộng lớn, nơi nhiều dân tộc, bộ tộc và giáo phái khác nhau đã định cư ở đó lâu đời, với những phong tục tập quán, văn hóa và tôn giáo khác nhau, phần nào là thù địch nhau. Trong lúc đàm phán hiệp định, Anh và Pháp đã bỏ qua nhiều yếu tố, không chỉ phớt lờ vấn đề về quyền tự quyết của người Ả Rập trong lãnh thổ do họ định đoạt, mà còn thiếu tầm nhìn về phản ứng của họ có thể xảy ra.

    Chủ quan tin chắc rằng người Ả Rập chưa đủ điều kiện để tự cai trị, hai thế lực thuộc địa châu Âu này dường như cũng tin rằng người Ả Rập sẽ giữ thế thụ động. Thực tế thì ngược lại, cách tiếp cận kiêu ngạo của hai cường quốc châu Âu đã khuấy động chủ nghĩa dân tộc trong tâm lý người Ả Rập có cơ hội hình thành, phát triển sâu rộng và lâu dài. Song song với sự suy yếu của đế chế Ottoman, những người theo chủ nghĩa dân tộc phát triển đặc biệt mạnh mẽ ở Ai Cập, Syria, Iraq và những vùng khác [xem Ottaway]. Đấy là chưa kể những người theo chủ nghĩa dân tộc Thổ dưới sự lãnh đạo của Mustafa Kemal Ataturk đã tranh đấu ngoan cường chống lại liên minh Triple Entente để cuối cùng giữ được quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ với ranh giới cho đến hôm nay, dù diện tích quốc gia bị thu hẹp chỉ còn 1/5 so với tiền thân Ottoman trước đó.

    Nói cách khác, những tác nhân địa phương không những không thụ động, mà còn tích cực hoạt động làm cho những toan tính ban đầu của Sykes và Picot về một trật tự hậu-Ottoman khó lòng được thực hiện tốt đẹp. Điều phiền toái hơn là chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo có cơ hội phát triển mạnh mẽ, để lại nhiều tai họa cho đến thế kỷ 21, nhất là điều mà ngày nay chúng ta gọi là Nhà nước Hồi giáo khủng bố. Khi Hoa Kỳ vươn dậy mạnh mẽ ở giai đoạn cuối của Thế chiến I, các cuộc hòa đàm sau chiến tranh đã diễn tiến khác hẳn toan tính của Anh và Pháp trước đó, và chính trị Trung Đông cũng trở nên phức tạp hơn nhiều.

    Nhìn theo cách này hay cách khác, Trung Đông sau Thế chiến I đã trở thành thuộc địa và vùng bảo hộ chủ yếu của Anh, Pháp và thêm vài cường quốc khác. Hậu quả tất yếu là các cuộc nổi dậy của cư dân bản địa đứng lên đòi độc lập. Anh và Pháp thẳng tay đàn áp suốt nhiều thập niên. Thống đốc tỉnh Erbil của Iraq, Nawzad Hadi Mawlood nhận xét rằng, “hàng trăm ngàn người đã bỏ mạng vì hiệp ước Sykes-Picot và những vấn đề do nó sinh ra. Nó đã thay đổi tiến trình lịch sử Trung Đông cũng như bản chất chính trị của vùng này”. Kỷ niệm 100 năm hiệp ước Sykes-Picot, chúng ta phải cay đắng đặt thêm câu hỏi rằng, với những biến cố cuồng nộ trong vùng, liệu biên giới hiện nay sẽ còn tồn tại lâu dài hay không. Cựu Thủ tướng Iraq, Barham Salih phát biểu trong diễn đàn Sulaimani của người Kurds ở Iraq rằng, “hệ thống được xây dựng cả 100 năm vừa qua đang sụp đổ. Tôi không biết một cách chắc chắn rằng, một hệ thống khác với hình thù như thế nào sẽ thay thế hiện trạng” [xem Wright].

