Hàng nghìn người biểu tình chống chính phủ tràn vào văn phòng của thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe ở Colombo, hôm 13/7/2022. (Ảnh: AFP/Getty Images)
Sri Lanka – quốc gia Nam Á từng được ca ngợi là một ‘viên ngọc quý’ đã bị hút vào một hố đen tài chính trong năm nay và bị đè bẹp bởi một đống nợ không bền vững trong nhiều lĩnh vực. Cuộc khủng hoảng nợ đã gây ra tình trạng bất ổn và biến động chính trị trên diện rộng ở nước này. Vẫn còn hơn 40 quốc gia nằm trong danh sách có nguy cơ vỡ nợ, rất có thể sẽ nối gót Sri Lanka, theo IMF.
Tuy nhiên, quốc đảo nhỏ bé này không đơn độc khi một loạt quốc gia trên toàn thế giới như Tunisia, Ai Cập, Kenya, Argentina…, cũng đang ôm khoản nợ khổng lồ.
Nếu bỏ thuật ngữ kinh tế sang một bên thì đây là một câu chuyện rất đơn giản. Khi giá cả và lãi suất toàn cầu tăng lên, gây áp lực lên tài chính của các quốc gia này, họ phải vật lộn để trả lãi cho tất cả các khoản vay mà họ từng vay trong những năm gần đây. Điều đó lại ảnh hưởng đến khả năng duy trì nền kinh tế của quốc gia – vốn để nuôi sống người dân, cung cấp nhiên liệu – ngay cả khi họ cố gắng đưa mọi thứ trở lại bình thường sau những đợt đại dịch COVID-19.
Khi các cuộc khủng hoảng nợ đang tăng tốc, một nền kinh tế toàn cầu vốn đã mỏng manh, nay lại tiếp tục vật lộn với hậu quả từ cuộc chiến ở Ukraine, có thể sẽ vượt xa biên giới của các quốc gia này. Thế giới đang đối mặt với nguy cơ xảy ra hàng loạt vụ sụp đổ có thể gây bất ổn cho cuộc sống của hàng triệu người.
Bà Jayati Ghosh, giáo sư kinh tế tại Đại học Massachusetts Amherst, nói với tờ Grid rằng, trong trường hợp xấu nhất, chúng ta có thể đối mặt với “ngày tận thế”.
Bà Ghosh lo sợ một làn sóng “tàn phá kinh tế khủng khiếp ở nhiều quốc gia… một kiểu suy thoái là sự kết hợp của chủ nghĩa lãnh chúa, bất bình đẳng cùng cực, thiếu thốn vật chất cùng cực. Tất cả đều là những thứ tồi tệ cùng rất nhiều bất ổn”.
Quả bom nợ chỉ chực chờ phát nổ
Một phân tích gần đây của tờ Bloomberg Economics đã xác định 19 quốc gia đang ở giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng này. Các nhà giao dịch trên thị trường tài chính nhận thấy rằng các quốc gia này không có khả năng trả lãi cho các khoản nợ của họ. Điều đó có thể buộc họ phải tìm đến các tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để được cứu trợ.
Tùy thuộc vào quốc gia, các khoản nợ dao động (tính bằng dollar Mỹ) từ hàng chục triệu đến hàng tỷ USD. Một số quốc gia có thể nhận được gói cứu trợ, song cũng có quốc gia thì không. Ví dụ, “phao cứu sinh” tài chính của IMF đi kèm với các điều kiện nghiêm ngặt, và thường rất đau đớn, đòi hỏi những lựa chọn thường không được ưa chuộng về mặt chính trị để cắt giảm chi tiêu công. Nếu không có gói cứu trợ nào thì nền kinh tế của một quốc gia có thể sụp đổ. Trong khi đó, việc nhận được một gói cứu trợ sẽ đồng nghĩa với nỗi đau kinh tế lan rộng đối với hơn 900 triệu người sống ở các quốc gia này, khi các chính phủ buộc phải cắt giảm chi tiêu công để kiểm soát tài chính của họ.
