Header Ads

  • Breaking News

    Lạp Chúc Nguyễn Huy * - Văn Hóa XHCN tại Việt Nam Bài 15 và 16

    Người cộng sản thất trận văn hóa như thế nào?

    * Cựu Giảng sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn

    Bài 15. Nội chiến văn hóa tại Bắc Bộ

    October 8, 2022

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/10/bai15_img01.png

    Trận địa tại miền Bắc 

    Trong thời kỳ 1945-1986, miền Bắc cộng sản trải qua thời kỳ cưỡng bách văn hóa lần thứ ba[1] do chính người Việt ép buộc người Việt theo văn hóa XHCN gốc lý thuyết Mác-Lenin và Mao Trạch Đông. Trong thời kỳ này người Việt tự hủy diệt văn hóa cổ truyền của người Việt để áp đặt lên dân tộc Việt một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa gốc ngoại lai.  Sự  cưỡng bách văn hóa lần thứ ba trải qua ba thời kỳ:

    Xóa bỏ văn hóa cũ,

    Cải cách ruộng đất,

    Trở về văn hóa cổ truyền.

    Sau ngày 30/4/1975, văn hóa Sài Gòn (sách báo, âm nhạc) lan tràn ra miền Bắc gây ra các hậu quả sau:

    Đời sống tinh thần người dân tuân theo qui luật văn hóa hấp thụ tự nhiên,

    Chối bỏ văn hóa XHCN,

    Hồi sinh văn hóa cổ truyền.

    Xóa bỏ xã hội cũ

    Với khẩu hiệu :« Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rễ », văn hóa hữu thể cùng với những cây cột chống đỡ bị hủy diệt là cơ sở hành chánh, chính trị và cơ sở tín ngưỡng văn hóa đình, chùa.

    Xóa bỏ cơ sở hành chánh, chính trị

    Cách mạng tháng 8-1945 bãi bỏ hết hội đồng kỳ mục, lý dịch, dòng họ, giáp, phe phường và sự vận hành của hương ước (luật lệ) của làng  thay thế bằng Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (có các ban ngành) thuộc tổ chức của Đảng.

    Triệt tiêu thượng tầng lãnh đạo cơ sở tức  các thành phần ưu tú (cựu quan lại, chức sắc kỳ hào, điền chủ giàu có…) nắm giữ cơ cấu văn hóa nông thôn bằng chụp lên đầu đủ mọi nhãn hiệu : tay sai đế quốc, cường hào ác bá, phản động, chống cách mạng để tước đoạt tài sản đem chia lại cho bần cố nông… Sau đó, họ bị đấu tố, xử bắn, xử tử, thủ tiêu cùng với chính sách cải cách ruộng đất.

    Phá hủy cơ sở của văn hóa hữu thể  

    Triệt tiêu văn hóa vật thể : phá hủy đình, chùa, đền làng,  nhiều sách vở chữ nho và chữ nôm, hoành phi, câu đối bị đốt[2]. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, trả lời câu hỏi vì sao chủ nghĩa cộng sản xoá bỏ tôn giáo và đạo đức cũ, Marx và Engels viết : “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền ; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất là  với những tư tưởng cổ truyền[3]“. Hồ Chí Minh nói :”Gia đình to (cả nước) và gia đình nhỏ : Cái nào nặng ? Cái nào nhẹ ? Người cách mạng chọn gia đình to.” (HCM, Tuyển tập, Tập 4 ).

    Cấm cản văn hóa phi vật thể

    Từ năm 1945, sự ép buộc người Việt theo văn hóa XHCN được biểu lộ qua các sự hủy diệt văn hóa cổ truyền bằng dùng quyền lực để cấm đoán văn hóa phi vật thể như là tín ngưỡng (thờ thần thánh, tổ tiên, lên đồng), hội làng (lễ hội, ca trù, quan họ …), tập tục đều bị coi là tàn dư của văn hóa phong kiến. Trong hồi ký “Chuyện làng ngày ấy”, nhà thơ Võ Văn Trực đã kể khá sinh động chuyện làng của ông phá bỏ chùa chiền, miếu mạo, tập thể hóa cả mồ mả ông bà[4] .

    Cải cách ruộng đất[5]

    Tại sao phải cải cách ruộng đất? Hồ Chí Minh trả lời:

    Nông dân không có đất vì “Giai-cấp địa-chủ phong-kiến không đầy 5 phần trăm dân-số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất…” (Hồ Chí Minh),

    Cải cách ruộng đất là làm cách mạng nông thôn vì “nông thôn phải kinh qua 2 cuộc cách mạng: Cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là từ chỗ thực hiện tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã hội hóa nông nghiệp” (Hồ Chí Minh).

    Giải thích của Tố Hữu:

    Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ.
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
    Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
    Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.
     

    Những vần thơ lên án địa chủ của Tố Hữu sáng tác:

    Những quân cướp ruộng cướp nhà
    Những quân đè cổ lột da giống nòi.
    Bọn địa chủ cắm vòi hút máu,
    Phải vùng lên mà đấu thẳng tay.
    Thực dân địa chủ một bầy,
    Chúng là thú vật ta đây là người.

    Rồi hô hào dân chúng:

    Thắp đèn cho sáng ba gian,
    Lôi mi ra giữa đình làng đêm nay.
    Trăm tay xỉa xuống mặt mày,
    Trăm tay xỉa xuống mặt đầy gian tham.
    Cứ xốc tới, cứ chảy máu, cứ rơi đầu,
    Mỗi xác thây sẽ là một nhịp cầu,
    Cho ta bước tới chân trời khát vọng.

    Mục đích

    Cải cách ruộng đất chính thức bắt đầu ngày 25-12-1953 và kết thúc ngày 30-7-1956, được chia làm sáu đợt nhằm đạt các mục tiêu chính sau:

    Xây dựng đời sống mới có nghĩa xóa bỏ cơ cấu tổ chức của đời sống cổ truyền bằng cách tiêu diệt chính quyền cũ ở nông thôn, đạp đổ tầng lớp địa chủ, trí thức cũ. 

    Thực hiện người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.