    Đến thế kỷ 21, sau cuộc tấn công của Hoa Kỳ và Anh vào Iraq vào năm 2003, Sadam Hussein bị hạ bệ và Iraq rơi vào tình trạng trống rỗng về quyền lực chính trị, cho nên các lực lượng khủng bố Hồi giáo tập hợp dưới ngọn cờ “chống lại sự thống trị của Hoa Kỳ và phương Tây”. Đây là thời khắc sinh thành của Nhà nước Hồi giáo (IS – Islamic State) dẫn đến thời kỳ hỗn loạn mới tại Trung Đông kéo dài tới tận hôm nay vẫn chưa dứt. Cuộc chiến Iraq từ 2003 đến 2011 làm cho 5.000 lính Hoa Kỳ – Anh và 10.000 lính Iraq tử trận, 108.000 thường dân Iraq thương vong. Tốn kém của Hoa Kỳ là 700 tỉ đô la, chưa kể những con số trong bóng tối, thí dụ như kinh tế gia đoạt giải Nobel, Joseph Stiglitz phỏng đoán con số 3.000 tỉ đô la. Dù cho những thiệt hại to lớn đó, Hoa Kỳ vẫn thất bại trong sứ mệnh mang lại ổn định cho Iraq. Sau khi rút quân vào năm 2011, Hoa Kỳ để lại một tình trạng hỗn loạn về chính trị, bất ổn về an ninh hơn trước đó rất nhiều. Vì thế, lực lượng IS càng hoạt động mạnh mẽ hơn, để cuối cùng ba năm sau, vào năm 2014 IS đã càn quét nguyên một vùng rộng lớn tại Iraq và Syria.

    Tiền đề của chính sách của Hoa Kỳ – cũng như mọi cường quốc bên ngoài khác – ngày nay trong việc ổn định tình trạng khó khăn ở Iraq, chấm dứt cuộc nội chiến hủy diệt ở Syria và đối đầu với Nhà nước Hồi giáo, là bảo vệ các biên giới liên quan đến Sykes-Picot. Kể từ tháng 8 năm 2014, Hoa Kỳ đã đầu tư hơn 11 triệu đô la mỗi ngày cho các hoạt động quân sự, bao gồm gần 9.000 cuộc không kích vào Iraq và hơn 5.000 cuộc không kích vào Syria. Đối với cuộc khủng hoảng tị nạn nhân đạo tồi tệ nhất thế giới hiện đang tràn ra khỏi Syria trên khắp các quốc gia Trung Đông và châu Âu, Washington đã cam kết bảy trăm triệu đô la vào năm 2016, với nhiều hứa hẹn hơn nữa. Phần còn lại của thế giới – từ châu Âu đến các vương quốc vùng Vịnh, Nga đến Iran – đã đổ hàng tỷ USD vào việc duy trì biên giới, ngay cả khi họ theo đuổi các kết quả chính trị khác nhau [xem Wright].

    Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình an ninh ở Trung Đông, chúng ta thử lược qua một liệt kê ngắn những cuộc chiến lớn – chưa kể những xung đột lẻ tẻ – từ sau Thế chiến II cho đến ngày nay. Trong một dịp khác chúng ta sẽ phân tích thêm nguyên nhân và hậu quả của những cuộc chiến đó.

    Biên niên sử:

    Đến đây chúng ta thử ghi lại những cuộc chiến ở Trung Đông kể từ 1948, hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ những toan tính của hai cường quốc thực dân Anh và Pháp trong Thế chiến I và ý đồ địa chính trị của các siêu cường mới nổi sau Thế chiến II. Chưa kể những xung đột lẻ tẻ, sau đây là danh sách (chưa đầy đủ) các cuộc chiến lớn trong vùng Ả Rập Trung Đông:

    1948: Cuộc chiến giữa sáu nước Ả Rập và Israel, sau khi Israel tuyên bố thành lập quốc gia mới trên vùng đất Palestine. Kết quả là Israel chiếm thêm 6.000 cây số vuông đất của người Palestine.

    1956: Chiến tranh Ả Rập-Israel lần thứ hai, với sự hỗ trợ của Anh và Pháp dành cho Israel, sau khi Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez. Israel chiếm bán đảo Sinai của Ai Cập và giải Gaza của Palestine.

    1967: Chiến tranh Ả Rập-Israel lần thứ ba, còn gọi là “chiến tranh sáu ngày“. Hậu quả là Israel chiếm thêm đất của Palestine, tiến vào Tây Jerusalem và chính thức chiếm đóng tất cả vùng đất thuộc Palestine. Kể từ đây, Palestine bị chiếm đóng và cai trị bởi quân đội Israel.

    1973: Chiến tranh Ả Rập-Israel lần thứ tư. Lần đầu tiên các nước Ả Rập, với vũ khí tối tân của Liên Xô, đã thắng Israel, làm sụp đổ huyền thoại “bất khả chiến bại“ của Israel. Cuộc chiến này cũng đánh dấu một giai đoạn mới về cuộc đọ sức vũ khí giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Tình hình Trung Đông kể từ đây càng phức tạp hơn nhiều với sự vươn dậy của những lực lượng khủng bố vốn đã từ chối giải pháp hòa bình. Trong bối xung đột gay gắt, các nước xuất khẩu dầu mỏ ở Trung Đông (OPEC – Organization of Petroleum-Exporting Countries) lần đầu tiên dùng dầu mỏ làm vũ khí chống lại phương Tây, dẫn đến cuộc khủng hoảng năng lượng thế giới năm 1973 và kéo dài hai năm chưa dứt.

