Header Ads

  • Breaking News

    Đinh Từ Thức - Kỳ nhân gặp sát nhân

    15/12/2013

    Nhân lúc Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tới Hà Nội gặp Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Kính mời đọc lại bài biên khảo của Đinh Từ Thức về cuộc gặp cuả Tổng thống Ngô Đình Diệm-Việt Nam Cộng Hòa và Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower.

    400px-Ngo_Dinh_Diem_at_Washington_-_ARC_542189_thumb

    Tổng Thống Mỹ Eisenhower và Bộ trưởng Ngoại Giao John Foster Dulles đón Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở Washington National Airport ngày 8 tháng 5, 1957

    Hơn nửa thế kỷ trước, nước Mỹ, từ Bạch ốc, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Quốc hội, nhất là giới truyền thông, và Đại sứ quán Mỹ cũng như CIA ở Sàigòn, đã giúp để ông Ngô Đình Diệm trở thành “Kỳ nhân” (Miracle Man). Rồi chỉ mấy năm sau, cũng chính những người Mỹ tại Bạch ốc, Bộ Ngoại giao và Quốc phòng, Quốc hội và nhất là báo chí, cũng như Đại sứ quán Mỹ và CIA ở Sàigòn, đã đẩy ông Diệm tới chỗ chết thảm.

    Chuyện gì đã xẩy ra, khiến kỳ nhân bị thảm sát?

    Đã có nhiều sách vở báo chí nói về sự thành bại của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng ngày càng có thêm nhiều tài liệu mới được giải mật, nhờ đó, nhiều sự việc trở thành rõ ràng hơn. Nhân kỷ niệm 50 năm biến cố 1-11-1963, một lần nữa, thử nhìn lại những diễn tiến đã khiến Tổng thống Ngô Đình Diệm đi từ thành công tuyệt đỉnh tới thất bại thảm khốc.

    Chuyển bại thành thắng

    Mặc dầu có dư luận khá phổ biến cho rằng Ông Diệm là bù nhìn của Mỹ, nhưng nhiều tài liệu đã chứng minh ông Diệm không do Mỹ mang về. Chính Vua Bảo Đại đã đóng vai chủ động trong việc trao quyền cho ông, với sự miễn cưỡng chấp thuận của Pháp, và Hoa Kỳ không chống đối.

    Ông Diệm ghét Pháp, Đại sứ Mỹ Donald Heath lần đầu tiên gặp đã mô tả ông có thái độ ghét Pháp tới mức bệnh hoạn, nên Pháp ghét ông Diệm, không muốn cho ông làm thủ tướng, là điều dễ hiểu. Mùa Hè 1954, Pháp vẫn ghét ông Diệm. Thủ tướng Pháp Pierre Mendes-France tuyên bố: Quyết định của Hoàng Đế Bảo Đại chọn ông Diệm là điều bất hạnh nhất. Nhưng sắp thua Điện Biên Phủ, Pháp miễn cưỡng buông xuôi theo ý muốn của Bảo Đại. Vua Bảo Đại mời ông Diệm, vì thấy Pháp đã hết thời, và hy vọng ông Diệm sẽ được Mỹ ủng hộ để cứu Việt Nam. Trong khi ấy, Mỹ không chống đối, và cũng không có lý do để chống đối, vì Pháp vẫn còn vai trò quan trọng ở Việt Nam. Cá nhân tổng thống Eisenhower, và hai anh em ông Dulles, một người là Ngoại trưởng, một người là Giám đốc CIA, muốn ủng hộ ông Diệm ngay sau khi ông cầm quyền. Nhưng nói chung, Mỹ chưa quyết định tích cực ủng hộ ông Diệm, chưa quyết định có muốn thay thế Pháp ở Đông Dương không. Nhận xét đầu tiên của Đại sứ Mỹ ở Saigòn là ông Diệm không thể thu hút quần chúng, không có bạn, và thiếu hành động cương quyết.

    Trong tình trạng chưa quyết định như vậy, Ngoại trưởng Foster Dulles đã đề nghị với Tổng thống Eisenhower gửi một tướng lãnh cao cấp tới Sàigòn, như là đại diện cho cá nhân tổng thống, một nhân vật uy tín với quyền hành rộng rãi, có đủ khả năng nhận định tình hình tại chỗ, để giúp Washington quyết định thái độ. Tổng thống Eisenhower đã cử một danh tướng của Đệ Nhị Thế chiến là Joseph Lawton Collins, có hỗn danh “Joe Thiên Lôi” (Lightning Joe). Nhiệm kỳ của Tướng Collins được định sẽ kéo dài từ 60 đến 90 ngày, mang danh “Đại diện đặc biệt của Hoa Kỳ tại VN”, ngang hàng Đại sứ. Vào lúc Tướng Collins lên đường đi Sài Gòn, Ngoại trưởng Dulles nói với ông rằng cơ may để Mỹ thành công ở Nam Việt Nam là một trên mười.

    Tướng  Joseph Lawton Collins

    Tư lệnh Pháp ở Việt Nam là Tướng Paul Ely đã gặp Tướng Collins trước khi ông này gặp Thủ tướng Diệm. Cùng là dân nhà binh dễ hiểu nhau, Tướng Collins đã mau chóng thân với Tướng Ely hơn là có cảm tình với ông Diệm. Bất đồng đầu tiên là Thủ tướng Diệm muốn loại Tướng Hinh, trong khi Tướng Collins cho rằng ông Hinh là một tướng lãnh có khả năng. Kế đến, hai tướng Collins và Ely thỏa thuận với nhau về kế hoạch cải tổ quân đội quốc gia VN, mà không tham khảo ý kiến ông Diệm. Tiếp theo, hai ông tướng gặp nhau tại Phủ Toàn quyền, thảo luận về hệ thống giáo dục VN, mà phía VN không được mời tham dự. Ely còn đề nghị tiếng Pháp và văn hóa Pháp cần được bảo tồn trong nền giáo dục VN, và được Collins đồng ý, để dân VN gần gũi Tây phương, hầu khỏi bị cộng sản mua chuộc.

    Sau một tháng ở VN, Tướng Collins kết luận Thủ tướng Diệm là trở ngại chính cho việc tạo dựng một chính quyền vững vàng, vì ông Diệm không chịu mở rộng chính phủ cho các giáo phái và phe nhóm chính trị khác tham dự. Tướng Collins chủ trương ông Diệm phải mời tham gia chính phủ các lãnh tụ mạnh như Bác sĩ Phan Huy Quát. Theo ông Collins, BS. Quát là người có khả năng nhất tại Sàigòn. Vì ông Diệm không chịu mời ông Quát, ông Collins đề nghị thay ông Diệm bằng ông Quát.

    Tháng 1, 1955, Tướng Collins trở lại Wasington báo cáo tình hình. Ông vẫn giữ quan điểm cần phải thay ông Diệm. Ngoại trưởng Dulles đề nghị Tướng Collins trở thành đại sứ thường trực tại Sàigòn, nhưng ông từ chối, chỉ đồng ý ở lại thêm 60 ngày.

    Tháng 3, 1955, ông Diệm quyết định đóng cửa các sòng bạc và nhà điếm ở Sàigòn Chợ Lớn do Bình Xuyên khai thác, và chấm dứt trợ cấp các nhóm giáo phái võ trang. Tướng Ely vận động ông Diệm đừng làm như vậy, nhưng không được. Các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cùng với Bình Xuyên lập ra “Mặt trận Thống nhất” để tranh đấu với ông Diệm. Ngày 21 tháng 3, Mặt trận gửi tối hậu thư, yêu cầu ông Diệm cải tổ chính phủ trong vòng năm này. Chẳng những không chịu, ông Diệm còn lấy lại ngành cảnh sát Bảo Đại đã trao cho Bình Xuyên từ trước. Đêm 29 rạng 30 tháng 3, Quân Bình Xuyên tấn công bộ Tổng tham mưu. Vụ nổ súng kéo dài 3 giờ. Tướng Ely vừa dàn chiến xa và quân Pháp cản trở quân chính phủ đánh lại Bình Xuyên, vừa dàn xếp để hai bên tạm thời ngừng bắn. Vua Bảo Đại đánh điện về yêu cầu ông Diệm từ chức.

    Tướng Collins về phe với Bảo Đại, vì theo ông, dù thắng Bình Xuyên, ông Diệm đã làm suy yếu hàng ngũ chống cộng. Do đó, thay ông Diệm bằng BS. Quát là điều tốt nhất, và nếu vì lý do nào đó ông Quát không thể làm thủ tướng, thì nên mời ông Trần Văn Đỗ. Ông Collins còn dự trù, trong trường hợp cả ông Quát và Đỗ đều không thể thay ông Diệm, thì Quốc trưởng Bảo Đại cần về nước để trực tiếp lãnh đạo chính phủ. Tóm lại, dù cách nào, cũng tốt hơn để ông Diệm ở chức thủ tướng.

    Trước khi trả lời điện văn của Tướng Collins, Ngoại trưởng Dulles hỏi ý kiến Nghị sĩ Mansfield. Ông này nói rằng: Nếu ông Diệm ra đi hoặc bị lật đổ, sẽ có thể đưa đến nội chiến, và Hồ Chí Minh dễ dàng lấy miền Nam. Ngoại trưởng Dulles đánh điện cho Tướng Collins nói không nên thay ông Diệm. Cùng thời gian này, tuần báo TIME của Henry Luce đăng hình ông Diệm ngoài bìa báo, số phát hành ngày 4-4-55, cùng với bài báo hết lời ca tụng ông Diệm. Dulles cũng yêu cầu Tướng Collins gặp Tướng Ely để báo cho Pháp biết lập trưởng của Mỹ đối với ông Diệm. Ely nói với Collins là nếu duy trì ông Diệm, “chúng ta sẽ giữ lại cho Việt Nam một thủ tướng tệ nhất từ xưa tới nay”. Vẫn theo Ely, “vì quyền lợi của Việt Nam và thế giới tự do, không nên duy trì ông Diệm”.