    Sau khi san bằng di tích cũ thì chính quyền mới được dựng nên sẽ tuyệt đối trung thành với tôn ti trật tự mới của cộng sản. 

    Chính sách 

    Chính sáchnước mắt bằng tố khổ trí phú địa hào, phá bỏ hộ sản xuất, tịch thu ruộng đất cho bần cố nông lập thành hợp tác xã sản xuất.

    Tiến hành

    Ngày 12/4/1953, Hồ Chí Minh ban hành Sắc-lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.

    Ngày 14/11/1953, Hội-nghị lần thứ 5 Ban Chấp-hành Trung-ương và Hội-nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành cải cách ruộng đất.

    Phương pháp đấu tố

    Muốn có con người mới cho xã hội mới thì phải hủy diệt nền tảng gắn bó gia đình bằng chính sách “đấu tố”, con tố cha, vợ tố chồng. Các cảnh con đấu tố cha mẹ được nhiều nhà văn như Trần Đỉnh[6], Song Nhi[7]… kể lại.

    Chính Trường Chinh,  tổng bí thư đảng trực tiếp lãnh đạo cải các ruộng đất, đã đấu-tố cha mẹ mình để làm gương. Thế mới có câu vè trong dân gian:

    Đấu tố phụ mẫu,
    tôn thờ Mác-lê.
    Nhục ấy đời chê thằng họ Đặng.
    Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa,
    tội kia sách chép đứa tên Khu! (Đâng Xuân Khu = Trường Chinh).

    Ca dao có câu:

    “Hành Thiện có Bác Trường Chinh
    Dạy con, dạy cháu hết mình tố cha”.

    Để làm gương và tạo quyết tâm, phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước, bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, đã từng đóng góp tiền bạc, lúa gạo cho bộ đội[8].

    Dưới đây là hình ảnh các giai đoạn đấu tố địa chủ.

    1) Nhiều bài báo, bài thơ phát động quần chúng đấu tố địa chủ trong Cải cách ruông

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/10/bai15_img01.png

    2) Tòa án nhân dân của Cải cách ruộng đất. Quan tòa là tầng lớp bần cố nông nghèo, ít học

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/10/bai15_img02.png

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/10/bai15_img03.png

    3) Hình ảnh địa chủ bị đấu tố

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/10/bai15_img04.png

    1) Làm gương

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/10/bai15_img05.png

    Mùa hè 1956 bắt đầu diễn ra chiến dịch sửa sai trong cải cách ruộng đất. Ngày 18-8-1956 Hồ Chí Minh thừa nhận sai lầm của Cải cách ruộng đất và thủ tướng ban hành lệnh sửa sai. Sửa sai thế nào khi người bị tố oan đã chết, nhà cửa đã bị phá nát? Người dân chỉ biết làm vè tự an ủi.

    Sửa sai rồi lại sửa sai
    Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai.

    Đèn cù cứ chạy lòng vòng
    Dân chủ cái còng, Độc lập đói ăn,
    Hạnh phúc chú Cuội cung trăng,
    Nhân dân đói khổ nhăn răng chết dần.

    Trở về văn hóa, kinh tế xưa 

    Sau 40 năm (1945-1986) dùng vũ lực cưỡng bách nhân dân, văn hóa XHCN không chiến thắng một cách tự nhiên được cái văn hóa cũ bằng chính cái giá trị của cái  mới và được người dân chấp nhận nên văn hóa XHCN đã bị đào thải bởi quy luật đào thải tự nhiên của người tiêu dùng văn hóa[9].

    Sau khủng hoảng kinh tế tại Việt Nam và sư sụp đổ chế độ cộng sản tại Âu Châu, năm 1986, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mở đường cho sự chính sách đổi mới tiến lên bằng cách:

    Xóa bỏ mậu dịch quốc doanh tức xã hội lý tưởng XHCN của thời bao cấp,

    Thiết lập nền kinh tế thị trường tư bản.

    Chính sách đổi mới[10] (có nghĩa trở về với cái cũ đã bị lên án và hủy bỏ) được áp dụng từ đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Nếu dựa vào kết quả của thực tiễn thì định nghĩa đổi mới văn hóa và kinh tế có nghĩa thực sự là :

    Trở lại với văn hóa cổ truyền của tổ tiên để lại, cho phép phục hồi ca trù, lên đồng, lễ hội, mặc áo dài… đọc sách và nghe nhạc của Việt Nam Cộng Hòa,

    Đổi mới kinh tế nghĩa là chính thức thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa (tư bản, tư hữu) theo định hướng xã hội chủ nghĩa tức là Đảng vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế. Dùng cụm từ đổi mới để thay cho cụm từ thất bại của kinh tế[11] và văn hóa xã hội chủ nghĩa.

    Với chính sách đổi mới, hai biến cố quan trọng tại nông thôn Bắc Bộ là :

    Phục hồi văn hóa, kinh tế cổ truyền,

    Biến đổi dân số, văn hóa, đời sống vật chất theo kinh tế thị trường.

    Phục hồi văn hóa xưa

    Đổi Mới  đã phục hồi lại vai trò văn hóa của đình, hương ước, quản trị làng… mà cộng sản đã hủy diệt[12] nhưng được phục hồi trong hoàn cảnh « không niềm tin, không pháp luật » (Sans foi, ni loi), không có một định hướng mới. Được hồi sinh trên đống gạch bể nát của văn hóa vô sản, văn hóa cổ không còn khả năng định chuẩn cho đời sống nông thôn lại thiếu luật pháp công minh hướng dẫn ứng xử.