    1975-1990: Chiến tranh Lebanon, một cuộc chiến dai dẳng kéo dài 15 năm, bắt đầu từ xung đột giữa cộng đồng Ả Rập và giáo dân Thiên chúa giáo thân phương Tây. Cuộc chiến dần dần lôi kéo các lực lượng ủng hộ từ các nước láng giềng như Syria, Jordan. Israel cũng tham gia bằng cách xua quân vượt qua biên giới Lebanon để tiêu diệt PLO (Palestine Liberation Organization) và củng cố các nhóm dân quân thân Israel ở Lebanon.

    1980: Israel thôn tính cả Đông và Tây Jerusalem, tuyên bố Jerusalem từ đây là thủ đô vĩnh viễn của Israel. Sự kiện này mở đầu cho những xung đột mới Trung Đông càng khốc liệt hơn trước. Dù Liên Hiệp Quốc không thừa nhận việc này nhưng, với lá phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ, cũng không ép được Israel rút quân ra khỏi Jerusalem và các vùng thôn tính khác.

    1980-1988: Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (giữa Iraq và Iran) kéo dài 9 năm với kết quả thiệt hại nhân mạng chưa bao giờ có ở Trung Đông. Nguồn thống kê tin cậy phỏng đoán rằng, 300 ngàn người Iraq và 500 ngàn người Iran thiệt mạng qua cuộc chiến. Có nguồn khác thì phỏng đoán hơn một triệu người tử vong ở cả hai bên, nguồn khác phỏng đoán bảo thủ là 367 ngàn nhân mạng cả hai bên. Đấy là chưa kể thiệt hại cơ sở vật chất của Iran lên đến 644 tỉ đô la và Iraq 452 tỉ đô la [xem Wikipedia]. Cuối cùng, kẻ hưởng lợi nhiều nhất là những nước cung cấp vũ khí cho cả hai bên: Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức và một vài nước khác.

    1982: Chiến tranh Ả Rập-Israel lần thứ năm (chiến tranh Lebanon). Đây là cuộc chiến giữa một bên là Israel và các nhóm dân quân địa phương tiến vào Lebanon với mục đích là tiêu diệt PLO và các lực lượng ủng hộ từ Seria. Dù ngưng chiến sau hai tháng giao tranh, nhưng Lebanon vẫn không thể ổn định một thời gian dài. Israel chiếm miền nam Lebanon cho đến năm 2000 mới rút quân. Ủy ban điều tra của Israel kết luận vào năm 1983 rằng, đây là sai lầm của Thủ tướng Israel Benin và Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Scharon đã không kiểm soát tình hình dẫn đến bạo lực đáng bị lên án. Cả hai phải từ chức sau đó.

    1982: Trong bối cảnh chiến tranh Lebanon nói trên, Hisbollah vươn dậy và được thành lập vào năm 1982 với tư cách là một tổ chức bán quân sự ngầm thông qua sự hợp nhất của nhiều nhóm Shia khác nhau chống lại cuộc xâm lược của Israel vào thời điểm đó. Căn cứ địa của tổ chức này là miền nam Lebanon, trong thung lũng Bekaa ở phía nam Beirut. Đứng đầu họ là các học giả Shia; cơ quan tinh thần tối cao là nhà lãnh đạo cách mạng của Cộng hòa Hồi giáo Iran. Những hỗn loạn xảy ra sau này giữa Palestine, Lebanon và Israel đều ít nhiều có bàn tay Hisbollah dính vào.

    1987-1991: Intifada lần thứ nhất. Intifada tiếng Ả Rập có nghĩa là nổi dậy hoặc ly khai, lần này mang ý nghĩa bất hợp tác, bất phục tòng với bộ máy cai trị của Israel. Phong trào bắt đầu từ một trung tâm định cư người tị nạn Palestine, rồi lan rộng ra dải Gaza và Tây Jordan, ngày càng cực đoan và bạo động, kéo dài bốn năm đến 1991 mới từ từ lắng xuống.

    1990-1991: Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai giữa Iraq và liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo. Vào tháng 8 năm 1990, Iraq xâm chiếm Kuwait và sát nhập Kuwait vào lãnh thổ Iraq. Đây là cuộc chiến đầu tiên giữa hai nước Ả Rập. Để bảo vệ quyền lợi dầu mỏ, Hoa Kỳ tập hợp một lực lượng đồng minh kể cả các nước không Ả Rập ở trong vùng như Israel, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran – với sự chính thức hóa của LHQ qua nghị quyết 618 – tấn công Iraq, và sau bốn tháng, đẩy lùi quân Iraq và trả lại độc lập cho Kuwait.