Đối với các nhà kinh tế, điều này có nghĩa là những cảnh tượng mà chúng ta thấy gần đây ở Sri Lanka có thể chứng minh về một cơn ác mộng toàn cầu hậu đại dịch. Ở đó, những người dân Sri Lanka tức giận và xông vào dinh tổng thống vì bị cướp đi sinh kế và thậm chí không có khả năng tiếp cận những nhu cầu cơ bản như nhiên liệu và thực phẩm.
Hiện tại, áp lực nợ nần đã thúc đẩy Pakistan phải đảm bảo một khoản vay của IMF. Tình hình tài chính căng thẳng kéo theo tình trạng bất ổn trên diện rộng, đe dọa sự ổn định của Sri Lanka – một quốc gia được trang bị vũ khí hạt nhân nằm ở một trong những vị trí quan trọng nhất về mặt chiến lược trên hành tinh. IMF đã đồng ý giúp đỡ về mặt nguyên tắc – nhưng tiền vẫn chưa đến tay Sri Lanka do IMF lo lắng về việc một cảnh tượng mà Pakistan từng nhận gói cứu trợ trước đó dưới thời cựu thủ tướng Imran Khan. Một manh mối về mức độ quan trọng của thỏa thuận đối với sự ổn định của Pakistan đã xuất hiện vào tháng trước, khi chỉ huy quân đội của nước này được cho là đang tìm kiếm sự giúp đỡ của Mỹ trong việc cố gắng giải ngân các khoản tiền.
Ở châu Phi, nền kinh tế Kenya đã phát triển trở thành nền kinh tế lớn thứ sáu của châu lục – nhưng đồng thời, quốc gia này cũng đang gánh những khoản nợ khổng lồ. Tiền trả lãi cho các khoản nợ đã tăng lên khoảng 30% GDP của chính phủ. Tất cả những yếu tố này khiến đất nước phải đối mặt với giá thực phẩm và nhiên liệu cao hơn do hậu quả của cuộc chiến ở Ukraine. Các nhà phân tích cảnh báo rằng, nợ nần đã đẩy Kenya đến bên bờ vực thẳm.
Câu chuyện đang được lặp lại trên phạm vi toàn cầu. Trong nhiều trường hợp, áp lực còn trở nên tồi tệ hơn do kết quả ra quyết định tồi tệ ở cấp cao nhất. Tại Sri Lanka, quyết định cấm nhập khẩu phân bón hóa học vào năm ngoái đã làm suy yếu ngành nông nghiệp quan trọng của nước này. Trong cùng năm đó ở phía bên kia thế giới, El Salvador đã chấp nhận Bitcoin và coi nó như một cuộc đấu thầu hợp pháp, như một hàng rào chống lạm phát tràn lan. Nhưng như tờ Grid đã báo cáo, động thái này đã phản tác dụng khi tiền điện tử giảm giá trị. Điều đó đã làm tăng thêm áp lực lên nền kinh tế vốn đã nợ nần chồng chất – và một quốc gia khác có thể sẽ không trả được nợ.
Nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới Carmen Reinhart đã đưa ra cảnh báo gần đây trong một cuộc phỏng vấn với tờ Reuters: “Có rất nhiều quốc gia đang trong tình trạng bấp bênh”.
Đó là nỗi lo đối với các hành lang tài chính toàn cầu. Hồi tháng 4, không lâu trước khi Sri Lanka bị nuốt chửng bởi vùng đất ngập tràn nợ nần, những người đứng đầu Ngân hàng Thế giới và IMF đã cùng nhau đưa ra một cảnh báo chung về những gì họ gọi là “sự tích tụ lớn của nợ, đặc biệt là ở các nước “nghèo nhất” trên thế giới.
Sự hình thành của một cuộc khủng hoảng
Để hiểu thời điểm có khả năng xảy ra thảm họa này, các chuyên gia cho rằng cần nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007-2008, dẫn đến việc cắt giảm lãi suất ở các nền kinh tế lớn như Mỹ cùng nhiều chính phủ trên thế giới.