    Phục hồi tổ chức nông thôn cũ

    Với chính sách đổi mới năm 1986, sự phục hồi tổ chức nông thôn cũ  được đánh dấu bởi các chuyển biến sâu sắc sau :

    Trở lại hương ước theo Nghị quyết số 05-NQ/HNTW ngày 10-6-1993

    Vai trò của tự quản cấp thôn làng như trước 1945 được xác định qua nhiều văn kiện như Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18-3-2002

    3  Phục hưng phát triển trở lại các lễ hội cộng đồng, lễ nghi của mô hình thể chế truyền thống,

    Phục hồi cơ cấu kinh tế xã hội văn hóa cổ truyền trước 1945 tại nông thôn,

    Giải thể hợp tác xã nông nghiệp (1981 -1990), chuyển sang kiểu sản xuất hộ gia đình tức sản xuất tư nhân (bị phá vỡ trong thời kỳ hợp tác xã hóa nông nghiệp) với quyền tư hữu được tái lập theo Nghị quyết của Bộ chính trị, số 10 ngày 5-4-1988;

    Tái lập tư hữu đất đai. Luật Đất Đai 1993 và 2003 xác định quyền sở hữu đất đai ở nông thôn, nhờ vậy mà kinh tế hộ gia đình phát triển.

    Thay đổi ở nông thôn[13]

    Sau khi văn hóa và kinh tế XHCN biến mất từ năm 1986, mở ra một vận hội mới với những nhu cầu mới, buộc nông thôn phải thay đổi, nhưng thay đổi thế nào, lại chưa từng được đặt ra. Do đó, nông thôn tự phát thay đổi, thiếu quy hoạch trong bối cảnh đô thị hóa, công nghệ hóa, toàn cầu hóa đưa đến di dân nông thôn ra đô thị, tạo nên « sóng ở trong làng » khởi động bởi sự trống rỗng văn hóa.

    Theo số liệu tổng tra dân số, người di cư ra thành thị :

    Năm 1999 : 855 943 chiếm 7.2% dân số đô thị,

    Năm  2009 : 2.062.171 đô thị gia tăng 9.2% mỗi năm. Năm 2014, dân sống trong đô thị: 30. 035.400, dân số nông thôn: 60 693 500.

    Biến đổi vì di dân

    Nông dân trưởng thành di dân ra thành thị, chung đụng văn hóa thành thị, đem về quê những tư tưởng và nếp sống văn minh (TV, truyền thông điện tử, phim ảnh ngoại quốc…) khác hẳn tạo nên nhiều tầng lớp đan xen nhau trong  bối cảnh gia đình và cộng đồng.Trong một gia đình, thành phần sinh sống chung đụng có thể là trí thức, công nhân, hưu trí, nông dân, trẻ em nên có nhiều va chạm về nếp sống nhất là văn hóa truyền thống như hiếu nghĩa với cha mẹ, anh em bị tha hóa.

    Biến đổi cư trú nông thôn

    Phát triển kinh tế thị trường và sự « trống rỗng văn hóa » mang lại các hậu quả sau :

    Xây cất vô trật tự không có người chuyên môn hướng dẫn, mạnh làng nào làng ấy làm, mạnh nhà nào nhà ấy xây, nông dân chỉ quan tâm đến bê tông và giấc mộng « lên phố », còn hệ thống giao thông thì chằng chịt, manh mún, chật hẹp thiếu tầm nhìn tương lai.

    Ở những gia đình có đất, nhà kiểu thước thợ[14], kiểu biệt thự ra đời thay thế cho ngôi nhà tre gỗ ba hay năm gian. Tất cả những ngôi nhà mới, đều không dùng kiến trúc sư, cơ bản không có thiết kế, mỗi nhà một phách, đủ kiểu Tây Tàu và Hàn Quốc.

    Nhiều cổng làng bình dị, rêu phong, xù xì rễ đa, rễ duối[15]cuốn quanh… có đến gần trăm tuổi bị phá dỡ để mở đường cho rộng, trải bê tông cho xe công nông và ô tô đời mới chạy.

    Những không gian xanh của làng như rặng tre, vườn cây, bờ ao bị chặt phá, san lấp để lấy chỗ xây nhà.

    Hiện tượng lên phố du nhập các tệ đoan của thành thị mê cờ bạc, rượu chè, thanh niên tập tành hút hít, chơi bời.

    Biến đổi kinh tế 

    Sau giải thể kinh tế hợp tác xã nông nghiệp và sự phục hưng kinh tế gia đình, hộ gia đình được quyền xử dụng đất đai lâu dài, tự chủ trong quá trình sản xuất. Trong cộng đồng, nay là đời sống kinh tế hộ gia đình nên nhiều gia chủ di dân ra thành thị làm khu công nghiệp thì phải cho thuê lại ruộng, gởi tiền về làng, xây dựng nhà gạch làm thay đổi cư trú nông thôn.

    Biến đổi cơ quan quản trị

    Tự quản cấp thôn và hương ước được phục hồi.

    Biến đổi văn hóa vô thể

    Văn hóa cổ truyền đã bị đập nát, san bằng còn văn hóa XHCN mới chưa đặt được nền móng thì đã sụp đổ tạo nên một khoảng trống rỗng văn hóa mà chế độ cộng sản bất lực trước sự phục hồi văn hóa cổ truyền và trước tác động mặt trái của kinh tế thị trường tư bản[16].  Vì vậy mà nông dân tự lo lấy đời sống văn hóa cho mình nên văn hóa có những sắc thái sau:

    Quay về với đời sống tâm linh, với thờ cúng, với mồ mả, với gia phả… của văn hóa truyền thống,

    Vắng bóng phim kịch nhà Nước, hiệu sách huyện do qui luật văn hóa tự đào thải bởi người tiêu thụ văn hóa phủ nhận; 

    Truyền hình và đài phát thanh vẫn là những nguồn thông tin miễn phí từ nhà Nước, nhưng trên đó lại đầy rẫy phim Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái và Mỹ… phim chuyện tình, võ thuật, tình dục, quảng cáo hàng tiêu dùng… rất ít phim Việt Nam giới thiệu về văn hóa Việt Nam;

    Về tổ chức tham quan du lịch, nhưng nơi đến chỉ là Lăng Bác, cây đa Tân Trào[17], vài đền chùa, rất hiếm đi tham quan bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học, còn bảo tàng Mỹ thuật và triển lãm nghệ thuật thì tuyệt đối không.