    Đêm 7-4, Tướng Collins đánh điện cho Ngoại trưởng Dulles: “Diệm không có khả năng tạo đoàn kết cần thiết để lập một chính phủ có sức chống lại cộng sản tại Nam VN”. Collins không úp mở: “Tôi tin là Trần Văn Đỗ hay Bác Sĩ Quát có thể thành lập được và đứng đầu một chính phủ như vậy”.

    Trong khi Tổng thống Eisenhower có vẻ ngả theo đại diện của ông là Tướng Collins ở Sàigòn, Ngoại trưởng Dulles lại hỏi ý kiến Nghị sĩ Mansfield. Ông này nói: “Chỉ có hai lãnh tụ tại Việt Nam là Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh, loại bỏ Diệm là dành ưu thế cho Hồ”. Collins nói rằng không thể so sánh hậu thuẫn của Diệm với Hồ, nên vẫn chủ trương: “Thuyết phục Diệm từ chức, nếu ông ta từ chối, để Bảo Đại giải nhiệm ông ta”. Collins còn đề nghị: “Nếu ông ta không thuận từ chức, Tòa Đại sứ có thể thảo sẵn cho ông ta lời tuyên bố”.

    Đến ngày 11 tháng 4, sau khi thảo luận với Tổng thống Eisenhower, Ngoại trưởng Dulles cũng đành đồng ý thay đổi ông Diệm. Nhưng muốn có một giai đoạn chuyển tiếp, bớt dần quyến hành trong tay ông Diệm trao cho ông Quát hoặc Đỗ. Trong khi ấy, Collins vẫn muốn phải thay ngay ông Diệm, vì chiến tranh giữa ông ta và Bình Xuyên có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.

    Bất đồng ý kiến giữa Ngoại trưởng Dulles ở Washington và đại diện Mỹ tại Sàigòn là Tướng Collins khiến Tổng thống Eisenhower khó xử. Dulles đề nghị mời Collins về Mỹ để trực tiếp trình bầy về các lý do cần thay ngay ông Diệm. Trong cuộc gặp gỡ trước khi rời Sàigòn, Collins đã đề nghị ông Diệm mở rộng chính phủ với sự tham dự của một số tên tuổi, ông Diệm cương quyết từ chối tất cả. Collins đi đến kết luận: “Tôi thấy không, nhắc lại làkhông có giải pháp nào khác hơn là thay thế ông Diệm”

    Tướng Collins có vẻ thắng thế khi được Tổng thống Eisenhower mời ăn trưa tại Bạch Ốc. Nhân dịp này, Collins đã nói thẳng với Tổng thống: Tình hình tại Sàigòn cho thấy việc tiếp tục chính quyền hiện tại dưới quyền của Diệm là điều không thể ủng hộ được. Collins kết luận: “…cha này không thể được” (this fellow is impossible). Khi Tổng thống Eisenhower hỏi về một kế hoạch có thể cứu được Nam VN khỏi hỗn loạn và cộng sản, Collins trả lời chỉ có một kế hoặch khả dĩ thực hiện được là đưa Quát lên cầm quyền…, “Quát là người tốt nhất trong tình thế hiện nay”. Tuy nhiên, Tổng thống Eisenhower vẫn không tự mình định đoạt. Ông yêu cầu Collins trình bầy ý kiến với bên Quốc Hội, và đợi Ngoại trưởng Dulles nghỉ hè trở về.

    Từ Canada trở về, thảo luận với Collins trong một bữa ăn trưa, Ngoại trưởng Dulles đồng ý vói Tướng Collins về việc thay thế Thủ tướng Diệm. Sau đó, Dulles, Collins và các phụ tá thảo 2 điện văn gửi Paris và Sàigòn, để thông báo cho ông Diệm biết việc thay thế ông đã không thể tránh được, vì ông đã không lập được một chính phủ có căn bản rộng rãi. Điện văn cũng nói rõ các ông Phan Huy Quát và Trần Văn Đỗ là tân thủ tướng, và người kế nhiệm. Tướng Collins còn thêm vào điện văn: “Nếu Diệm từ chối, chương trình vẫn cứ tiến hành”.

    Trong khi ấy, trận chiến giữa Bình Xuyên và quân chính phủ bùng nổ ngày 28 tháng 4, 1955. Khi Bình Xuyên bắt đầu nã súng cối vào dinh Độc lập, ông Diệm gọi điện thoại báo cho Tướng Ely biết là Bình Xuyên đã phá vỡ cuộc hưu chiến, và tức khắc ra lệnh phản công.

    Washington nhận được hai nguồn tin khác nhau: Tin do các viên chức cao cấp từ Tòa Đại sứ Mỹ ở Sàigòn (Tướng Collins còn đang trên đường từ Hoa Kỳ trở lại Việt Nam) cho biết tình trạng yếu kém của binh sĩ chính phủ chống lại quân Bình Xuyên. Nguồn tin khác trái ngược từ điện văn của Lansdale, nhờ xông xáo khắp nơi và quan sát trận chiến trên đường phố, cho biết mặc dầu bị quân Pháp gây trở ngại, quân chính phủ chiến đấu hăng hái và đang trên đà thắng thế. Đến nỗi, Washington đã phải yêu cầu Lansdale: Nếu ông Diệm vẫn còn sống, vẫn là Thủ tướng và đang được quân đội ủng hộ, thì phải nhờ các viên chức cao cấp Hoa Kỳ xác nhận.

    Khi biết được tình hình khả quan nhờ điện tín của Lansdale, Ngoại trưởng Dulles cấp tốc ra lệnh tiêu hủy điện văn bỏ rơi ông Diệm, “cho đến khi có chỉ thị mới”.

    Sau đó, tin tức cuộc chiến Sàigòn được loan báo ở Washington cùng với những lời tuyên bố của các nhà lập pháp Hoa Kỳ ủng hộ ông Diệm. Nghị sĩ Hubert Humphrey: “Thủ tướng Diệm là hy vọng tốt nhất của chúng ta tại Việt Nam”. Trưởng khối đa số tại Thượng Viện Lyndon Johnson so sánh: “Thủ tướng Diệm là Churchill của Việt Nam”. Có dân biểu trong Ủy Ban Ngoại giao Hạ Viện đòi thay thế Collins. Nghị sĩ Mansfield có cuộc nói truyện ủng hộ ông Diệm định trước vào ngày 2 tháng 5, nhưng vì chiến sự Sàigòn, đã công bố trước bài nói vào ngày 29 tháng 4, trong đó đề nghị sẽ chấm dứt mọi viện trợ cho Việt Nam, ngoại trừ các khoản có tính cách nhân đạo, nếu ông Diệm bị lật đổ.

    Tướng Collins trở lại Sàigòn ngày 2 tháng 5. Điện văn của Ngoại trưởng Dulles đã đợi ông ở tòa Đại sứ, nói rằng các biến cố tại Sàigòn mấy ngày qua đã khiến tình hình Việt Nam thay đổi nhiều, và: “Đối với Hoa Kỳ và thế giới nói chung, ông Diệm dù đúng hay sai, cũng đã trở thành biểu tượng của người quốc gia chống lại các phần tử tham nhũng và lạc hậu”.

    Kết quả, người ra đi không phải ông Diệm. Đại sứ Frederick Reinhardt thay Tướng Collins. Ngoại trưởng Dulles chỉ thị cho tân đại sứ đến VN là để giúp đỡ, không phải để chỉ trích: “Ông sẽ tiếp tục cung ứng cho chính quyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm một cách toàn diện, trung thành, và thật tâm”, và “Ông sẽ giao thiệp với chính quyền này như chính quyền một nước độc lập, có chủ quyền mà chúng ta tin tưởng là nó phải như vậy. Hoa Kỳ không có quyền, và không muốn xếp đặt thành phần chính phủ của một nước độc lập và có chủ quyền”.

    Kỳ Nhân

    Thắng Bình Xuyên, ông Diệm cũng thắng “Joe Thiên Lôi”, và trở thành “Kỳ Nhân” (Miracle Man). Sau tuần báo Life ca tụng ông Diệm với tựa lớn “Kỳ Nhân cứng cựa của Việt Nam” (The Tough Miracle Man of Vietnam), hai chữ “Kỳ Nhân” nghiễm nhiên trở thành nhãn hiệu của ông Diệm. Newsweek: “Ngô Đình Diệm là bằng chứng sống của điều thường được gọi là phép lạ…” New York Herald Tribune: “Người tạo phép lạ từ Á châu – Diệm của Nam Việt Nam”. Vua báo William Randolph Hearst Jr. viết trên New York Journal-American: “Phép lạ đã xẩy ra tại Việt Nam như thế nào?” Nhà báo Edward R. Murrow, người từng nổi tiếng nhờ vụ đối đầu với nghị sĩ chống cộng Joe McCarthy, nói trong một cuộc phỏng vấn trên radio: “Diệm đã đạt được nhiều tiến triển trong 6 tháng qua, khiến có người đã dùng chữ ‘phép lạ’ để mô tả những thành quả tại Nam VN”.

    Ngay khi hai chữ “phép lạ” không được dùng, ông Diệm vẫn được ca tụng nhiệt liệt. Ngoại trưởng Dulles phát biểu sau vụ thắng Bình Xuyên: “Tôi rất ấn tượng về Thủ tướng Diệm. Ông ấy thực sự là một nhà ái quốc đã tận hiến cho độc lập, và cho dân tộc ông được hưởng tự do về chính trị và tôn giáo”. Phụ tá Ngoại trưởng về Đông Nam Á Robertson nhận xét năm 1956: “Á châu đã cho chúng ta một khuôn mặt vĩ đại khác qua Tổng thống Diệm, và cả Thế giới Tự do đã phong phú thêm qua thí dụ về sự quyết tâm và đạo đức của ông”.