Bà Ghosh nói với tờ Grid rằng có rất nhiều tiền dễ dàng “kiếm được tiền”. Đối với các nhà đầu tư thương mại, lãi suất thấp ở Mỹ và châu Âu không có ý nghĩa nhiều khi đổ vốn của họ ở phương Tây. Thay vào đó, họ tìm kiếm các khoản đầu tư vào các nước có thu nhập thấp và trung bình.
“Vì vậy, rất nhiều quốc gia đã vay tiền”, bà Ghosh giải thích. “Và điều khác biệt so với trước đây là họ nhận các khoản vay này không phải từ các chủ nợ song phương hoặc đa phương [các nước giàu hơn hoặc các tổ chức quốc tế lớn], mà là từ các chủ nợ tư nhân”. Bà nói, những chủ nợ này đã vay từ các ngân hàng và phát hành trái phiếu lãi suất cao, sau đó bị các công ty tài chính thâu tóm.
Giờ đây, khi thế giới chứng kiến mức lạm phát kỷ lục và các ngân hàng trung ương tăng lãi suất, các quốc gia nghèo hơn đang phải đối mặt với việc thanh toán mức nợ cao hơn mà họ đã tích lũy. Đây là thời điểm mà họ cũng đang phải đối mặt với giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang. Và như bà Ghosh nhận định, “nền kinh tế của họ cũng chưa hồi phục sau đại dịch”.
IMF đã theo dõi khoảng 73 quốc gia đang mắc nợ nhiều và ước tính rằng khoảng 40 quốc gia trong số này có nguy cơ cao mắc phải cái mà tổ chức này gọi là “kiệt quệ nợ”. Nói cách khác, các quốc gia này hoặc là đang tích cực cố gắng tái cơ cấu các khoản nợ của mình, hoặc là đã tụt hậu về các khoản thanh toán lãi suất của họ.
Vai trò của Trung Quốc
Nợ chồng chất trên bảng cân đối kế toán của các quốc gia nghèo được vay từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cho vay bao gồm các ngân hàng tư nhân và quỹ đầu cơ đầu tư vào trái phiếu chính phủ, cũng như các tổ chức đa phương như Ngân hàng Thế giới. Khi nói đến các quốc gia cho vay, Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng.
Trung Quốc đã cho các quốc gia nghèo vay trong nhiều thập kỷ – với khoảng 843 tỷ USD tài chính phát triển quốc tế từ năm 2000 đến năm 2017. Đó là một lý do tại sao các quan chức phương Tây bao gồm Thủ tướng Đức Olaf Scholz, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen và người đứng đầu USAID Samantha Power gần đây đã “chỉ tay” vào Bắc Kinh trong việc thúc đẩy cuộc khủng hoảng nợ.
Trong một bài phát biểu ở New Delhi vào tháng trước, bà Power đã trích dẫn sự can dự của Trung Quốc vào Sri Lanka như tờ Grid đưa tin, các khoản vay của Trung Quốc đã góp phần thúc đẩy sự bùng nổ của đất nước này trong hai thập kỷ qua.
Bà Power cho biết, Trung Quốc từng là “chủ nợ tích cực của chính phủ Sri Lanka kể từ giữa những năm 2000”. Bà nói thêm: “Bây giờ điều kiện kinh tế đã trở nên tồi tệ, Bắc Kinh đã hứa hạn mức tín dụng và các khoản cho vay khẩn cấp… nhưng những lời kêu gọi cung cấp các khoản cứu trợ đáng kể hơn vẫn chưa được trả lời, và câu hỏi lớn nhất là liệu Bắc Kinh có tái cơ cấu nợ ở mức độ như các chủ nợ song phương khác hay không”.
Và không chỉ Sri Lanka. Theo một báo cáo năm 2021 từ Đại học William và Mary, 44 quốc gia nợ Trung Quốc tương đương 10% GDP trở lên, có một số nước nợ hơn 1/4 GDP. Trung Quốc là nước cho vay lớn nhất đối với Zambia, quốc gia này đã vỡ nợ chính phủ vào năm 2020 và hiện đang tiến hành các cuộc đàm phán xóa nợ.