    Ngày nay văn hóa XHCN còn để lại dấu tích cụ thể gì? Dấu tích nhìn thấy được tại nông thôn là “nhà văn hóa” được xây dựng để thay thế các trung tâm văn hóa cổ xưa như đình, đền miếu. Nay thì nhà văn hóa dùng làm để hội họp, sinh hoạt tập thể. Sách báo, nhạc cụ, và các trang bị, thiết bị phục vụ biểu diễn văn nghệ cách mạng vô sản hầu như không có.

    Thành bại qua thái độ của người dân

    Trong trận chiến văn hóa, lý do thành bại được nhận thấy qua cung cách và thái độ (đồng thuận hay chống đối) của người dân trước sự cưỡng bách văn hóa. Chúng ta thử nhìn qua 2 thí dụ dưới đây:

    Thời cưỡng bách văn hóa Trung Hoa thời Bắc thuộc (Từ năm 43 đến 938). Cuộc đụng độ văn hóa Trung Hoa với văn hóa Văn Lang đã tuân theoQui luật đồng hóacủa văn hóa. Khi có sự cộng lưu văn hóa thì nền văn hóa thấp (văn hóa thời Hùng Vương) sẽ bị đồng hóa hòa hài với nền văn hóa cao (văn hóa Trung Hoa) nên có sự đồng thuận của dân chúng. Sự đồng thuận này được sử gia Trần Trọng Kim mô tả dân Việt tiêu thụ văn hóa Trung Quốc như thế này[18]: “… mà sự học của mình thì ai cûng yên trí rằng cái gì đã học được Tàu là hay, là tốt hơn cả: từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều gì mình cũng lấy Tàu làm gương, ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dở. Cách mình sùng mộ vån minh của Tàu như thế…”.

    Thời cưỡng bách văn hóa xã hội chủ nghĩa (1945-1986). Nếu nhìn lại tâm tình chân thật của người dân qua văn hóa dân gian (ca dao, vè …) trong thời kỳ này thì sẽ hiểu qui luật tự đào thải bởi người tiêu dùng văn hóa trong cuộc nội chiến. Để đối chiếu với người tiêu thụ văn hóa thời Bắc Thuộc, chúng ta hãy nghe : Thi sĩ đảng viên Phan Huy và Thái Bá Tân mô tả người tiêu thụ văn hóa XHCN như dưới đây:

    « Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
    Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu.
    Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu,
    Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu !”
    Phan Huy

     Khi cách mạng thắng lợi,
    Nhanh chóng hoặc từ từ,
    Các quan chức cộng sản
    Biến của công thành tư.
    Thái Bá Tân, 2019

    [1] Thời cưỡng bách văn hóa lần thứ nhất bởi Hán Đường (43 đến 938) bắt dân Việt theo văn hóa Trung Hoa,

    Thời cưỡng bách văn hóa lần thứ hai (1414-1427), quân Minh cưỡng ép dân ta theo văn hóa Trung Hoa được sử gia Trần Trọng Kim mô tả như sau: “Bọn Hoàng Phúc ở lại sửa sang các việc trong nước để khiến cho người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu bắt người mình cúng tế theo như tục bên Tàu, rồi cách ån mặc cho chí sự học hành, việc gì cũng bắt theo như người Tàu cả. Còn cái gì là di tích cüa nước mình như là sách vở thì thu nhặt đem về Tàu hết sạch… Bắt con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái thì phải mặc áo ngắn quần dài theo như người Tàu cả.”

    [2] Từ năm 1950 trở đi những nguyên lý văn hoá vô sản dần dần chi phối nền văn hoá Việt Nam. Theo hai quyển hồi ký của nhà văn Võ Văn Trực (Chuyện làng ngày ấyCọng rêu dưới đáy ao) thì ở Nghệ An quê ông, người ta phá đình chùa, tập thể hoá cả mồ mả ông bà, sửa đổi phong tục tập quán bị coi là hủ lậu. Ở các vùng khác chưa ai viết ra, nhưng nói chung cũng na ná như vậy. Đến sau 1975, những người lãnh đạo văn hoá ở Thừa Thiên Huế còn dùng nội cung cố đô Huế làm kho giấy và cho phá bỏ Đàn Nam Giao khiến lòng dân bức xúc có nhiều câu ca dao phản đối.

    [3] Lý luận kinh điển. NXB ST, 1974, trang 78

    [4] Trong hồi ký “Chuyện làng ngày ấy” nhà thơ Võ Văn Trực đã kể khá sinh động chuyện làng của ông phá bỏ chùa chiền, miếu mạo, tập thể hóa cả mồ mả ông bà

    [5] Cải cách ruộng đât được một cựu quan chức cộng sản là Hoàng Văn Chí mô tả trong cuốn Từ thực dân đến cộng sản, Nhà xuất bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964 (đã được dịch ra 15 ngôn ngữ). Bản  annh ngữ: From Colonialism to Communism, The Pall Mall Press Ltd. 77–79 Charlotte Street, London W.I , 1964. Tổng bí thư Trường Chinh trực tiếp lãnh đạo cải các ruộng đất. Ngày 18-8-1956, Hồ Chí Minh gởi thơ cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm.

    Cải cách ruộng đất (1946-1957) đã được trưng bày 5 ngày (8/6 đến 12/9/2014) tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam

    [6] Trong “Đèn Cù” của Trần Đỉnh có đoạn nói về Chu Văn Biên, trùm cải-cách Nghệ Tĩnh,  chỉ vào mặt mẹ chắp tay đứng dưới sân mà nói :“Mày là đứa bóc-lột, kẻ thù của nhân-dân, không mẹ con gì hết, tao phải tiêu-diệt mày”. Nhờ cái thành-tích ấy Chu Văn Biên sau này được đề bạt thứ-trưởng Bộ nông-nghiệp và bà mẹ cắn lưỡi tự-tử