    Báo Saturday Evening Post viết: “Việt Nam là điểm sáng tại Á châu”, và điều này “nhờ một ông quan trong bộ đồ sạc-kin, người đã làm đảo lộn thời biểu của phe đỏ”. Tuần báo US New & World Report đăng hình ông Diệm có dân chúng bu quanh với chú thích: “Ngô Đình Diệm của Nam VN được công chúng ủng hộ. Thành công dưới sụ lãnh đạo của ông Diệm làm ngạc nhiên những người dè dặt và người cộng sản tăng thêm giận dữ”. Báo TIME ghi công ông Diệm đã làm cho Nam VN được hòa bình và ổn định mà ít ai dám tiên đoán khi nước này bị chia đôi tại Hội nghị Geneva. Báo Reader’s Digest gọi ông Diệm là một người “tí hon vĩ đại nhất Á châu”, và “Diệm đã đứng như ngọn hải đăng hướng dẫn cho người dân được tự do giữa cảnh bão tối đe dọa Đông phương”. Báo Foreign Affairs: “Lịch sử chưa đánh giá Diệm là một trong những khuôn mặt lớn của Thế Kỷ 20 tại Á châu” nhưng “một cách vắn tắt, một phép lạ chính trị hoàn toàn không ngờ đã xẩy ra tại Nam VN”. Báo Foreign Policy Bulletin viết: Diệm đang trong tiến trình “Biến đổi Việt Nam thành một trong những thành công nhất của Thế giới Tự do tại Á châu”. Và còn nhiều nữa những lời ca tụng, kể ra không hết.

    Điều đáng chú ý, là trong một xã hội dân chủ như Hoa Kỳ, thường có nhiều khuynh hướng đối chọi nhau, khiến người vừa ý phe này, có thể mất lòng phe kia. Ông Diệm là trường hợp ngoại lệ. Ngoài những lời ca tụng của phe bảo thủ như đã trình bầy, ông Diệm cũng được cả khuynh hướng cấp tiến tích cực ủng hộ. Trong khi các lãnh tụ khác tại Á châu như Bảo Đại và Tưởng Giới Thạch bị phe cấp tiến chỉ trích là bù nhìn, hay tham nhũng thối nát, ông Diệm được coi là người không thể tham nhũng, và có tinh thần độc lập. New York Post, tờ báo hàng đầu có khuynh hướng cấp tiến gọi ông Diệm là “một người quốc gia bất khả tham nhũng” (an incorruptible nationalist), và tiên đoán, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, Nam VN có thể trở thành “tiểu thiên đàng theo tiêu chuẩn của Á châu”. Tờ Reporter đã khen việc Hoa Kỳ ủng hộ ông Diệm như là một hành vi sửa lại những sai lầm trong quá khứ, vì chuyên ủng hộ những người thiếu tư cách để chống cộng.

    Những bạn Mỹ của Việt Nam

    Khi Tổng thống Eisenhower gửi Đại sứ đặc nhiệm Joseph Lawton Collins tới Việt Nam vào cuối tháng 10 năm 1954, Mỹ vẫn chưa dứt khoát về việc có quyết tâm ủng hộ ông Diệm hay không. Sau mấy tháng ở Việt Nam, danh tướng Collins, một phần thấy tình hình Nam VN quá rối ren, một phần do ảnh hưởng thân thiết với tướng Paul Ely, đã đồng ý với nhận định của Pháp rằng ông Diệm là người “vô hy vọng”. Cũng thời gian này, Ủy Ban Quốc Tế Cứu Nguy (International Rescue Committee – IRC) phái ông Joseph Buttinger, một người Mỹ gốc Áo tới Việt Nam giúp dân di cư từ miền Bắc sau hiệp định Geneva. Nhờ biết tiếng Pháp và theo đạo Công giáo, Buttinger dễ dàng trở thành bạn của ông Diệm. Chỉ sau một tháng ở Sàigòn, ngày 21-11-54 Buttinger đã viết về cho Leo Cherne, Chủ tịch IRC ở Mỹ rằng: “Diệm là người mà những ai khá nhất có thể đặt vào ông ta những hy vọng chính trị. Nếu ông ta không thành công, thì không ai có thể”.

    Trước khi trở về Mỹ, trong lá thư viết cho ông Diệm, Buttinger nói những ngày ở Việt Nam của ông là “một trong những thời gian hấp dẫn và sung sướng nhất trong đời tôi”. Ông hứa khi về Mỹ sẽ dành hết thì giờ và nghị lực để nói về những người không quản khó nhọc đã di cư từ miền Bắc với hy vọng được yên ổn và tự do. Và trên hết, ông hứa: “khi nói về dân tộc Việt Nam, tôi sẽ nói về vị tổng thống của họ — nói về sự can đảm, khôn ngoan, và tận tụy của ông – người mà tài lãnh đạo của mình đã đem lại hy vọng cho rất nhiều, cho xứ sở ông và cho cả thế giới dân chủ”.

    Buttinger đã giữ lời hứa khi trở lại nước Mỹ, ông mướn Harold Oram, chủ một cơ sở quảng cáo nổi tiếng ở New York đã từng giúp gây quỹ cho IRC, để tổ chức một nhóm gọi là “Những bạn Mỹ của Việt Nam” (American Friends of Vietnam – AFV). Mục tiêu của AFV là vận động để “các nhà lãnh đạo dư luận, các viên chức chính quyền, các nhà lập pháp Hoa Kỳ có thiện cảm trong việc đề ra những biện pháp cần thiết để duy trì tự do của Việt Nam”. 

    Oram giới thiệu Buttinger với Hồng Y Spellman, người giúp Buttinger vận động với Bộ Ngoại giao, và các nhà lập pháp nổi tiếng; trong số này có Dân biểu Walter Judd. Ông này giúp Buttinger gặp Kenneth Young, Giám đốc cơ quan Phi Luật Tân và Đông Nam Á Sự Vụ thuộc Bộ Ngoại giao, để trình bầy rằng: “Ủng hộ chính quyền Diệm là hy vọng tốt nhất để cứu Việt Nam cho Thế giới Tự do”. Young chuyển quan điểm của Buttinger cho Bộ trưởng Ngoại giao John Foster Dulles. Buttinger cũng bắt đầu liên lạc với Giám đốc CIA là Allen Dulles, em của Ngoại trưởng.

    Cũng qua Oram, Buttinger gặp được các chủ bút của báo New York Times, New York Heald Tribune, Newsweek, Time và Life. Sau các cuộc gặp gỡ này, Buttinger đã khoe với Nghị sĩ Mansfield là các báo này đều mạnh mẽ ủng hộ Diệm, và cuộc vận động đã đạt kết quả ngoài sự mong đợi. Chính Buttinger còn viết bài đăng trên các báo New Leader, Reporter, và New Republic, rằng; “Thủ tướng Diệm là một người tận tụy và liêm khiết…. Về phương diện nghị lực và khả năng, ông ấy có thể sánh với bất cứ ai có thể tìm được ở Á châu ngày nay”. Vào đầu năm 1955, Buttinger đã được khen tặng là “hầu như chỉ có một người mà đã làm được sự thay đổi quan niệm của công chúng Hoa Kỳ về Việt Nam trong vòng một tháng”. 

    Kỳ công của Buttinger và Oram là đã quy tụ được hầu như đủ mặt các nhà tai mắt của Hoa Kỳ thời bấy giờ vào hội Những Bạn Mỹ của VN. Những người từ đủ mọi giới, quan trọng hơn cả là giới truyền thông, như: Whitelaw Reid, Chủ nhiệm và Chủ bút New York Herald Tribune; Malcolm Muir, Chủ nhiệm Newsweek; Walter Annenberg, chủ Philadelphia Inquirer; William Randolph Hearst Jr. của New York Journal-American; và quan trọng hơn cả Henry Luce, chủ công ty Time. Với những tay tổ báo chí như vậy làm hậu thuẫn, ông Diệm chẳng những được đề cao, mà những lời chỉ trích ông cũng khó lọt ra được.

    Ngoài ra, AFV còn quy tụ mọi khuynh hướng và mọi thành phần, như Mike Mansfield và John Kennedy là các Nghị sĩ thuộc đảng Dân Chủ, Walter Judd và Clement Zablocki là Dân biểu thuộc đảng Cộng Hòa, các nhà báo bảo thủ như Henry Luce và William Randolph Hearst, các nhà khoa bảng cấp tiến như Samuel Eliot Morison và Arthur Schlesinger Jr., các anh hùng chiến trường như Audie Murphy và Mike O’Daniel, như nhà đạo diễn được Oscar Joseph Mankiewicz, và cả vị linh mục được coi như thánh sống là Tom Dooley. Đặc biệt hơn cả, Chủ tịch Đảng Xã Hội (American Socialist Party) là Norman Thomas, người từng 6 lần tranh cử tổng thống, cũng là thành viên của nhóm.

    Trong cuộc họp đầu tiên của ban điều hành AFV vào cuối năm 1955, Oram hãnh diện loan báo đã có trên tám chục “Nhân vật Hoa Kỳ lỗi lạc” tham gia nhóm, trong số, gồm tới một phần ba là thành viên Ủy ban Ngoại giao Hạ viện. Cựu Giám đốc cơ quan Tình báo Chiến lược OSS (tiền thân của CIA) là William Donovan đóng vai Chủ tịch danh dự, và các sáng lập viên của nhóm đã đồng thanh quyết định mời danh tướng John O’Daniel là Chủ tịch “Những bạn Mỹ của Việt Nam”. O’Daniel cũng là một danh tướng của Đệ Nhị Thế chiến, từng lãnh đạo phái bộ viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ (MAAG) tại Sài Gòn vào 1954-1955, cùng thời với Tướng Collins. Nhưng trong khi Tướng Collins tìm đủ cách để loại ông Diệm, Tướng O’Daniel chủ trương bảo vệ ông Diệm bằng mọi giá, và bảo vệ tới cùng. Ngay cả khi những người bạn khác của VN như Buttinger và Lansdale đã bỏ ông Diệm vào đầu thập niên 60, Tướng O’Daniel vẫn cho rằng ông Diệm là một lãnh tụ vĩ đại nhất của VN, “một vị anh hùng của dân tộc ông”, và là “một người cha của đất nước ông, như Washington đã trở thành người cha cua chúng ta”. Cuối cùng, Tướng O’Daniel là người duy nhất trong số thành viên của AFV đã từ chối không ký tên trong lá thư khen ngợi các tướng lãnh đã làm đảo chánh ông Diệm năm 1963, và ông đã từ chức để phản đối.