Một số người đã đặt câu hỏi về động cơ của Trung Quốc, cho rằng hoạt động cho vay của nước này là “ngoại giao bẫy nợ”. Nghĩa là là Trung Quốc đã mở rộng các khoản vay cho các quốc gia khi biết rõ rằng họ không có khả năng trả hết nợ. Như vậy, tại thời điểm đó, Trung Quốc có thể rút ra các nhượng bộ chiến lược để trao đổi. Trường hợp điển hình nhất là dự án Cảng Hambantota ở Sri Lanka, nơi một công ty nhà nước Trung Quốc bảo đảm hợp đồng thuê cảng 99 năm sau khi Sri Lanka bắt đầu gặp khó khăn về tài chính. Thông qua các khoản cho vay lớn, nhiều nước đã trở thành con nợ của Trung Quốc, thậm chí “mất đứt” một phần chủ quyền quốc gia.
Ảnh: Sri Lanka nhượng 99 năm cảng Hambantota cho Trung Quốc. (Ảnh: Getty Images)
Nhiều học giả Trung Quốc đã chống lại cáo buộc “bẫy nợ” ở Sri Lanka và các nơi khác. Bà Deborah Bräutigam, một nhà kinh tế chính trị tại Đại học Johns Hopkins, cho biết các lập luận này phần lớn là do thành kiến tiêu cực đối với Trung Quốc và vai trò của nước này đối với sự phát triển toàn cầu. “Cho đến nay, ở châu Phi, chúng tôi chưa thấy bất kỳ ví dụ nào nói rằng Trung Quốc cố tình lôi kéo một quốc gia khác mắc nợ, và sau đó sử dụng khoản nợ đó để lấy đi những lợi thế bất công hoặc chiến lược, bao gồm cả ‘tịch thu tài sản’”, bà viết trong một nghiên cứu năm 2019.
Ông Matthew Mingey, một nhà phân tích cấp cao về tài chính ở nước ngoài về Trung Quốc tại Rhodium Group, nói rằng trách nhiệm đối với các vấn đề nợ trong những trường hợp này thuộc về cả hai bên. Một số quốc gia thiếu năng lực cần thiết để giám sát khoản nợ của họ. Đồng thời, Trung Quốc ít có kinh nghiệm ở các thị trường mới nổi khi các ngân hàng của họ bắt đầu cho vay những khoản vay lớn này. “Chắc chắn, các ngân hàng của Trung Quốc có thể lạc quan”, ông nói, “đặc biệt là trong thời gian đầu và thực hiện các khoản cho vay mà có lẽ họ không nên thực hiện”.
Làm thế nào để thoát khỏi khủng hoảng?
Với một núi nợ đang rình rập ở nhiều quốc gia cũng như cuộc sống của hàng triệu người, câu hỏi cấp bách là: Làm gì để thoát khỏi khủng hoảng?
Có lẽ cách nhanh nhất để đảm bảo rằng thế giới không phải chứng kiến một loạt vụ sụp đổ giống như Sri Lanka là quay đầu lại với một nguồn áp lực chính đối với tất cả các nền kinh tế thu nhập thấp này: giá thực phẩm và nhiên liệu cao ngất ngưởng. Chỉ riêng tiêu dùng thực phẩm đã chiếm tới 60% mức tiêu thụ của các hộ gia đình ở các quốc gia nghèo.
Tất nhiên, không có nhà hoạch định chính sách hoặc tổ chức tài chính toàn cầu nào có thể búng tay một cái là khiến cho giá cả sụt giảm. Hy vọng hiện tại là các chuyến hàng ngũ cốc Ukraine đầu tiên trong tuần này có thể xoa dịu điều mà Liên Hợp Quốc gọi là “cơn bão hoàn hảo” do chiến tranh gây ra cho các quốc gia nghèo hơn.