    2000-2005: Intifada lần thứ hai. Lãnh tụ đối lập của Israel Ariel Sharon trong lúc vận động tranh cử đã đến thăm đền Tempelberg, vốn ở trong vùng Đông Jerusalem thuộc Palestine. Mục đích của Sharon là gởi một tín hiệu đến cử tri rằng, toàn bộ Jerusalem thuộc về Israel. Điều này làm cho người Palestine giận dữ và tổ chức Intifada lần thứ hai với quy mô lớn hơn, nhiều bạo lực hơn và thiệt hại nhân mạng cũng rất cao.

    2003: Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ ba. Lấy lý do truy lùng vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq, Hoa Kỳ và Anh – dù không có sự hợp thức hóa của Liên Hiệp Quốc và sự chống đối hầu hết các nước đồng minh cũ – tấn công Iraq, chiếm Baghdad trong vòng hai tháng. Sadam Hussein bị bắt sống vào cuối năm đó. Có thể xem đây là sai lầm chiến lược của Hoa Kỳ. Suốt 8 năm sau, người ta không tìm thấy bằng chứng nào về việc nghiên cứu và sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq. Trong 8 năm chiếm đóng, Hoa Kỳ đã tiêu tốn hơn 700 tỷ đô la, 5.000 lính Mỹ, 10,000 lính Iraq và 108.000 thường dân tử vong. Cuộc chiến này làm cho cộng đồng Ả Rập càng thù ghét Tây Phương, nhất là Hoa Kỳ. Quốc gia Hồi giáo được thành lập trong giai đoạn này, làm cho Trung Đông ngày càng hỗn loạn hơn.

    2004: Khi Hoa Kỳ càn quét Iraq và hạ bệ Sadam Hussein trong vòng vài tháng nhưng chưa kịp thiết lập hệ thống quyền lực địa phương, các nhóm Hồi giáo cực đoan tập hơp lực lương và thành lập Quốc gia Hồi giáo (IS – Islamic State). Đến đây, tình hình Iraq nói riêng và cả Trung Đông nói chung trở nên phức tạp hơn với một tác nhân mới hoạt động với mục đích biến vùng Trung Đông thành một quốc gia Hồi giáo (Caliphate) như trước đó 1000 năm trong đế chế Ả Rập.

    2006: Cuộc chiến Lebanon kéo dài 33 ngày giữa Israel và lực lượng Hisbollah. Ban đầu cuộc chiến tranh mang tính chất cục bộ ở miền Nam Lebanon dọc biên giới với Israel. Dần dần cuộc chiến leo thang với sự phong tỏa đường biển bởi hải quân Lebanon và oanh tạc nhiều địa phận khác nhau ở khắp Lebanon. Cuộc chiến chấm dứt với hơn 1500 người tử vong, đa số là thường dân chết vì các cuộc không kích của Israel. Thiệt hại vật chất, nhất là chung cư cao tầng, thì vô số kể. 

    2013-2017: Sự vương dậy của Quốc gia Hồi giáo (IS). Sự thành hình lực lượng IS thực ra đã bắt đầu từ năm 1999 ở Iraq. Để chống lại chính sách cai trị hà khắc của Sadam Hussein, phong trào phảng kháng được dấy lên dưới sự lãnh đạo của một nhóm sĩ quan quân đội và cảnh sát có kinh nghiệm chiến đấu. Đến khi Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq năm 2003 và cuối cùng phải rút quân vào năm 2011, họ đã để lại một khoảng trống quyền lực và rối loạn an ninh, cho nên  IS bắt đầu vươn dậy mạnh mẽ, lực lượng ngày càng đông để cuối cùng thành lập Quốc gia Hồi giáo. Vào năm 2014, sau khi càn quét một vùng rộng lớn liền kề ở Tây Bắc Iraq và Đông Syria, IS tuyên bố thành lập Vương quốc Hồi giáo (Califate) với viễn kiến phục hồi đế chế Hồi giáo theo mô hình của Đấng tiên tri Mohammed. Mặc dù IS đã bị đẩy lùi sau ba năm, nhưng mầm mống vẫn còn và lực lượng vũ trang của IS rút về khu vực Trung Phi, tạo nên một sự bất ổn mới cho đại lục Phi Châu.