    Tổng thống Diệm trong buổi diễn hành trên đại lộ Broadway, thành phố New York, ngày 13 tháng 5, 1957 (với viên chức thành phố và trưởng ban giao thức (chief of protocol) của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ)

    Cao điểm của AFV trước chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Diệm năm 1957, là một Hội nghị tại khách sạn Willard ở Washington vào mùa Hè năm 1956, với đề tài “Dự phần của Hoa Kỳ tại VN” (America’s Stake in Vietnam). Hội nghị đã quy tụ khoảng hai trăm người, gồm đủ mọi giới, mọi ngành. Trong diễn văn chào mừng, Tướng O’Daniel tuyên bố: “Từ khởi đầu, là thủ tướng rồi tổng thống của Nam VN, Ngô Đình Diệm đã chứng tỏ sự can đảm và quyết tâm… Hội nghị này được triệu tập để nhấn mạnh những tiến bộ đã đạt được của Tổng thống Diệm và nhân dân của ông, những tiến bộ đã gây cảm hứng cho sự ngưỡng mộ và kính trọng”. Nghị sĩ John F. Kennedy, sau trở thành tổng thống, ca tụng ông Diệm về “những thành công tuyệt vời trong việc đối đầu một cách cứng rắn và quyết tâm với những khủng hoảng chính trị và kinh tế đã liên tục băng hoại Việt Nam”. Phụ tá Ngoại trưởng Robertson tuyên bố: “Thế giới tự do nợ Tổng thống Diệm một sự biết ơn”. Chủ tịch IRC Cherne tuyên bố: “Diệm đã thành công trên sự mong đợi của những người lạc quan nhất”. Vẫn theo Cherne: “Một cơ hội đã tạo được ở Nam VN… một mẫu mực về tự do. Tất cả những ai ở Á châu đói khát về nhân phẩm có thể nhìn vào đấy và tìm lấy bài học cho mình”

    Cả Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles đều gửi điện văn chúc mừng hội nghị. Tổng thống Eisenhower vào dịp này đã xác nhận Nam VN là một quốc gia độc lập. Điều này hàm ý Hoa Kỳ ủng hộ Tổng thống Diệm trong việc khước từ tổ chức bầu cử theo như bản tuyên bố sau cùng của Hội nghị Geneva. Tuy mắc bận vào phút chót, không thể tham dự Hội nghị, nhưng một trong những người tích cực ủng hộ ông Diệm hơn cả, là Nghị sĩ Mansfield, vị Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện đã tuyên bố giữa phòng họp Quốc hội: “Diệm không chỉ là cứu tinh của nước ông, mà theo tôi, ông còn là vị cứu tinh của toàn thể Đông Nam Á”

    Nhưng không phải những người bạn Mỹ đã ủng hộ ông Diệm một cách mù quáng. Vào tháng 10 năm 1957, AFV đã gửi thư cho ông Diệm, yêu cầu đừng thi hành án tử hình tám tử tội bị kết án vì theo Bình Xuyên. Ông Diệm đã nhượng bộ một phần, chỉ thi hành án tử với hai người, còn sáu người cho đổi thành án tù chung thân. Như vậy, mầm mống về những bất đồng giữa những Bạn Mỹ của VN và ông Diệm đã manh nha từ khi uy tín của ông Diệm lên cao nhất tại Hoa Kỳ.

    Chuyến đi vinh quang

    Sau khi đã dẹp xong Bình Xuyên và chế ngự được đối lập, vào tháng Hai 1957, ông Diệm tỏ ý muốn có một chuyến viếng thăm Hoa Kỳ. Đại sứ Reinhardt cho biết nước Mỹ háo hức được đón tiếp ông. Bộ Ngoại giao Mỹ chuẩn bị rất công phu lễ nghi đón tiếp. Một cuốn sách nhỏ với những chỉ dẫn tỷ mỷ được sở Nghi lễ cho ấn hành, gồm cả những chi tiết như phải phát âm chữ NGÔ thế nào cho đúng; mô tả hình dáng và tính tình ông Diệm, thứ tự và chức tước những người chúc tụng trong một bữa tiệc v.v… Và không quên ghi chú rằng các viên chức không nên chỉ trích ông Diệm về đường lối cai trị, vì đó là lãnh vực rất nhậy cảm đối với ông.

    Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Eisenhower, nghi lễ đón tiếp quốc khách thường chỉ diễn ra tại Bạch Ốc. Trước cuộc đón ông Diệm, chỉ có một lần Tổng thống ra phi trường National đón Vua Ibn Saud của nước Ả Rập Saudi, vì lời yêu cầu của nước này. Tổng thống Eisenhower cũng ra phi trường đón ông Diệm, nhưng với lễ nghi long trọng hơn.

    Tổng thống Mỹ đã dùng máy bay riêng là chiếc Columbine III, đón Tổng thống Diệm từ Honolulu. Phi cơ đáp xuống phi trường National ở Washington DC. vào lúc 12 giờ, ngày 8 tháng 5, 1957. Từ cửa máy bay bước ra, Tổng thống Diệm được đón chào bằng 21 phát đại bác. Tổng thống Eisenhower cùng Ngoại trưởng Dulles, và Chủ tịch Bộ Tham Mưu Liên Quân đã đợi sẵn dưới chân cầu thang. Tổng thống Eisenhower hướng dẫn Tổng thống Diệm duyệt qua đạo quân danh dự, trước khi lên bục đọc lời chào mừng. Ông đã ca tụng lòng yêu nước của Tổng thống Diệm, và rằng ông Diệm đã hoàn thành một nhiệm vụ cao cả là ổn định đất nước với cực kỳ can đảm, và cực kỳ nghiêm túc – “là những phẩm cách làm tăng thêm sự ngưỡng mộ của chúng tôi, và khiến chúng tôi vui mừng được đón tiếp Ngài”. Trong đáp từ, ông Diệm nói chính nhờ sự viện trợ bất vụ lợi của Hoa Kỳ, mà “chúng ta đã hoàn thành được một phép lạ tại VN”. Rồi Ủy viên Quận Columbia, (chức vụ của ngừơi đứng đầu Thủ Đô Washington — hồi đó chưa có Đô trưởng dân cử) trao cho Tổng thống Diệm chìa khóa Thủ đô. Sau đó, cả hai tổng tống cùng lên một chiếc xe mui trần để tới dinh quốc khách Blair House, ngay trước Bạch ốc. Hơn năm chục ngàn công chức Thủ đô và Liên bang được nghỉ nửa ngày để đi đón quốc khách, đã dàn hàng dọc hai bên đường vẫy chào.

    Ngày hôm sau, Tổng thống Diệm được lưỡng viện Quốc hội đứng lên hoan hô, và bài diễn văn của ông được nồng nhiệt tán thưởng. Các báo lớn như New York Times và Washington Post đều khen hay. Báo Christian Science Monitor còn viết “Ngô Đình Diệm đã chiếm được cả hào quang lẫn trái tim của Washington”.

    Ngày thứ ba tại Washington, Tổng thống Diệm còn thành công hơn trong bữa tiệc trưa tại Câu Lạc Bộ Báo Chí. Các chính khách nổi tiếng của Á châu thời bấy giờ như Nehru của Ấn Độ, và Sukarno của Nam Dương đều có khuynh hướng trung lập, trong khi ông Diệm dứt khoát chống trung lập. Trước câu hỏi của báo chí tại sao chống chính sách trung lập, Tổng thống Diệm trả lời: “Vì cộng sản không trung lập, chúng tôi không thể trung lập”. New York Times nhận định: “Đó là lời nói ngay thẳng từ một người can trường… Không còn nghi ngờ gì nữa rằng Ngô Tổng thống đã hoàn toàn đứng về phe Thế giới Tự do”.

    Trước khi ông Diệm rời Washington đi New York ngày 11 tháng 5, Bạch Ốc ra thông cáo ca tụng Tổng thống Diệm là người đã “đạt được nhiều thành tích đáng kể cho Nam VN”. Có một chi tiết đáng ghi nhận là, dù đóng vai quốc khách tại Thủ đô Hoa Kỳ, ông Diệm vẫn không bỏ được tật độc thoại. Ngoại trưởng Dulles cùng với Phụ tá Ngoại trưởng Robertson tới Blair House thăm ông Diệm, và đành ngồi nghe ông nói, không thể chen vào một lời. Khi ra về, Ngoại trưởng Dulles đã nói đùa với Phụ tá NT Robertson “Anh có nghĩ rằng, ngay tại Washington này, ông ấy có muốn nghe ngoại trưởng của chúng ta nói không?”

    So với Washington, New York còn đón tiếp ông Diệm tưng bừng hơn. Vẫn dùng chiếc Columbine III, Tổng thông Diệm tới phi trường LaGuardia, được một đoàn xe có môtô hộ tống, đưa thắng tới Thánh Đường Saint Patrick, nơi đây, Đức Cha Joseph Flannelly phải bắt đầu thánh lễ chậm nửa tiếng để chờ. Sau khi hướng dẫn khách tới chỗ danh dự tại cung thánh, vị Giám mục chủ tế nói: “Chúng ta vui mừng và hãnh diện được nhìn thấy tại cung thánh của Thánh đường New York vị Tổng thống của Nam VN, Ngài Ngô Đình Diệm. Cả thế giới đã ca tụng khi vị chính khách biết sợ quyền phép Chúa, chống cộng và can đảm này đã cứu được Nam VN”.

    Buổi chiều cùng ngày, Tổng thống Diệm đã tới viếng Tu Viện Maryknoll, nơi ông đã từng lưu ngụ một thời gian trước năm 1953. Tất cả chủng sinh đều mặc phẩm phục đen, nồng nhiệt đón chào. Rồi ông tới Nam Orange ở New Jersey để nhận bằng Tiến sĩ danh dự Luật khoa tại Đại học Seton Hall. Trong bài vinh danh ông, Đại học này ghi nhận ông Diệm đã “Hơn bất cứ ai, chặn được cộng sản vào giờ phút họ đã chinh phục được một phần VN”.