    [7] Đọc trên internet, cuốn Nửa thế kỷ Việt Nam, chương2 của Song Nhi viết: “Ông Phan Vượng, thường gọi là cố Đạt, bị giam giữ sau khi bị quy thành phần địa-chủ. Khi bị đem ra đấu-tố tại xóm (gọi là “đấu lưng”, trước khi đưa đi đấu-tố ở xã), một hôm đứa con gái tên là Trung nhảy lên bục, chân co chân duỗi, một tay chống nạnh, một tay xỉa vào mặt cha mà hỏi :
    – “Mày biết tao là ai không ? Gia đạo này nhờ ai mà có? Cái mâm thau không đưa cho nông-dân, mày để lại làm gì ?”
    Cố Đạt run rẫy, miệng lắp bắp:
    – “Tôi đâu quên chị. Gia đạo này nhờ nông-dân mà có. Cái mâm thau, hôm trước chị tới nói để lại nông dân cũng lấy mất, chị lấy đem về nhà chị rồi”.
    Cố Đạt vừa nói xong, chị Trung thẳng tay xỉa vào mặt cha, làm cố Đạt té ngửa trong khi đang bị trói thúc ké. Dưới đấu-trường giữa bãi đất trống, tiếng hô “đả-đảo” lác đác yếu ớt… Tối hôm đó cố Đạt tự kết liễu đời mình bằng sợi dây trói.

    [8] Bà có con trai làm trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Tuần Lễ Vàng, gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập

    [9] Trong lịch sử, đổi mới văn hóa cũng đã xảy ra nhưng đổi mới một cách tiệm tiến khởi động bởi chính nhân dân (nhân tố nội tại) trước thay đổi chính trị, kinh tế của đất nước. Thí dụ văn hóa cổ truyền Việt chuyển dần sang văn hóa công nghiệp, đô thị kiểu Âu Châu

    [10] Đổi Mới là một chương trình cải cách toàn diện bao gồm kinh tế và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986

    [11] Chỉ cần nghe vài câu vè là hiểu kinh tế xã hội chủ nghĩa : Một yêu anh có may-ô/ Hai yêu anh có cá khô để dành/ Ba yêu rửa mặt bằng khăn/ Bốn yêu bàn chải đánh răng hàng ngày/ Năm yêu anh có đôi giầy/ Sáu yêu anh có khăn quàng vắt vai/ Bảy yêu có sắn gạc nai/ Tám yêu nước mắm cả chai ăn dần/Chín yêu anh rất chuyên cần/Mười yêu anh chỉ để phần cho em

    [12] Những gì mà Cách Mạng tháng Tám hủy diệt thì nay gần như đều được phục hồi thí dụ như Đạo Mẫu lên đồng, ca trù trong âm nhạc, in lại các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn bởi Công ty CP Văn hóa và truyền thông Nhã Nam tại Hà Nội…

    [13] Viết theo :« Việt Nam sau 30 năm đổi mới, thành tựu và triển vọng », tài liệu lưu hành nội bộ của cộng sản

    [14] Gọi thước thợ vì đồ án nhà có dạng L

    [15] Cây Duối có tên khoa học là Streblus asper, thuộc họ Moraceea

    [16] Trung tướng, TS Nguyễn Tiến Quốc, Học viện chính trị-bộ Quốc Phòng, nhận xét  mặt trái của kinh tế thị trường là « kích thích thói ích kỷ, tự tư tự lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể, xã hội và đất nước. Nó tạo ra lối sống hưởng lạc, lối sống gấp của xã hội tiêu thụ, lối sống thực dụng v.v. Lối sống này trái hẳn với chế độ xã hội chủ nghĩa ».

    [17] Cây đa Tân Trào là một cây đa cổ nằm ở đầu làng Kim Long (sau đổi tên thành Tân Lập), xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang là một di tích lịch sử kháng chiến. Cây đa Tân Trào đã bị sét đánh đổ năm 1993

    [18] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Trung tâm học liệu xuất bản, tr.32

    Bài 16. Nội chiến “Trên giấy”

    November 7, 2022

    Sau ngày 30/4/1975, nội chiến giữa văn hóa XHCN và văn hóa cổ truyền của Sài Gòn bắt đầu bằng trận chiến văn hóa trên giấy (chương 8) và trong âm thanh (chương 9).

    Nội chiến văn hóa trên giấy tại miền Nam được diễn tiến qua 3 giai đoạn sau :

    Giai đoạn đầu : Hủy diệt kho vũ khí văn hóa của miền Nam tự do bằng « đốt sách bắt nho»,

    Giai đoạn qui luật văn hóa khởi động,

    Giai đoạn chiến thắng của văn hóa Sài Gòn xưa.

    Trận địa trên giấy : Đốt sách bắt nho (1975-1986)

    Khi nói đến đốt sách tàn bạo nhằm hủy diệt văn hóa, nhiều người nghĩ ngay đến thành ngữ : « Đốt sách chôn nho » (Phần thư, khanh nho 焚書坑儒) đời Tần Thủy Hoàng. Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, thừa tướng Lý Tư của Tần Thủy Hoàng chủ trương đốt sách (kinh điển từ thời Chu Tử Bách Gia, thi, thư…) vào năm 213 TCN. Lý Tư tâu :« Thần xin cho đốt hết mọi sách vở, trừ sách vở của nhà Tấn. Sách vở nào không phải của quan bác sĩ được phép giữ mà trong thiên hạ cất giấu như Kinh Thi, Kinh Thư, cùng sách vở của trăm nhà đều phải đem cho quan thủ, quan ủy đốt đi »[1]. Lý-Tư tấu thêm: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

    Sau khi tra xét các nhà nho, lọc ra 460 người phạm cấm mà đem chôn sống tất cả ở Hàm Dương năm 210 TCN.

    ĐỐT SÁCH, CHÔN NHO là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh mà hàng ngàn năm sau vẫn còn được người Hán và cả nhân loại lên án!

    Trên đất Việt, tội ác đốt sách đã sảy ra 3 lần :

    Dưới thời nhà Minh vào thế kỷ 15,

    Năm 1955 tại miền Bắc,

    Sau ngày 30/4/1975 tại miền Nam.

