Header Ads

  • Breaking News

    Ts. Phạm Đình Bá - Bạn có cần cứu nước khỏi tay chúng nó không?

    22/9/2023

    The Vietnamese Water Crisis - The Borgen Project

    Nguồn nước ở quê hương mình không bền vững và biến đổi khí hậu gây ra mối đe dọa rất nghiêm trọng đối việc dân mình có đủ nước để dùng trong thập kỷ tới. 

    Căng thẳng về nước xảy ra khi nhu cầu về nước cao hơn lượng nước sẵn có, hoặc khi chất lượng nước kém hay ô nhiễm nước làm cho nước không thể sử dụng được. 

    Trên quê hương với tốc độ tăng dân số cao, căng thẳng về nước là do việc sử dụng nước ngày càng tăng, dẫn đến giảm mực nước ngầm và các vấn đề sụt lún đất ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các khu đô thị lớn như ở vùng đồng bằng sông Hồng và vùng đồng bằng sông Cửu Long.  

    Tăng lượng nước tiêu thụ

    Trữ lượng nước ngầm ở VN rất lớn nhưng phân bố không đồng đều giữa các vùng. Hai vùng đồng bằng lớn có trầm tích rời rạc (vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long) và các vùng đất đá ở Tây Nguyên tạo nên các tầng ngậm nước có năng suất cao trong khi các trầm tích rời rạc của Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và các vùng đá vôi ở phía Bắc (Tây Bắc và Đông Bắc) lại cung cấp tầng chứa nước có năng suất trung bình. Phần còn lại của đất nước được đặc trưng bởi các loại đá khác, sản lượng tầng chứa nước thấp hơn nhiều.

    Câu hỏi đặt ra cho tất cả các vùng ở VN là liệu việc bổ sung nước ngầm tự nhiên có theo kịp xu hướng khai thác nước ngày càng tăng hay không. 

    Tính chung cả nước, VN có tổng tiềm năng nước ngầm khoảng 63.000 triệu m³/năm. Mặc dù trữ lượng có vẻ rất cao nhưng những con số này không được phân bổ đồng đều: trong khi khu vực Tây Bắc và Đông Bắc có 40% tiềm năng nước ngầm quốc gia với chỉ 13% tổng dân số cả nước, thì các khu vực tập trung như vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long lần lượt có 23% và 20% từ tổng số dân nhưng lần lượt chỉ có 4% và 2% chỉ tiêu nước ngầm toàn quốc.

    Hơn nữa, tình trạng này trở nên nghiêm trọng hơn nhiều khi được dự báo trong tương lai: tại các khu vực thành thị (bao gồm phần lớn các vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long), mức tiêu thụ nước uống ước tính sẽ tăng gấp đôi chỉ sau 10 năm, từ 8,8 triệu m³/ngày vào năm 2010, tăng lên 15,9 triệu m³/ngày vào năm 2020. Riêng Hà Nội, nhu cầu nước năm 2010 là 1,05 triệu m³/ngày và ước tính đến năm 2020 là 1,40 triệu m³/ngày. Do nguồn nước ngầm hạn chế và các mực nước ngầm thấp, đây là mối quan tâm lớn.

    Hạ thấp mực nước ngầm

    Mặc dù khối lượng lớn nước được lưu trữ trong các hồ nước ngầm ở các khu vực phía Bắc, việc khai thác tập trung, đặc biệt là ở các khu vực đông đúc như Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, dẫn đến mực nước ngầm xuống thấp đáng kể. Điều này có thể được giải thích là do việc rút nước ở các khu đô thị như Hà Nội, Sài Gòn với mức nước ngầm giảm hơn 1 m/năm.

    Tại Hà Nội, dữ liệu từ 10 trạm quan trắc đặt gần các nhà máy khai thác nước được thu thập từ năm 2003 đến năm 2006. Mực nước ngầm bị suy giảm nghiêm trọng ở tất cả các trạm, xu hướng cao nhất được ghi nhận ở khu vực phía Tây và Tây Nam thành phố với 1,25 và 0,98 m/năm.

    Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, mực nước ngầm giảm trên 20 m được ghi nhận tại Sài Gòn từ năm 1990 đến năm 2009, với mức giảm tập trung 4-5 m từ năm 2001-2006 tại quận Thủ Đức và Gò Vấp và 2,27 m/năm ở huyện Bình Chánh. Sự suy giảm nghiêm trọng cũng được ghi nhận ở thành phố Cần Thơ và tỉnh Cà Mau (1,16 m/năm).

    Việc khai thác quá mức nguồn nước ngầm không chỉ xảy ra ở các khu vực đô thị mà còn ở các khu vực nông nghiệp, nơi đã áp dụng hệ thống tưới tiêu thâm canh trong những năm qua. Ví dụ, tại các vùng trồng cà phê vùng Tây Nguyên, mực nước ngầm gần đây giảm với tốc độ khoảng 2,5 m/năm.

    Xâm nhập mặn

    Sự xâm nhập của nước mặn từ biển vào sông và tầng ngậm nước ven biển có thể do giảm áp suất thủy tĩnh khi nước ngọt bị rút đi với tốc độ nhanh hơn mức có thể được bổ sung một cách tự nhiên. Nước mặn sau đó có thể có tác động mạnh mẽ đến hệ sinh thái địa phương, có thể gây thiệt hại cho cây trồng địa phương và có thể dẫn đến thiếu đất và nguồn nước ngọt. 