    Cao điểm chương trình đón tiếp tại New York, là cuộc diễn hành từ phía dưới Đại lộ Broadway tới Tòa Thị Chính. Đoàn xe mui trần có mô tô và mật vụ đi bộ hộ tống, đi rất chậm giữa hai trăm năm chục ngàn người tung hô từ hai bên đường, và từ trên các cao ốc dọc lộ trình, đưa ông Diệm tới gặp Thị trưởng Robert Wagner. Ông Thị trưởng đã gọi ông Diệm là “người mà tự do chính là hơi thở của mình”, là “một phép lạ chính trị”. Đáp từ Thị trưởng Wagner, cũng như lên tiếng trong một cuộc gặp gỡ giới doanh thương sau đó, Tổng thống Diệm đã ca tụng dân tộc Việt Nam cần cù chịu khó, có đầu óc tự chủ và thực tế. Ông nói người ngoại quốc ngày nay không tìm thấy các ngôi chùa tráng lệ hay đền đài nguy nga trong rừng, bởi thay vì làm những việc phí phạm không sản xuất đó, người Việt từ bao nhiêu đời đã dùng vốn liếng dành dụm của mình để khai khẩn ruộng vườn. Kết quả là ngày nay ruộng vườn rải rác khắp nơi ở Việt Nam, trong khi rừng rậm nuốt chửng các nền văn minh khác.

    Chiều ngày thứ nhì ở New York, Tổng thống Diệm được hội AFV vinh danh và nhận giải thưởng Richard Byrd tại một dạ tiệc ở Khách sạn Ambassador, do vua báo chí Henry Luce chủ tọa. Và mặc đầu ông Diệm mới rời Washington được hai hôm, Tổng thống Eisenhower cũng gửi một điện văn tới dạ tiệc, ca tụng ông là một chính khách có những phẩm chất cao quý nhất.

    Ngày thứ ba tại New York, ông Diệm dự thánh lễ do Hồng Y Spellman cử hành, rồi dự tiệc trưa tại khách sạn nổi tiếng nhất thời đó là Waldorf-Astoria, do Hội đồng Thương mại Kỹ nghệ Hoa Kỳ Đông Nam Á khoản đãi. Sau đó, ông Diệm lên máy bay đi Detroit, để thêm một lần nữa nhận bằng Tiến sĩ Danh dự, tại Đại học Michigan. Từ Michigan, phái đoàn ông Diệm đi Knoxville, Tennessee, rồi từ đây đi Los Angeles, để tham dự dạ tiệc do Hội Đồng Kinh DoanhThế Giới tại Los Angeles khoản đãi.

    Tất cả mọi nơi Kỳ Nhân đi qua, đều được báo giới nhiệt liệt ca tụng ông như một “Nhà giải phóng Á châu”, “Một nhà vô địch tự do”, “Một biểu tượng đích thực của Người Việt quốc gia… có khả năng chặn đứng Hồ Chi Minh”. Báo New York Post: “Tổng thống Ngô Đình Diệm là điều cuối cùng nhân loại đã chứng tỏ rằng ‘mất chính nghĩa’ là điều có thể cứu vãn được, nếu có người lãnh đạo quả cảm”. Sau mười ngày hoàn thành một chuyến đi đầy vinh quang, Tổng thống Diệm đã lên đường trở về, vẫn trên chiếc máy bay riêng của Tổng thống Eisenhower, vào ngày 19 tháng 5, ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. Một ngày có chủ đích để chứng tỏ rằng, với những thành công to lớn của chuyến đi, người đối thủ tại miền Bắc sẽ ở thế bị áp đảo.

    NgoDinhDiem_Time-cover.jpg

    Người đã được Hoa Kỳ coi như một vị anh hùng, nhận được không kể xiết những lời ca tụng ít chính khách nào có được, rồi chỉ sáu năm sau, Kỳ Nhân đã phải đối diện với sát nhân, và kết liễu cuộc đời trong bi thảm. Không bởi ai khác, mà do chính guồng máy đã biến ông thành Kỳ Nhân. Nguyên nhân tại đâu?

    Tương tự huyền thoại Mỹ đưa ông Diệm về cầm quyền năm 1954 nhưng chưa ai trưng được bằng cớ, từ 50 năm qua, có nhiều người cho rằng Mỹ đã hạ ông Diệm, để có thể đưa quân chiến đấu vào VN, vì ông Diệm chống lại chủ trương này. Cho đến nay, chưa ai nêu được văn kiện hay nhân chứng khả tín nào nói rằng Mỹ chủ trương đưa quân vào chiến đấu ở VN trước biến cố 1963. Thật ra, vào tháng 11 năm 1961, Tướng Maxwell Taylor đã có đề nghị này, nhưng không được Tổng thống Kennedy chấp thuận. Và có lúc, chính ông Diệm đã yêu cầu Mỹ mang quân vào, không phải để chiến đấu, mà đóng dọc theo vĩ tuyến 17, ngăn chặn sự xâm nhập của Bắc Việt, để quân đội VNCH rảnh tay chiến đấu với quân Cộng sản. Cả yêu cầu này cũng không được thi hành.

    Vào ngày 7 tháng 7 năm 1959, nhân dịp kỷ niệm Song Thất lần thứ năm (ngày Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức cầm quyền), báo New York Times vẫn còn hết lời ca tụng: “Không phải một kế hoạch được thực hiện, mà một phép lạ đã xẩy ra trong 5 năm. Việt Nam có tự do, và đang trở thành mạnh mẽ hơn trong việc bảo vệ tự do của mình, và cho chúng ta. Hôm nay chúng ta có lý do để hoan hô Tổng thống Ngô Đình Diệm”.

    Nhưng sau “Phép lạ 5 năm”, ông Diệm bắt đầu gặp khó khăn khi bước sang thập niên 60. Những khó khăn này cùng lúc xuất phát từ Việt Nam, và ở nước ngoài.

    Dĩ mật trị mật

    Sau khi dẹp xong các phe phái chống đối, ông Diệm và gia đình bắt đầu củng cố địa vị. Edward Lansdale, người đã giúp đỡ ông Diệm rất nhiều vào lúc đầu, cũng là người đã nhìn thấy sự nguy hiểm từ khá sớm. Ông viết trong hồi ký “In the Midst of Wars”: “…[N]hiều gia đình đến nhà tôi vào một buổi sáng để cho biết thân nhân họ bị bắt giữ vào lúc nửa đêm: tất cả những người này đều có liên hệ tới vấn đề chính trị”.

    Buổi sáng hôm ấy, nhờ có cuộc gặp gỡ ông Diệm đã hẹn trước, Lansdale cho biết: “Nhân cơ hội này, tôi cho ông Diệm biết về những vụ bắt bớ ban đêm ấy và đưa tên những người tôi nghe nói đã bị bắt giữ. Ông nhận ra những người này và tỏ ra ngạc nhiên về việc bắt bớ nói trên. Ông kiếu tôi để đi ra ngoài khoảng 20 phút, khi trở lại ông báo cho tôi biết rằng đó là sự lầm lẫn và những người này sẽ được tha. Ông có vẻ bối rối và lúng túng khi nói chuyện này với tôi. Tôi ngờ rằng ông đã đem sang nói với ông Nhu mà văn phòng ở ngay phía sau dinh, và có lẽ thực sự ông Diệm không biết gì về câu truyện trước khi tôi nói ra”.

    Lansdale viết tiếp: “Thấy gặp dịp thuận tiện, tôi bèn nói với ông Diệm những gì tôi được nghe về việc tuyển mộ bí mật đảng viên Cần Lao trong mọi cơ quan quân dân sự và về lễ tuyên thệ trong đó tân đảng viên phải quỳ để hôn ảnh ông. Ông Diệm cười và nói là điều vô lý; ông chắc chắn rằng không có những chuyện ấy. Về đảng Cần Lao thì quả thật có nhiều tân đảng viên gia nhập để ủng hộ ông chỉ vì họ có cùng chung với ông lập trường phát triển và xây dựng Việt Nam. Tất cả những gì ông Nhu đang làm chỉ là tổ chức một đảng chính trị đằng sau vị Tổng thống VNCH mới đắc cử, không khác chi ở Mỹ, mỗi tổng thống có một đảng ủng hộ”.

    Lansdale còn nói thêm với ông Diệm rằng: “Nếu đảng Cần Lao được ông Nhu tổ chức như một cơ cấu chính trị bí mật khắp trong chính phủ, dùng công an mật vụ do ông Nhu kiểm soát để loại trừ đối lập, thì đảng Cần Lao sẽ khiến cho các đảng phái quốc gia khác rút vào phạm vi hoạt động bí mật để khỏi bị tiêu diệt. Nó sẽ làm cho hàng ngũ chính trị Nam VN bị phân hóa sâu xa trong một cuộc đấu tranh âm thầm nhưng tàn tệ giữa những người quốc gia với nhau, vào đúng lúc mà những người có tư tưởng yêu nước cần sinh hoạt công khai xây dựng hiến pháp cũng như thiết lập một thể chế chính trị mới đối lại với chế độ cộng sản miền Bắc. Những sự kiện đang xẩy ra chỉ dẫn đến việc tái diễn những thảm kịch ghê gớm trong những thành phần đảng phái quốc gia như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Hòa Hảo, Cao Đài”.

    Sau khi trình bầy với ông Diệm mà không đạt được hứa hẹn nào, Lansdale đã nêu thẳng vấn đề với Đại sứ Mỹ: “Tôi nói với Đại sứ Reinhart về chuyện này, và kết luận rằng đã đến lúc các nhân viên Mỹ thuộc quyền ông có liên lạc thường xuyên với ông Nhu, và đang cố vấn cho ngành Cảnh sát Đặc biệt, cần phải ráng thuyết phục người Việt Nam hướng dẫn một quan niệm chính trị rộng rãi và cởi mở hơn”. Câu trả lời của Đại sứ Reinhart là: Chính sách của Hoa Kỳ đã được quyết định, người Mỹ phải làm tất cả những gì có thể để giúp vào việc xây dựng một đảng quốc gia mạnh ủng hộ ông Diệm. Ông Diệm đã là một tổng thống dân cử, cần có một đảng để làm hậu thuẫn.