    Đốt sách lần thứ nhất

    Đầu thế kỷ 15, chính sách đốt sách đầu tiên và bắt người tài[2]về Tàu sảy ra trong lịch sử Việt Nam sau khi Minh Thành Tổ chỉ dụ Chu Năng và Trương Phụ ngày 21/8/1406: « Một khi binh lính đã vào nước Nam, thì hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến các loại ca lí dân gian, các sách dạy trẻ nhỏ, một mảnh một chữ phải đốt hết khắp trong nước, các bia do Annam dựng thì phải phả hủy tất cả, một chữ chớ để sót lại »[3]. « Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết »[4]

    Đốt sách lần thứ hai

    Tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà-Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1955. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đều bị đốt!

    Hồi-Ký của Một người Hà-Nội ghi lại đốt sách: “Số học sinh lớp chín vào lớp không phải để học, mà là tổ chức hội đoàn, nhận chỉ thị của thành đoàn rồi phát động phong trào chống văn hóa nô dịch. Họ truy lùng… ĐỐT SÁCH! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu-Đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang tập trung tại thư viện phố Tràng-Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm …”.

    Đốt sách lần thứ ba

    Việc « đốt sách bắt nho » lần thứ ba ở Việt Nam sảy ra sau ngày 30-4-1975 khi nhà Nước thực hiện chiến dịch « bài trừ văn hóa đồi trụy, phản động » bằng huy động thanh niên, học sinh, mang xe ba gác đi từng nhà lục soát sách mang đi đốt. Cuộc « phần thư » được cả hệ thống tuyên truyền và báo chí Nhà Nước cổ võ. Báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 25/5/1975 tường thuật : “Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô to nhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay”. 

    Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/11/img_01.png

    Sách nào bị đốt trong đợt thứ nhất? tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa Việt Nam Cộng Hòa, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, cả những bộ Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam cũng bị đốt, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các từ điển thôi.

    Lần đốt sách thứ nhì năm 1978 theo đúng chỉ thị “ba hủy », chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy[5], không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn từ điển, toán, vật lý.

    Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại “nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v… cũng phải được duyệt xếp loại lại.

    Chiếm được Sài Gòn, việc cấp thiết nhất là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện, các nhà sách lớn (Khai Trí, Sống Mới, Nam Cường…). Các cấp chính quyền từ phường đến thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở từ tiểu thuyết, tạp chí đến biên khảo để hỏa thiêu[6]. Có hai cách để hủy thay vì đốt : bán ký cho các nhà máy sản xuất giấy[7], bán lại cho những người bán sách vỉa hè. Việc đốt sách vào cuối tháng 5-1975 đáng được liệt kê vào lịch sử đốt sách trên thế giới[8]  và tiêu diệt trí thức để độc quyền tư tưởng, độc quyền ngôn luận.

    Tháng 10-75, trên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng có đăng nhiều kỳ Bảng Kê Tên Các Loại sách của 56 tác giả bị cấm lưu hành. Tiếp theo là bắt đi tù các tinh hoa văn hóa  ở miền Nam là nhằm hủy diệt cái linh hồn của Sài Gòn, cái linh hồn đó là văn hóa tự do dân chủ, là văn hóa của sự sáng tạo, phát triển tự nhiên theo khuynh hướng dân tộc, nhân bản và khai phóng.

    Sau việc « đốt sách bắt nho » thì công việc tiếp theo là áp đặt văn hóa vô sản lên Sài Gòn bằng cách:

    Bắt giới sáng tạo văn hóa (văn, nghệ sĩ…) đi tù dưới hình thức đi cải tạo[9],

    Dẹp tự do báo chí, ấn loát…

    Kiểm soát hộ khẩu, công an trị,

    Nhân dân đi học tập chính trị, học hát ca tụng Bác, Đảng…

    Tất cả khí cụ đó được du nhập từ miền Bắc vào nhằm chuyển đổi văn hóa Sài Gòn sang văn hóa XHCN.

    Năm nay đào lại nở
    Không thấy sách báo xưa
    Ngọn lửa nào năm cũ
    Lạc về đâu bây giờ?

    Nguyễn Ngọc Chính

    Qui luật văn hóa khởi động

    Ngay cả những lúc bị đánh phá tơi bời ở miền Nam, sách truyện, báo chí miền Nam   tràn ra miền Bắc. Cảnh nhân dân miền Bắc của bên « thắng cuộc » say mê đọc sách, nghe nhạc của miền Nam “thua cuộc” làm sống lại biến cố lịch sử khi quân Mông Cổ rồi quân Mãn Thanh thắng trận quân sự nhưng lại bị đồng hóa với văn hóa của kẻ bại trận. Đó là trường hợp kẻ chiến thắng trở thành kẻ bại trận về văn hóa theo « Qui luật đồng hóa » có nghĩa khi có sự cộng lưu văn hóa thì nền văn hóa thấp sẽ bị đồng hóa với nền văn hóa cao.

    Sau một thời gian cưỡng bức kèm theo khủng hoảng kinh tế, là thời Đổi Mới[10] vì  nhận thấy sự cưỡng bức đồng hóa với văn hóa XHCN không còn hiệu quả như trước bởi những lý do sau :

    Văn hóa XHCN không có sức hấp dẫn, không có giá trị nghệ thuật cao để có thể thay thế văn hóa miền Nam,

    Khí giới kiểm soát cũ như kiểm soát hộ khẩu, bao cấp, bỏ đói, công an kìm kẹp không còn hiệu nghiệm nữa,

    Trong thời đại toàn cầu hóa với mức vận tốc của truyền thông điện tử, dù cấm báo chí, dù kiểm duyệt xuất bản, người dân vẫn tiếp xúc được với thế giới tự do,

    Trong thời hòa bình và kinh tế thị trường, văn hóa đô thị công nghiệp, tự do dân chủ …thích hợp với đời sống nhân dân.

    Vì những lý do trên mà sự cưỡng bách văn hóa xã hội chủ nghĩa lên dân Việt đã thất bại và tạo nên một khoảng trống văn hóa. Từ cái khoảng trống này mà văn hóa cổ truyền hồi sinh tại nông thôn miền Bắc và văn hóa Sài Gòn xưa (áo dài, văn học, âm nhạc…) nổi dậy như cuồng phong thổi trên khắp các thành thị. Trận cuồng phong văn hóa biểu hiệu :

    Sự bất lực của nhà Nước cộng sản trước sự đồng hóa văn hóa ngược lại : kẻ thắng cuộc (văn hóa lạc hậu) bị kẻ thua cuộc (văn hóa tân tiến) đồng hóa về văn hóa;

    Sài Gòn đã chiến thắng trên mặt trận văn hóa.