    Các khu vực rộng lớn có thể phải đối mặt với vấn đề thiếu nước uống, đặc biệt là những người sống dựa vào tầng ngậm nước nơi nước ngầm được nạp lại trực tiếp từ bề mặt, và các bề mặt nầy là không cao lắm so với mực nước biển. Do VN có 3.444 km bờ biển nên đã có những dữ liệu cho thấy nước mặn đã xâm nhập vào các tầng ngậm nước ngọt ven biển.

    Trong mùa khô, mực nước ngầm thấp làm tăng xâm nhập mặn từ nước biển. Hiệu ứng này tăng lên do mức thủy triều mỗi ngày và mỗi tháng, tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập vào các cửa sông do chênh lệch thủy triều tới 4 m ở phía Bắc (vùng Đồng bằng sông Hồng), 0,5 m ở Tây Nguyên và 3,5 m ở phía Nam (vùng Đồng bằng sông Cửu Long). 

    Mực nước biển dâng cao hơn 9 cm trong 30 năm qua tạo thêm những ảnh hưởng nghiêm trọng. Mực nước thấp và áp suất thủy triều cao đã tạo điều kiện cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền tới 50 km trong mùa khô và lên tới 20 km trong mùa mưa ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi ở phía bắc, mức xâm nhập tương tự là từ 33 km trên sông Hồng và 47 km trên sông Vân Úc.

    Tính bền vững thông qua quản lý việc nạp lại tầng ngậm nước 

    Việc sử dụng rộng rãi nguồn nước ngầm do nhu cầu ngày càng tăng dẫn đến sự phá hủy cân bằng sinh thái không thể tránh khỏi. Điều này có nghĩa là chỉ những nguồn nước ngầm được bổ sung trong khung thời gian hợp lý mới có thể cung cấp sự bảo vệ bền vững cho nguồn cung cấp nước. 

    Tuy nhiên, biến đổi khí hậu quyết định những thay đổi về đặc điểm lượng mưa: thời gian khô hạn kéo dài kéo theo các đợt mưa lớn trong thời gian ngắn dẫn đến giảm tốc độ bổ sung nước ngầm tự nhiên và do đó làm giảm nguồn nước ngầm hơn nữa.

    Ở các quốc gia khác, người dân coi viễn cảnh không có nước ngọt để sử dụng hàng ngày là mối đe dọa thiết yếu đối với lối sống của họ. 

    Họ sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về việc thiếu hành động và thiếu tính khẩn cấp để khắc phục tình trạng thiếu nước. Họ sẽ bắt đầu nói về việc loại bỏ các nhà lãnh đạo của họ. 

    Họ sẽ tức giận. Họ sẽ hướng sự tức giận của mình vào hành động tập thể nhằm lật đổ chính phủ của họ. Họ sẽ xuống đường ở nhiều thành phố để phản đối, đòi hỏi phải hành động và cứu nước. Họ sẽ bắt đầu một cuộc cách mạng!

    Nhưng ở VN, mối đe dọa đến sự an toàn của họ là rất lớn. An ninh, cảnh sát và quân đội sẽ bắn đạn thật vào đám đông nếu người dân biểu tình trên đường phố. Vì vậy xin đừng bắt đầu một cuộc cách mạng bây giờ. Thời điểm để làm cách mạng là rất quan trọng cho một cuộc cách mạng màu không có bạo lực.

    Bạn ơi, chúng ta cần nung nấu ý chí, suy nghĩ, suy tư cho một cuộc cách mạng cuối cùng. Nhưng chúng ta không làm liền. Nung càng lâu thì càng tốt để chờ cơ hội cho hành động. 

    Hãy tưởng tượng một cuộc cách mạng màu sẽ xảy ra trên mọi miền mọi thành phố của quê hương vào một thời điểm trong tương lai.

    Trong cuộc chay đua tranh giành ảnh hưởng Trung-Mỹ hiện nay, chưa ai biết ván cờ quốc tế sẽ ngã ngũ ra sao và đặt biệt là kết cuộc vào lúc nào. Nhưng có xác suất là Mỹ và các nước dân chủ sẽ thất bại cũng như có cơ hội là chế độ cộng sản ở Tàu sẽ sụp đổ. 

    Việc thực hiện một cuộc cách mạng màu trên quê hương vì thế không phải là không thể xảy ra. Trọng và bè lũ của chúng dùng trấn áp để chúng ta không dám nghĩ về việc lật đổ chúng. Nhưng chúng ta không phải là hoàn toàn vô vọng.

    Một khi Tập bị buộc phải đi đái, thì Trọng sẽ đi vào sọt rát lịch sử.

    Đó là lúc chúng ta cần làm việc để cứu nước, trong nghĩa đen cũng như trong nghĩa bóng. Xin các bạn nung nấu càng lâu càng tốt!

    Nguồn: Stefan C. Groundwater vulnerability in Vietnam and innovative solutions for sustainable exploitation. Journal of Vietnamese Environment. 2014 Nov 5;6(1):13-21. 

    https://docs.google.com/document/d/10sIVLL9Ie0kGYr6d8OBR7Eb5t5caZMmYc8lKn55uJus/edit?usp=sharing

    Available at https://journals.qucosa.de/jve/article/download/59/59/.





     


    Không có nhận xét nào