    Không thành công ở Sài Gòn, Lansdale được phép về Mỹ trình bầy quan điểm với Ngoại trưởng Foster Dulles, và em là Giám đốc CIA Allen Dulles, nhưng cũng thất bại. Lansdale đã xin đổi về Mỹ, nhưng bị giữ lại cho đền hết năm 1956.

    Sự lo ngại của Lansdale đã được chứng minh qua thực tế. Chẳng những không được đối lập công khai, ngay việc gửi thư cho ông Diệm yêu cầu cải tổ như “Tuyên ngôn Caravelle” vào 26 tháng 4 năm 1960 cũng gặp rắc rối. Thay vì các chính đảng cùng nhau hoạt động công khai để vận động sự ủng hộ của quần chúng, và cầm quyền bằng sự quyết định của người dân qua lá phiếu, thì rút vào bí mật để thảo hoạch những âm mưu cướp chính quyền bằng đảo chánh, hay bạo lực. Kết quả là vụ đảo chánh hụt 11 tháng 11 năm 1960, và vụ bỏ bom dinh Độc Lập ngày 27 tháng 2 năm 1962. Đại sứ Mỹ Durbrow gây áp lực đòi ông Diệm cải tổ, nới rộng tự do dân chủ. Nhưng ông Diệm không phải loại người dễ bị khuất phục, càng áp lực, ông càng cứng rắn.

    Vùng dậy hay là chết

    Trong khi ấy, sau mấy năm thiệt hại nặng nề trước “Phép lạ” của ông Diệm, Cộng sản tìm đường sống bằng cách gia tăng hoạt động. Theo chính tài liệu từ phía cộng sản, trong khoảng thời gian từ 1955 đến 1958, số đảng viên bị thiệt hại lên tới 90%, từ 60.000 còn có 5.000. Năm 1959, Hội nghị Trung ương đảng thứ 15 đã quyết định thôn tính miền Nam bằng võ lực, bắt đầu mở đường mòn HCM. Theo lượng định của tình báo Hoa Kỳ, trong hai năm 1959 và 1960 đã có 26 nhóm từ Bắc xâm nhập miền Nam, tổng cộng lên tới 4.500 người.

    Tại miền Nam, Nguyễn Thị Định lãnh đạo cuộc nổi dậy bạo động ở Bến Tre đầu năm 1960. Hơn tuần sau là vụ tấn công đồn ở Tây Ninh vào đầu năm âm lịch, trong lúc đa số binh sĩ về nhà ăn Tết. Tuy nhiên, để tránh Mỹ có lý do trực tiếp can thiệp, Hà Nội chưa ra mặt trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tại miền Nam. Hoạt động chính của du kích quân là bắt cóc và ám sát, đưa đến tình trạng hai chính quyền tại nhiều nơi ở nông thôn: ban ngày Quốc gia, ban đêm Việt cộng. Theo báo cáo về tình hình an ninh cua tòa Đại sứ Mỹ vào đầu năm 1960, trong cả năm 1958 có 193 vụ ám sát, nhưng riêng 4 tháng cuối năm 1959 đã có tới 119 vụ. Ngày 8 tháng 7 năm 1959, khủng bố cho nổ bom trong căn cứ Biên Hòa, 2 quân nhân Mỹ thiệt mạng. Đây là thiệt hại nhân mạng đầu tiên về phía Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam. Tháng 9-1959 Phạm Văn Đồng tuyên bố sẽ có mặt ở Sàigòn, và hai tháng sau tuyên bố sẽ đẩy Mỹ ra biển.

    Để làm bình phong chỉ huy cuộc chiến, Hà Nội cho ra đời tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ngày 20 tháng 12 năm 1960.

    Ông Diệm muốn Mỹ tăng viện, để có thể gia tăng các lực lượng phòng thủ, đối phó với tình thế mới. Nhưng Đại sứ Durbrow phản đối, đòi cải tổ chính trị trước. Mãi đến khi tình hình Ai Lao nghiêm trọng, mới thôi chống việc tăng quân.

    Thần đồng nắm quyền

    Về phía Mỹ, những người tích cực ủng hộ ông Diệm lúc đầu bớt dần. Lansdale về Mỹ cuối năm 1956. Ngoại trưởng Dulles, người ủng hộ ông Diệm mạnh mẽ nhất, qua đời vào mùa Xuân năm 1959. Đầu năm 1961 chính quyền Cộng hòa Eisenhower thay bằng chính quyền Dân chủ Kennedy. Cả một ê-kíp mới gồm toàn những người trẻ tuổi, học thức, thiếu kinh nghiệm nhưng thừa kêu ngạo, được dư luận gọi là nhóm “Thần đồng” (Whiz Kids). Với chủ trương “Tân biên cương” (New Frontier) nhóm này nghĩ rằng họ có đủ khả năng thay đổi cả thế giới.

    Khi còn là Nghị sĩ, Tổng thống Kennedy đã rất ngưỡng mộ và từng hết lòng ca tụng Tổng thống Diệm. Ngay sau khi nhậm chức, ông được đọc hai báo cáo về tình hình Việt Nam: Một là “Kế hoạch căn bản chống nổi dậy” của Ban tham mưu từ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn, nói rằng mặc dù ông Diệm đã có nhiều tiến bộ trong việc chống nổi dậy, nhưng cần phải làm thêm rất nhiều điều, để Nam Việt Nam không bị thất bại trong những tháng tới. Tài liệu liệt kê những cải tổ cần thiết về chính trị, quân sự và kinh tế, và quân đội VN cần tăng thêm ít nhất 20.000 người.

    Báo cáo thứ hai của Edward Lansdale mới chấm dứt chuyến đi Việt Nam vào đầu tháng Một. Lansdale nói Nam Việt Nam trong tình trạng nguy kịch, và cần chữa trị khẩn cấp. Theo Lansdale, ông Diệm vẫn là người không thể thay thế, và phía đối lập thiếu các ý tưởng xây dựng. Lansdale đề nghị cần thay đổi trong cách giao thiệp với Nam Việt Nam từ đương đầu thành thân hữu, dựa trên căn bản tôn trọng lẫn nhau, để Hoa Kỳ có thể lấy lại ảnh hưởng đối với ông Diệm. Trong chiều hướng này, theo Lansdale, việc cần làm ngay là rút Đại sứ Durbrow về nước. Lansdale đặt câu hỏi: “Liệu Liên Xô và Trung Cộng có làm khó Hồ Chí Minh hay chỉ viện trợ và tiếp tay ông ta?”

    Tổng thống Kennedy gặp Lansdale, tỏ ý thích báo cáo của ông ta, chấp thuận giúp Nam Việt Nam tăng thêm 20.000 quân. Ông cũng quyết định chấm dứt nhiệm vụ của Đại sứ Durbrow, và muốn thay bằng Lansdale. Nhưng Bộ Ngoại giao và Quốc phòng không đồng ý.

    Vấn đề quan trọng nhất về đối ngoại được chính quyền Eisenhower trao cho chính quyền Kennedy không phải là Việt Nam, mà là Ai Lao. Hôm 19 tháng 1-1961, trước ngày tuyên thệ nhậm chức, trong cuộc họp tại Bạch ốc, Tổng thống sắp mãn nhiệm Eisenhower nói với Tổng thống đắc cử Kennedy: Hoa Kỳ đã quyết tâm bảo vệ nền độc lập của Lào. Nếu Lào thất thủ, đó là một thảm cảnh lớn, và chẳng bao lâu sau sẽ đến lượt Nam VN, Căm Bốt, Thái Lan và Miến Điện bị sụp đổ. Đó là toàn thể kế hoạch của cộng sản tại Đông Nam Á, và cần phải chặn đứng tại Lào. Hoa Kỳ không thể để cho cộng sản tham dự bất cứ loại chính phủ liên hiệp nào ở Lào – đó sẽ là điều chí tử cho quyền lợi của Hoa Kỳ tại toàn thể Á châu nếu để điều này xẩy ra. Tổng thống Eisenhower còn nói rằng, nếu không được các nước đồng minh hợp tác để giữ Lào, thì Mỹ phải đơn phương bảo vệ Lào bằng mọi giá.

    Trong khi chưa có quyết định cụ thể nào về Việt Nam và Lào, vào đầu tháng 4-1961, Hoa Kỳ thất bại nặng nề trong vụ yểm trợ nghĩa quân Cuba lưu vong đổ bộ tại Vinh Con Heo. Vụ này do CIA thảo kế hoạch từ thời chính quyền cũ, nhưng Tổng thống Kennedy phải nhận hoàn toàn trách nhiệm. Mời cựu Tổng thống Eisenhower tới gặp tại trại David vào trưa ngày 22 tháng 4-61 để chia sẻ tin tức về vụ này, ông Kennedy cũng nói với vị tiền nhiệm của mình là Anh và Pháp không thuận góp sức bảo vệ Lào.

    Vừa thất bại ở Cuba, chỉ cách Florida 100 dặm, Kennedy không dám quyết định đơn phương bảo vệ Lào; một nơi hẻo lánh, cách xa biển, và cách Mỹ nửa vòng địa cầu. Sau này, Kennedy đã tâm sự với phụ tá thân cận Sorensen: “Cám ơn Chúa đã để cho vụ Vịnh Con heo xẩy ra như nó đã xẩy ra. Nếu không, bây giờ chắc chúng ta đang ở Lào – và nó còn tệ hơn cả trăm lần”.

    Kennedy đành theo đề nghị của Averell Harriman, chọn giải pháp trung lập cho Lào. Là Đại sứ Mỹ tại Mạc Tư Khoa thời Đệ nhị Thế chiến, khi Liên Xô là đồng minh của Hoa Kỳ, có lẽ Harriman nghĩ là có thể tin vào sự hợp tác của Liên Xô để bảo đảm nền trung lập của Lào. Harriman tới Sài Gòn thuyết phục anh em ông Diệm chấp nhận thỏa hiệp ở Lào, đã bị ông Nhu phản đối kịch liệt. Là người từng cộng tác với các Tổng thống Roosevelt và Truman, và từng là Thống đốc New York, trong đảng Dân Chủ, Harriman là bậc trưởng thượng, vào hàng cha chú của Kennedy, thế mà bị ông Nhu chống đối và coi thường, ông ta có ác cảm với anh em ông Diệm là điều dễ hiểu.