    Chiến thắng văn hóa của Sài Gòn 

    Ngày nay mà về Sài Gòn chúng ta sẽ chứng kiến cảnh « Nhất ba tải động, vạn ba tùy », nghĩa là một cơn sóng tư tưởng Sài Gòn xưa trổi dậy kéo theo cả vạn ngọn sóng khác nổi lên, nào là áo dài trở lại ngôi vị xưa, nào là sách cũ xưa bày bán tự do khắp nơi,  nào là tiếng nhạc của  « kẻ thua cuộc » vang dội trong phòng trà, quán cà phê …

    Thời kỳ văn hóa Sài Gòn phục hồi được đánh dấu bằng hai sự kiện văn học đáng được chú như sau :

    Sự có mặt của nhiều văn thi sĩ xưa tại Sài Gòn,

    Sách truyện in trước năm 1975 được bày bán tại nhiều tiệm sách cũ và con đường văn hóa đọc tại Sài Gòn.

    Người lính văn hóa trở về

     Khi ngay trên con đường bán  sách Nguyễn văn Bình ở trung tâm quận nhất bày bán tự do trở lại sách Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Lê Tất Điểu…

    Khi các văn thi sĩ của Sài Gòn xưa kia như thi sĩ Du Tử Lê,  nhà văn Phan Nhật Nam, cựu đại úy sư đoàn Dù được nhà văn Huy Thịnh mời về Hà Nội họp với Hội Nhà Văn Hà Nội (nhưng không nhận lời về) .

    Chỉ mấy điều này thôi cũng đủ nói nên văn học của Sài Gòn xưa đã phục hồi và đang như từng đợt sóng vỡ bờ tuôn chảy vào đầu óc dân Việt và tiếp tục sẽ chảy mãi không ngừng . Những ngọn sóng này đã trở thành chính thức với sự xây dựng các đường « văn hóa đọc » trong các thành phố lớn.

    Hiện tượng trở về được giải thích bởi Trần Doãn Nho[11]qua trích dẫn các báo chính thức của đảng công sản (báo Nhân Dân) và các bài phỏng vấn vài nhà văn hóa tại quốc nội.

    Từ chỗ bị phê phán gay gắt, bị loại bỏ, cấm phổ biến, văn học miền Nam dần dần đã được coi là một bộ phận không thể tách rời của văn học Việt Nam, được xuất bản và nghiên cứu nghiêm túc. Nhiều tác giả (nhà văn, nhà phê bình) miền nam xuất hiện trở lại trong đời sống văn học đương đại, nhiều tác phẩm (sáng tác, nghiên cứu, phê bình, văn học sử) được in lại và được bạn đọc ghi nhận”. (Báo Nhân Dân[12])

    “Sự tiếp xúc với Văn học miền Nam trước 1975 đã tạo bước ngoặt quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của nền văn học “chính thống” miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của nó đã dần dần “tẩy rửa” thói quen “tự kiểm duyệt” và “phục vụ chính trị”, giáo điều “hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Nhà thơ Hoàng Hưng tại quốc nội trả lời Phỏng Vấn của Diễn Đàn Thế Kỷ)

    Con đường « văn hóa đọc » của Sài Gòn

    Sau gần 3 tháng thi công ngày 09.01.2016, Đường Sách Nguyễn Văn Bình chính thức được khai trương[13].  Chỉ với con đường nhỏ chiều dài 144 m, lòng đường 8 m, hai bên vỉa hè rộng 6 m, với thiết kế một bên là 20 gian hàng sách, một bên là café sách và khu triển lãm. Hai đầu Đường Sách là tấm bảng hiệu và bức tượng điêu khắc Cô Gái bên trang sách và Suy ngẫm  nơi cuối Đường Sách tiếp giáp với đường Hai Bà Trưng – hai tác phẩm được tuyển chọn từ Trại điêu khắc quốc tế TP.HCM. Tấm bảng hiệu uy nghi cao hơn đầu người với hàng chữ: “Không Cần Phải Đốt Sách để phá huỷ một nền văn hoá, Chỉ Cần Buộc Người Ta Ngừng Đọc mà thôi.”[sic]Tác giả câu nói ấy được ghi là của Mahatma Gandhi nhưng thực ra là câu viết của nhà văn Ray Douglas Bradbury [14].

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/11/img_02.png

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/11/img_03.png

    Sanh hoạt của Đường Sách : Từ lên án đến thừa nhận

    Tìm đâu mua được sách cũ in dưới thời Việt Nam Cộng Hòa? Bạn chỉ cần đến Con đường sách Nguyễn văn Bình tại Quận 1. Thí dụ tại Quán Sách Mùa Thu ghi dòng chữ “Về lại chốn thư hiên”, nơi có thể tìm hoặc đặt mua những cuốn sách cũ qúa hiếm “tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ”. Ngoài ra, con đường sách có những hoạt động như :

    Tuần lễ triển lãm áo dài, tuần lễ Trịnh Công Sơn, triển lãm tranh ảnh, điêu khắc,

    Hò hẹn của bạn văn, giao lưu giữa tác giả và độc giả,

    Nơi ra mắt sách của các tác giả trong và ngoài nước.

    Triển lãm sách cũ (trước 1975) của các nhà sưu tầm.

    Ngày 05.11.2016, nhà sử học TS Nguyễn Duy Chính [giữa] từ Mỹ về cũng ra mắt ký tặng bộ sách đồ sộ 10 cuốn nghiên cứu về thời Tây Sơn và quan hệ với triều đại nhà Thanh tại Quán sách NXB Văn Hoá VănVăn Nghệ



    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/11/img_04.png

    Nhà văn Nguyễn Thị Thuỵ Vũ sau ngót nửa thế kỷ sống ẩn dật, nay ở tuổi 80 đã có mặt trên Đường Sách ngày 19.03.2017 để ra mắt một loạt 10 tác phẩm của bà mới được NXB Phương Nam tái bản.