    Kể từ 2017, Trung Đông vẫn tiếp tục hỗn loạn. Syria thì chiến tranh liên miên hơn 10 năm nay, không chỉ là giữa ba phe nội bộ đối lập (chính quyền Assad, IS và Kurdistan), mà Syria đã trở thành bãi chiến trường không những giữa các siêu cường quốc tế Hoa Kỳ, Nga mà còn bị xâu xé bởi các cường quốc khu vực Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Hisbollah. Viễn tượng hòa bình ở Syria dường như không thể tiên đoán được lúc nào sẽ đến. Ở Iraq, tình hình cũng tồi tệ không kém. Chính phủ trung ương Bagdah chưa hề thành lập được một chính phủ ổn định có khả năng cân bằng quyền lực của các phe tranh chấp. Người Kurds vẫn tiếp tục đấu tranh cho quyền tự trị và chính sách bình đẳng từ trung ương. Chúng ta cũng không quên rằng, chính quyền địa phương người Kurds có một lực lượng quân sự rất mạnh, bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành mối đe dọa cho an ninh quốc gia. Một nước Iraq giàu có với trữ lượng dầu mỏ khổng lồ cách đây 30 năm, nay chỉ còn là một cái xác không hồn. Triển vọng để dân chúng đạt được phồn vinh như 30 năm trước dường như là một giấc mơ khó biến thành hiện thực. Cũng không ai tiên đoán được, bao giờ thì chiến tranh Iraq-Iran sẽ bộc phát trở lại; xung đột biên giới giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Syria có thể bùng phát thành chiến tranh giữa hai quốc gia hay không.

    Không biết Sykes và Picot có tiên đoán kế hoạch của họ cách đây 100 năm, nay đã trở thành ác mộng cho cả khu vực?

    ./.

    Tác giả: Tôn Thất Thông

    Tài liệu tham khảo

    1.  Asseburg, Muriel: Der Nahostkonflikt (Xung đột ở Trung Đông). Landeszentrale für Politische Bildung – Baden Würtemberg (Trung tâm giáo dục chính trị bang Baden-Würtemberg).  

    2.  Avalon Project (Yale University of Law): The Sykes-Picot agreement of 1916 (Toàn văn bản Hiệp ước Sykes-Picot năm 1916).

    3.  Avalon Project (Yale University of Law): United Nations General Assembly Resolution 181 (Nghị quyết số 181 của Liên Hiệp Quốc về việc phân chia Palestine thành hai quốc gia).

    4.  BBC Monitoring: Sykes-Picot marked with bitterness and regret by Arab media (Truyền thông Ả Rập ghi nhận Sykes-Picot với sự cay đắng và ân hận). BBC 2016.

    5.  BPB Editor: Vor 100 Jahren: Großbritannien und Frankreich vereinbaren das Sykes-Picot-Abkommen (Cách đây 100 năm: Anh và Pháp ký hiệp ước Sykes-Picot). Bundeszentrale  für Politische Bildung, 2016.

    6.  Dingley, James: Kurdistan zwischen Autonomie und Selbstveranwortung (Kurdistan giữa tự trị và tự lãnh trách nhiệm). APuZ – Aus Politik und Zeitgeschichte.

    7.  Encyclopaedia Britannica: Sykes-Picot Agreement 1916.

    8.  Hermann, Rainer: Wurzel des Nahostkonflikts (Nguồn gốc các xung đột ở Trung Đông). Frankfurter Allgemeine Zeitung FAZ, 2016.

    9.  Muir, Jim: Sykes-Picot – The map that spawned a century of resentment (Bản đồ sản sinh một thế kỷ hận thù). BBC 2016.

    10.  Ottaway, Marina: Learning from Sykes-Picot (Bài học từ Hiệp ước Sykes-Picot). Publication of Wilson Center, Washington DC – Middle East Program 2015.

    11.  Philipp, Thomas: Die Palästinensische Gesellschaft zu Zeiten des Britischen Mandats (Xã hội người Palestine trong thời kỳ Anh cai trị ủy thác). BPB – Bundeszentrale  für Politische Bildung.

    12.  Sahin, Memo: Ein Grosskurdistan aus den Trümmern Iraks und Seriens? (Một đại quốc gia Kurdistan từ đống tro tàn của Irak và Seria?). Network of the German Peace Movement.

    13.  Schareika, Nora: Wie Willkür zum Dauerzustand wurde (Sự tùy tiến biến thành tình trạng lâu dài như thế nào). N-TV.

    14.  Wright, Robin: How the Curse of Sykes-Picot Still Haunts the Middle East (Tại sao Hiệp ước Sykes-Picot vẫn ám ảnh Trung Đông). The Newyorker 2016.


    Không có nhận xét nào