    Không bao lâu sau, thực tế chứng minh giải pháp trung lập ở Lào đã thất bại. Cộng sản Bắc Việt chẳng những không rút quân khỏi Lào, còn sử dụng lãnh thổ Lào để chuyển quân và võ khí vào Nam VN. Chỉ trong mấy tháng, Mỹ đã thất bại ở Cuba và Lào, nếu để Việt Nam là thất bại thứ ba trong năm, cử tri sẽ không thể tha thứ. Vậy, chỉ còn lại Nam Việt Nam để chính quyền Kennedy chứng tỏ sức mạnh và quyết tâm của mình, cả với bạn lẫn thù. Nhưng chứng tỏ bằng cách nào?

    Sau khi cử Phó Tổng thống Johnson thăm Nam VN và mấy nước Đông nam Á để tác động tinh thần, Tổng thống Kennedy cử một phái đoàn hùng hậu, gồm đại diện nhiều thành phần, từ Bạch ốc, Ngoại giao, Quốc phòng, CIA và một số cơ quan khác, do Tướng Maxwell Taylor hướng dẫn, tới VN tìm hiểu tại chỗ để đề nghị biện pháp hành động, với chỉ thị rõ ràng: Không phải tìm cách để thoái lui, mà tìm cách để thay đổi từ tình trạng thua thiệt tới chỗ bắt đầu đi tới thắng lợi.

    Từ năm 1961, tình hình VN cũng không còn ổn định như khoảng 1957-1959 nữa. Sau thời gian “ngủ dài hạn”, các cán bộ cộng sản nằm vùng đã hoạt động trở lại để sống còn. Hà Nội cũng đã ra quyết nghị thôn tính miền Nam bằng võ lực, và cũng đã khai sinh tổ chức chính trị bình phong MTGPMN. Phía đảng phái quốc gia đối lập đã có “Lá thư Caravelle”, và cuộc đảo chánh bất thành ngày 11-11-1960.

    Những người hiểu rõ tình hình biết rằng: Lá thư đòi thực thi tự do dân chủ của nhóm nhân sĩ họp nhau tại khách sạn Caravelle, cũng như cuộc đảo chánh không thành công ngày 11-11-60, là việc làm của những người quốc gia chống cộng. Còn các cán bộ khủng bố ở nông thôn, MTGPMN, và Cộng sản Hà Nội chỉ là một. Nhưng dưới con mắt các viên chức quyết định chính sách của Hoa Kỳ dưới quyền Tổng thống Kennedy, từ kháng thư, đảo chánh tới khủng bố, và sự ra đời của MTGP, đều là những hình thức khác nhau của một tình trạng chung là “nhân dân nổi dậy vì bị đàn áp và thiếu tự do…”

    Dưới con mắt các nhà cầm quyền Hoa Kỳ thuộc đảng Cộng Hòa từ năm 1960 về trước, chế độ Ngô Đình Diệm tương đối tốt đẹp, “không có vấn đề”. Nhưng dưới con mắt các nhà cầm quyền mới thuộc đảng Dân Chủ từ năm 1961, chế độ Ngô Đình Diệm rõ ràng là “có vấn đề”. Dùng tiền của dân Mỹ đóng thuế để ủng hộ một chế độ “có vấn đề”, thì phải tìm hiểu vấn đề đó là gì, để kịp thời sửa chữa. Nếu không, là phí phạm tiền của dân, không thể tha thứ.

    Chính quyền Kennedy đã gửi nhiều người tới VN để tìm hiểu vấn đề. Kết quả, Tổng thống Kennedy đã được nghe nhiều báo cáo khác hẳn nhau, khiến ông hoang mang. Cuối cùng, chính quyền Hoa Kỳ cũng có một số đề nghị, như ông Diệm phải mở rộng thêm tự do dân chủ, cải tổ hành chánh cho guồng máy cai trị hữu hiệu hơn…Để thực hiện điều này, ngoài cố vấn quân sự, nên tăng thêm cố vấn Mỹ về kinh tế và hành chánh tới tận cấp quận.

    Những sai lầm chí mạng

    Thời “Thiên Lôi Joe” đại diện Tổng thống Eisenhower tại Sàigòn, dù đang buổi đầu khó khăn, ông Diệm đã nhất định không chịu khuất phục Thiên Lôi, cuối cùng, ông thắng cả Thiên Lôi, trở thành Kỳ Nhân. Bây giờ, sau chín năm cầm quyền, ông đang ở đỉnh cao chói lọi: sau khi nghe ông “ban huấn từ” trước một tập thể giáo chức, Chủ Tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ thốt lên “Chúa ngồi bên Tổng Thống!” và mới hôm Tết Quý Mão, sau lễ chúc tuổi thường lệ dành cho các viên chức cao cấp quân cán chính và ngoại giao đoàn, một số tướng tá thân cận đã vào tận phòng riêng, trong quân phục chỉnh thề và huy chương rực rỡ, quỳ lậy trước bàn giấy ông để tỏ dạ trung thành. Sau vụ chết người ở đài phát thanh Huế, ông hứa chính phủ sẽ giải quyết ổn thỏa, và như để an lòng những ai còn nghi ngờ về hiệu năng của chính phủ, ông nêu thêm bảo đảm, “sau chính phủ còn có hiến pháp”, và bảo đảm tối hậu: “sau hiến pháp còn có tôi”. Ngoài hàng ngũ quân cán chính đáng tự hào, ông còn cả một tập thể đông đảo Thanh niên Cộng Hòa được lãnh đạo bởi Ông Cố Vấn, và nhất là nhũng đoàn Thanh nữ Cộng Hòa biết bắn súng, dưới sự lãnh đạo của Bà Cố Vấn, sẵn sàng xả thân để bảo vệ chế độ – “thằng nhà báo” Francois Sully nham nhở nói đám nữ binh của Bà Cố là sự khuyến khích cho địch quân, đã bị trục xuất. Ba chục năm trước (1933), chỉ mới là một Thượng Thư ngoài ba chục tuổi, ông đã không chịu cúi đầu trước chính quyền bảo hộ Pháp, và Vua Bảo Đại. Bây giờ, ông đã ở tuổi già gấp đôi, được gọi là “Cụ”, đường đường là nguyên thủ Quốc gia, là “Tổng Thống Anh Minh.” Trong tình trạng tốt đẹp như thế, chẳng lẽ ông chịu khuất phục trước đòi hỏi của mấy “thằng” Mỹ? Ông có đường lối riêng của mình. Theo ông, muốn có thêm tự do dân chủ, cũng phải từ từ, vì dân chưa quen với dân chủ kiểu Tây phương. Mỹ phải trải qua gần hai trăm năm mới được như ngày nay, ông mới cai trị có chín năm. Về cố vấn Mỹ, ông muốn giảm đi hơn là tăng thêm, vì sự hiện diện đông đảo của Mỹ sẽ làm cho Nam VN mất chính nghĩa, là cái cớ cho Bắc Việt tuyên truyền và tấn công.

    Mối liên hệ cùng cách hành động của Mỹ và ông Diệm năm 1963 khá giống như đã diễn ra đầu năm 1955. Hồi đó, Hoa Kỳ đã theo chủ trương của Tướng Collins, là thay ông Diệm, dù ông không thuận, “chương trình vẫn cứ tiến hành”. Năm 1963, tình hình VN nghiêm trọng hơn nhiều so với khi ông Kennedy lên cầm quyền vào năm 1961: Có thêm vụ ném bom dinh Độc Lập ngày 27-2-1962, trận Ấp Bắc đầu năm 1963, và đặc biệt là vụ Phật Giáo từ tháng 5, 1963.

    Ông tổng thống Công Giáo đầu tiên trong lịch sử Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ vô điều kiện ông tổng thống Công Giáo đầu tiên của Việt Nam, nhất là từ sau khi Phật Giáo xuống đường tự thiêu để phản đối vào tháng Sáu. Lửa tự thiêu bùng lên ở đường phố Saigòn, nhưng rát mặt Washington. Càng rát mặt hơn khi chế độ của ông tổng thống Công Giáo ở Sàigòn chữa lửa tự thiêu bằng cách xịt thêm dầu vào lửa, đó là những lời tuyên bố của bà Nhu, và lệnh tấn công chùa của ông Nhu vào tháng Tám.

    Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11 tháng 6 năm 1963 để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm (Ảnh: Malcolm Browne)

    Bà Nhu nghĩ rằng gọi tự thiêu bằng động từ “nướng thịt” là một cách chữa lửa, khiến cho hào quang của sự hy sinh cao cả biến đi, không còn hấp lực gây xúc động trong lòng dân chúng, như một đám cháy bị áp đảo bằng chất kỵ hỏa. Tiếc thay, đó là suy nghĩ riêng của bà, không phải của người dân thường. Ngày nay, đã có nhiều người mổ xẻ, bàn cãi, kể cả xỉ vả lẫn nhau, khi phân tích về vụ tự thiêu, hay “bị thiêu” nửa thế kỷ trước. Nhưng muốn hiểu rõ, cần đặt sự việc vào thời điểm khi nó xẩy ra. Người dân thường, nhất là những người mộ đạo, họ nhậy cảm như thi sĩ. Dưới mắt một thi sĩ lớn như Vũ Hoàng Chương, một người không có liên hệ chính trị với bất cứ phe phái nào, điều bà Nhu gọi là “nướng thịt” chính là “Lửa Từ Bi”:

    Lửa, lửa cháy ngất tòa sen,
    Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành thơ, quỳ cả xuống
    Hai vầng sáng rưng rưng
    Đông Tây nhòa lệ ngọc

    Hình ảnh tự thiêu đã được đăng trên báo chí khắp thế giới, trừ Nam VN. Người dân không có cơ hội, và cũng chẳng cần biết ai tưới xăng, ai châm lửa, chỉ biết là “lửa cháy ngất tòa sen”.