Trong khi đó, các nhà kinh tế đang kêu gọi hành động toàn cầu có sự phối hợp của các quốc gia giàu nhất thế giới để giúp các quốc gia nghèo hơn quản lý hoặc tái cơ cấu gánh nặng nợ của họ. Nói một cách đơn giản: tìm cách để họ cắt giảm hóa đơn thẻ tín dụng hàng tháng.
Trong một báo cáo với tiêu đề “Thế giới chưa sẵn sàng cho cuộc khủng hoảng nợ thị trường mới nổi đang rình rập”, Hội đồng Đại Tây Dương kêu gọi các quốc gia giàu nhất thế giới ít nhất tạm ngừng thanh toán lãi suất, để “cho các quốc gia khác hít thở”. Cơ quan này cũng khuyến nghị giới thiệu “tài trợ cầu nối” – về cơ bản, là nguồn vốn tạm thời, ngắn hạn để giúp trang trải các khoản thanh toán lãi suất – hỗ trợ các quốc gia không thể đảm bảo sự giúp đỡ của IMF một cách kịp thời.
Đã từng có tiền lệ rằng, sự xuất hiện của đại dịch đã thúc đẩy sự ra đời của một sáng kiến quốc tế cho phép các bên cho vay song phương – tức là các chính phủ giàu có hơn – tạm thời ngừng các khoản thanh toán lãi suất hàng tỷ USD từ các quốc gia nghèo hơn khi họ “bận rộn” đối phó với những thách thức do COVID-19 đặt ra. Được biết đến là sáng kiến ngừng dịch vụ nợ, nó đã chứng kiến việc ngừng gần 13 tỷ USD thanh toán lãi suất từ tháng 5/2020 đến tháng 12/2021.
Hội đồng Đại Tây Dương cũng ghi nhận sự thiếu vắng ý chí, đặc biệt giữa các quốc gia của G-20: “Cộng đồng quốc tế dường như không sẵn sàng để làm gì nhiều trước nỗ lực đó”.
IMF và Câu lạc bộ Paris gồm 22 quốc gia giàu có thường dẫn đầu trong các cuộc đàm phán như vậy, nhưng vai trò cho vay ngày càng lớn của Trung Quốc đã làm phức tạp động lực đó. Mặc dù Trung Quốc đã can thiệp để giúp đỡ – bằng cách ngừng các khoản thanh toán lãi suất và tái cơ cấu các khoản vay cho một số con nợ của mình – Bắc Kinh vẫn miễn cưỡng tham gia cùng các quốc gia khác trong các nỗ lực hợp tác nhằm xóa nợ. Sự hợp tác như vậy là rất cần thiết trong các cuộc đàm phán nợ phức tạp, nơi mà sự chậm trễ của một bên là chủ nợ có thể khiến các con nợ rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Trường hợp điển hình là Zambia, quốc gia đã vỡ nợ cách đây hai năm. Trung Quốc đã đồng ý tham gia các cuộc đàm phán đa phương về cuộc khủng hoảng nợ của Zambia chỉ trong tháng trước.
Số lượng các khoản vay đã được Trung Quốc đàm phán lại hoặc đang đàm phán lại tính theo năm. (Ảnh: Rhodium Group)
Đối với các nhà phân tích và các nhà hoạch định chính sách, rõ ràng là phải làm gì đó đối với các cuộc khủng hoảng nợ của các quốc gia có thu nhập thấp. Như bà Kristalina Georgieva, người đứng đầu IMF, cảnh báo gần đây, việc “khoanh tay đứng nhìn” có thể gây ra một loạt các thảm họa quốc tế. Bà nói, các nước giàu hơn phải giúp đỡ các đối tác nghèo hơn – đặc biệt là bằng cách hỗ trợ các sáng kiến giúp tái cơ cấu các khoản nợ không bền vững trước khi gây ra các vụ vỡ nợ.
Bà Georgieva nói nếu không đi trước bằng những sáng kiến như vậy sẽ tạo ra nhiều vấn đề cho toàn thế giới. Bà nói với Reuters : “Đây là chủ đề mà chúng ta không thể tự mãn. Quý vị sẽ không biết được nó sẽ kết thúc ở đâu”.
Lam Giang
Không có nhận xét nào