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/11/img_05.png

    GS Larry Berman, từ Đại học UC Davis, ra mắt cuốn The Perfect Spy / Điệp Viên Hoàn Hảo mà ông là tác giả tại gian hàng First News trên Đường Sách, ngày 23.01.2016 [nguồn: ảnh BTC báo Thanh Niên].

    https://hungviet-vhr.org/wp-content/uploads/2022/11/img_06.png

    Hội Đồng Anh/British Council cũng đã chọn Đường Sách để tổ chức hoạt động tưởng niệm 400 năm (1616-2016) ngày văn hào William Shakespeare qua đời.

    Năm 2020, tác phẩm của Nguyễn Tường Thiết, “Nhất Linh, Cha Tôi” dựng lại cuộc đời và sự nghiệp của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, được nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam tái bản.

    Ngày 24 Tháng Tư, 2021, một buổi mạn đàm về thơ Tô Thùy Yên, “Thơ Tô Thùy Yên – Để Mà Thương Nhớ Thơ,” diễn ra tại quán Cà Phê Thứ Bảy, Sài Gòn, với diễn giả chính là Nhật Chiêu.

    Căn Nhà An Đông Của Mẹ Tôi”của Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh, dựng lại hình ảnh người vợ của văn hào Nhất Linh, được nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản vào Tháng Hai, 2021.

    Lịch sử văn hóa thế giới đã chứng minh trong văn học thành văn, mọi sáng tác tự bản thân nó có giá trị nghệ thuật, tư tưởng nhân bản, tự do, không lệ thuộc chính trị đương thời, đều có thể bị các chế độ chính trị độc tài như thời Tần Thủy Hoàng đốt phá phần hữu hình nhưng không thể hủy diệt được phần vô hình là tư tưởng của đầu óc và tiếng nói của con tim. Từ nguyên lý này mà văn học miền Nam đã sống lại sau khi bị đốt, cấm, lên án sau ngày 30/4 và làm cho chúng ta nhớ lại câu thơ của Đỗ Phủ:

    Văn chương thiên cổ sự
    Đắc thất thốn tâm tri
    (Văn chương là sự nghiệp muôn đời/ Được hay mất chỉ tấc lòng biết thôi)

    [1] Một thí dụ về hậu quả của đốt sách :Thời Đông Chu, Trung Quốc bị chia thành nhiều nước chư hầu, văn học đua nhau ra đời từ thế kỷ 6 đến TK 3, tr. CN, Lão học, Khổng học, Mạc học, Mạnh Tử Tuân Tử Dương Chu … đưa văn hóa đền đỉnh cao của thế giới. Vậy mà tại sao 2000 năm sau không có vị thánh hiền nào cả? Lý do : Lý Tư môn đệ phái pháp gia làm sớ tâu lên Tần Thủy Hoàng cho đốt hết sách vở có phương hại đến đường lối của Tần triều, chôn sống 450 nhà trí thức đối lập thế là : « Trăm hoa hết đua nở, trăm nhà đều đều im tiếng »

    [2] Bị bắt về Tàu có Hồ Nguyên Trừng biết cách đúc súng thần công, Nguyễn An thiết kế xây Tử Cấm Thành tại Bắc Kinh

    [3] Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP HCM, 1996,  tr. 485

    [4] Trần Quốc Vượng,  Văn hóa Việt Nam-Tìm tòi và suy nghĩ, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội, 1999, tr. 755

    [5] Văn hóa đồi trụy” được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành và xử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).

    [6] Đốt sách cũng đã diễn ra tại Hà Nội năm 1954, học sinh được thành đoàn ra lệnh nộp sách nhà mình và đi truy lùng « bắt sách » của bà con, hàng xóm tập trung tại phố Tràng Thi rồi đốt.

    [7] Báo SGGP 1-7-75, tư liệu của Thư Quán Bản Thảo

    [8] Một thí dụ về hậu quả của đốt sách :Thời Đông Chu, Trung Quốc bị chia thành nhiều nước chư hầu, văn học đua nhau ra đời từ thế kỷ 6 đến TK 3, tr. CN, Lão học, Khổng học, Mạc học, Mạnh Tử Tuân Tử Dương Chu … đưa văn hóa đền đỉnh cao của thế giới. Vậy mà tại sao 2000 năm sau không có vị thánh hiền nào cả? Lý do : Lý Tư môn đệ phái pháp gia làm sớ tâu lên Tần Thủy Hoàng cho đốt hết sách vở có phương hại đến đường lối của Tần triều, chôn sống 450 nhà trí thức đối lập thế là :

     « Trăm hoa hết đua nở, trăm nhà đều đều im tiếng »

    [9] Chết trong tù như thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn; bị tù như nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, văn sĩ Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh…

    [10] Đổi mới trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam được biết dưới tên Cởi Mở, tương tự như chính sách Glastnost của Liên Xô. internet đã phá vỡ tình trạng độc quyền thông tin của nhà Nước

    [11] Trần Doãn Nho, Việt Nam Cộng hòa lừng lững đi vào lòng đất nước

    [12] https://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/30680502-ung-xu-voi-van-hoc-mien-nam-truoc-1975.html

    [13] Các đường sách cũ : Tràn Nhân Tôn (Q.5), Trần Huy Liệu (Q. Phú Nhuận), Nguyễn thị Minh Khai (gần ngã 7 Lê Thái Tổ), Dự án đường sách thứ hai tại quận 7 trên đường Nguyễn Đổng Chi,đường sách Vũng Tàu, Cần Thơ, Phố sách Hà Nội

    [14] “The problem in our country isn’t with books being banned, but with people no longer reading. Look at the magazines, the newspapers around us – it’s all junk, all trash, titbits of news. The average TV ad has 120 images a minute. Everything just falls off your mind… You don’t have to burn books to destroy a culture. Just get people to stop reading them.”

    https://hungviet-vhr.org/2022/11/07/bai-16-noi-chien-tren-giay/


    Không có nhận xét nào