    Từ Washington, ông Kennedy không thể ngồi yên, tình thế buộc ông phải có hành động.

    Như một trách nhiệm quá nặng để gánh vác một mình, ông đã phải chia sẻ với một đối thủ chính trị từ nhiều đời thuộc đảng Cộng Hòa đối lập, gửi đi Sài gòn đóng vai Thiên Lôi. Giống “Thiên Lôi Joe” tám năm trước, Đại sứ Cabot Lodge cũng chủ trương thay ông Diệm, sau khi ông không chịu thay đổi.

    Nhưng thay ông không dễ. Tám năm trước, ông đã thắng cả Bảo Đại lẫn Tướng Collins, là những người muốn loại bỏ ông.

    Năm 1955, một mình tứ bề thọ địch, ông Diệm nhờ cây nỏ quý có cái lẫy là móng chân của thần dư luận, đã bất ngờ tấn công địch quân là một đảng cướp và đồng bọn, khi Thiên Lôi Joe Collins đang từ Washington trở lại Sàigòn. Ông đã cả thắng, lên ngôi Kỳ Nhân. Tháng Tám năm 1963, vẫn theo thế trận cũ, ông tấn công chùa chiền trong lúc Thiên Lôi Cabot Lodge từ Washington chưa kịp tới Sàigòn. Lần này, vì ông có hiềm khích với nhà báo quốc tế, nỏ thần dư luận chẳng những hết hiệu nghiệm, mũi tên độc còn dội ngược, khiến ông thân bại danh liệt. Cùng một thế trận, khi tấn công vào sào huyệt một đảng cướp, ông được lòng dân; khi tấn công vào một tôn giáo lớn, ông mất lòng dân. Dù cai trị theo chế độ nào, khi đã mất lòng dân là mất tất cả, là hết thuốc chữa. Nếu cho rằng Điện văn 243 là bản án tử hình dành cho chế độ Ngô Đình Diệm, thì nó đã được gửi từ Washington tới Saigòn vào ngày 24 tháng 8, 1963, ba ngày sau vụ tấn công chùa. Theo những tài liệu đã được giải mật cho tới nay, vụ tấn công chùa là yếu tố quan trọng nhất khiến Washington dứt khoát với ông Diệm.

    Sau nửa thế kỷ, ngày càng có thêm nhiều người ca tụng lòng yêu nước và công đức của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mặc dầu là những lời ca tụng có cơ sở, nhưng không đủ để bảo đảm cho sự vững chắc của một chế độ. Ông Diệm không theo chủ trương kỳ thị Phật giáo. Đúng! Ông Diệm đã giúp xây hay trùng tu hàng ngàn ngôi chùa. Đúng! Ông Diệm đã cho nhiều tu sĩ Phật giáo xuất ngoại du học. Đúng! Nhưng là một tổng thống đầu tiên trong lịch sử sùng đạo Công Giáo, có ông anh Tổng Giám Mục là lãnh đạo hàng đầu của hàng giáo phẩm, ông Diệm (hay ông Nhu thì cũng thế) đã ra lệnh tấn công hàng loạt chùa chiền, bắt sư sãi, trong khi cô em dâu đóng vai Đệ Nhất Phu Nhân chũm môi tuyên bố nhà sư tự thiêu chỉ là một vụ nướng thịt, và sẽ vỗ tay hoan hô nếu có thêm nhiều vụ tương tự. Dưới con mắt của người dân, như thế là kỳ thị, là không thể chấp nhận được. Người ta không cần biết có bao nhiêu bộ trưởng, bao nhiêu tướng tá, bao nhiêu tỉnh trưởng theo đạo Phậ̣t, không cần biết ông Diệm đã dùng số tiền riêng của mình trên chục ngàn đô la tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đó là những điều người ta không thấy trước mắt. Người ta chỉ thấy trước mắt nhiều chùa bị tấn công, bị cô lập. Đó là bằng chứng cụ thể ông và gia đình ông coi Phật Giáo như kẻ thù. Công an có thể nói trong chùa có võ khí, có tay sai cộng sản, có sư trốn quân dịch, nhưng đó là những điều người dân không thấy rõ như thấy chùa bị tấn công. Hơn nữa, tín đồ sùng đạo tin các nhà sư, hay tin công an? Khi người dân tin các nhà sư, nhà cầm quyền còn bị thêm tội là vu oan giá họa. Có lẽ, nhờ học được kinh nghiệm đắt giá này, nhà cầm quyền Hà Nội ngày nay chưa tấn công Dòng Chúa Cứu Thế.

    Muốn hiểu được sự liên hệ giữa thành tích và sự mong manh của một chế độ, có thế nhìn ngay vào thí dụ là chiếc computer. Đó là một sản phẩm tuyệt vời, cung cấp cho người sử dụng rất nhiều thứ. Nhưng thành tích này không đủ để bảo đảm chính đời sống của nó. Chỉ cần một virus từ ngoài lẻn vào, hay người sử dụng sơ ý bấm nhầm nút, cả hệ thống sẽ bị sụp (crash). Muốn phục hồi, cần phải bắt đầu lại, “restart” – đảo chánh hay cải tổ toàn diện, xóa đi làm lại từ đầu. Là người sử dụng chiếc “computer Việt Nam” – nói như vậy cho dễ hiểu vì thời đó computer chưa ra đời – gia đình ông Diệm đã không ngăn được virus xâm nhập từ bên ngoài, và trong tình thế bối rối, đã bấm những nút không thích hợp, khiến nó sụp. Chuyên viên Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã giúp restart, nhưng thiếu kinh nghiệm, không phục hồi được. Đến thời chuyên viên Nixon thì đành bó tay, lo về sửa ống nước đang rò rỉ ở nhà mình, hơn là sửa computer 4-0-VN.

    *

    Ngày xưa, Thục An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu trong bước đường cùng tẩu thoát trên lưng ngựa, đã than thở, không hiểu sao nỏ thần mất hiệu lực dẹp loạn. Thần Kim Quy đã hiện ra cho nhà vua biết: Kẻ thù chính là người ngồi sau lưng nhà vua. Nếu Kỳ Nhân Ngô Đình Diệm, thay vì chạy vào nhà Mã Tuyên, đã dùng một chiếc xe bọc thép, chở cả gia đình gồm Đức Cha, ông bà Cố Vấn, và Cậu Cẩn cùng chạy trốn. Trên đường bôn tẩu cũng than với Chúa, không hiểu sao một Kỳ Nhân như ông mà ra nông nỗi này. Có lẽ, Chúa cũng hiện ra và nói cho ông biết: “Kẻ hại con chính là những người ngồi cùng xe!”

    *

    Người viết xin chấm dứt bài này bằng một chi tiết có liên hệ tới ai ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Theo một bài báo trên tờ New York Times ngày 25 tháng 9, 1973, E. Howard Hunt, một nhân viên CIA, cũng là một nhà văn, là nhân viên Đơn vị Điều tra Đặc biệt (President’s Special Investigations Unit), thường được gọi là “White House Plumbers” dưới thời Tổng Thống Nixon khi xẩy ra vụ Watergate, đã khai trước một cuộc điều trần tại Quốc Hội là vào năm 1971, ông ta đã làm giả một điện văn của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, rồi tiết lộ cho tạp chí Life. Điện văn có nội dung ra lệnh giết anh em ông Diệm vào năm 1963, với mục đích làm cho cử tri Công Giáo oán giận Kennedy, sẽ không bỏ phiếu cho đảng Dân Chủ. Hunt bị ba năm tù vì vụ Watergate, qua đời năm 2007. Trong cuốn hồi ký Blind Ambition của John Dean, cố vấn pháp luật của Tổng Thống Nixon, xuất bản năm 1976, cũng xác nhận chuyện này. Theo Dean, khi vụ Watergate vỡ lở, lúc mở chiếc két sắt trong văn phòng Hunt ở Bạch Ốc, trước sự chứng kiến của một nhóm người, thấy điện văn giả mạo này vẫn còn đấy. Sự việc này cho thấy, nếu quả thật chính quyền Kennedy đã ra lệnh giết anh em ông Diệm, thì chính quyền Nixon chỉ cần tiết lộ tài liệu thật, không cần hại nhau bằng tài liệu giả.

    ————-

    Chú thích:

    Người viết căn cứ vào hai cuốn sách để viết bài này. Đó là những cuốn sách không do những người trong cuộc, hay những người đã trưởng thành vào thập niên 60 viết, để thanh minh hay buộc tội, mà tác giả là các nhà sử học lớn lên sau khi ông Diệm không còn nữa.

    Ngoài phần theo lời kể trong một bài báo của Linh Mục Trần Văn Kiệm, và ngoại trừ phần kết luận, tất cả các dữ kiện trong bài này đều thuật lại, hay dịch lại từ hai cuốn:

    Một là “America’s Miracle Man in Vietnam” (Kỳ nhân của Mỹ tại Việt Nam), của Tiến sĩ Seth Jacobs, Phụ tá Giáo sư Sử học tại Boston College, do Duke University Press xuất bản năm 2004. Người viết xử dụng bản bìa giấy, tái bản năm 2006, nhiều nhất là những dữ kiện trong các Chương I, V, và VI, chỉ ghi lại các dữ kiện, mà không theo lập luận của tác giả.

    Cuốn thứ hai là “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965” (Toàn thắng bỏ lỡ: Cuộc chiến Việt Nam 1954-1965), của Tiến sĩ Mark Moyar, từng dậy sử tại nhiều trường đại học, là Phó Giáo sư (Associate Professor) và Giám đốc Khóa trình (Course Director) tại Đại học Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (U.S. Marine Corps University) ở Virginia, do Cambridge University Press xuất bản năm 2006.

    Bài này được viết từ tháng 11, 2007, và được sửa lại vào tháng 11, 2013.

    https://nghiencuulichsu.com/2015/12/15/ky-nhan-gap-sat-nhan/


    Không có nhận xét nào