Ảnh tư liệu: Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov (T) và ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh trong cuộc họp báo chung ngày 16/04/2014 tại Hà Nội, Việt Nam. AP
Kể từ khi Nga xua quân xâm lăng Ukraina ngày 24/02/2022, do đều có quan hệ tốt với Nga và với phương Tây cũng như với Ukraina, Việt Nam vẫn giữ thái độ thận trọng, không dám lên án nước Nga và chỉ kêu gọi hai bên đối thoại tìm giải pháp hòa bình.
Kêu gọi kềm chế, đối thoại
Ngày 25/02/2022, tức là một ngày sau khi Putin khởi động cuộc chiến tranh Ukraina, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng chỉ tuyên bố Việt Nam “hết sức quan ngại” trước điều mà bà gọi là “tình hình xung đột vũ trang” ở Ukraina. Phát ngôn viên này “kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực, bảo vệ người dân, tiếp tục đối thoại tìm kiếm giải pháp hoà bình”.
Báo chí chính thức của Việt Nam cho tới nay cũng không dám dùng chữ “xâm lược”, mà chủ yếu chỉ nói “xung đột”. Một số tờ báo như tờ Quân Đội Nhân Dân thậm chí vẫn gọi chiến tranh ở Ukraina là “chiến dịch quân sự đặc biệt” theo đúng ngôn từ chính thức của điện Kremlin. Tuy vậy, cũng phải nhìn nhận là đa số các báo ở Việt Nam lần này đưa tin chiến sự từ cả hai chiều, chứ không hoàn toàn đưa tin có lợi cho phía Nga.
Nghị quyết lên án Nga: Phiếu trắng của Việt Nam
Trong phiên họp đặc biệt của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về hình hình Ukraina hôm 01/03, trưởng phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, đại sứ Đặng Hoàng Giang, tuy không nêu đích danh nước Nga của Putin, đã lên án những hành động “không phù hợp với những nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc, đe dọa nghiêm trọng hòa bình quốc tế, cũng như an ninh và phát triển của các quốc gia và người dân”.
Đại sứ Việt Nam còn cho rằng “ Mọi tranh chấp quốc tế cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chươngLiên Hiệp Quốc, bao gồm các nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, độc lập chính trị và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tất cả các quốc gia lớn hay nhỏ đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản này.”
Tưởng rằng với phát biểu mạnh mẽ như vậy, Việt Nam sẽ có thái độ dứt khoát hơn tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, thế mà trong cuộc biểu quyết ngày 02/03 về nghị quyết yêu cầu Nga chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Ukraina ngay lập tức, Việt Nam (cùng với Lào) lại nằm trong số các quốc gia bỏ phiếu trắng! Trong khi đó Cam Bốt và Miến Điện lại bỏ phiếu thuận cùng với các nước ASEAN khác. Như vậy là Hà Nội vẫn tránh lên án nước Nga về cuộc xâm lược Ukraina.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 04/03/2022, nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore, nhận định về lá phiếu của Việt Nam tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc :
" Các phát biểu của người phát ngôn bộ Ngoại Giao hay trong các phát biểu của đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đều nhấn mạnh đến sự tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Chính vì vậy mà một số người đã bất ngờ khi Việt Nam bỏ phiếu trắng. Có một chút gì đó không nhất quán trong lập trường của Việt Nam ở điểm này.
Còn về các nước bỏ phiếu thuận, chúng ta thấy có một số trường hợp đáng chú ý, đặc biệt là Miến Điện. Miến Điện cũng có quan hệ khá gần gũi với Nga và trong thời gian qua, Nga cũng đã cung cấp vũ khí cho chính quyền quân sự Miến Điện. Còn Singapore là nước thể hiện rõ ràng và dứt khoát nhất đối với cuộc xâm lược này của Nga. Thái độ này xuất phát từ mối quan ngại của Singapore, một nước nhỏ chịu nhiều rũi ro về an ninh, nên luôn nhấn mạnh vai trò của luật pháp quốc tế, của Hiến chương Liên Hiệp Quốc như là một công cụ để giúp nước này đối phó với các mối đe dọa từ bên ngoài, đặc biệt là từ các nước láng giềng hùng mạnh hơn"
Quan hệ đặc biệt với Nga
Theo nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, thái độ dè dặt quá mức của Việt Nam về cuộc xâm lăng Ukraina chủ yếu là do quan hệ đặc biệt của Hà Nội với Liên Xô trước đây và Nga hiện nay:
" Thái độ thận trọng và dè dặt của Việt Nam trong vấn đề này bắt nguồn từ hai lý do chính. Thứ nhất là lý do lịch sử, trước đây Nga và Liên Xô đã hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng như trong giai đoạn 1970-1980, khi Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong quan hệ với Trung Quốc và bị bao vây cấm vận.
Thứ hai là trong quan hệ hiện tại, Nga cũng là một đối tác quan trọng của Việt Nam trên hai khía cạnh chính: thứ nhất, Nga là nguồn cung cấp vũ khí cho Việt Nam. Hiện giờ khoảng 80% vũ khí là có nguồn gốc từ Nga. Thứ hai, Nga cũng là đối tác quan trọng về hợp tác dầu khí, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông. Ngoài ra, các công ty Việt Nam cũng có nhiều dự án đầu tư tại Nga. Có lẽ chính vì vậy mà Việt Nam không muốn làm ảnh hưởng đến các quan hệ kể trên.
Tuy nhiên, theo tôi, sự thận trọng này là hơi quá một chút, tại vì Việt Nam có làm phật lòng Nga hay không thì Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn trong quan hệ với Nga trong thời gian tới, ví dụ như việc mua vũ khí của Nga trong thời gian tới có thể gặp phải những biện pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây nói chung, vì Mỹ có một đạo luật chống các đối thủ của Mỹ thông qua đe dọa trừng phạt, quy định Mỹ có thể trừng phạt các nước mua thiết bị quân sự, vũ khí của Nga. Lâu nay Mỹ đã bỏ qua việc Việt Nam mua vũ khí của Nga, nhưng trong thời gian tới Mỹ có thể chú ý nhiều hơn đến việc này.
Việc hợp tác dầu khí giữa Việt Nam với Nga trong thời gian tới cũng sẽ gặp khó khăn. Các đầu tư của Việt Nam ở Nga cũng vậy, sẽ gặp nhiều trở ngại. Lý do là ngoài áp lực quốc tế, tẩy chay Nga, ngăn các nước khác hợp tác với Nga, còn có việc nhiều ngân hàng Nga bị loại khỏi mạng lưới viễn thông tài chính liên ngân hàng Swift. Những biện pháp cấm vận này có thể cản trở hoạt động hợp tác giữa Việt Nam với Nga.
Lẽ ra Việt Nam có thể bỏ phiếu thuận cho nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, bởi vì trong bối cảnh này, tôi nghĩ là Nga cũng hoàn toàn có thể hiểu được thái độ và quyết định của Việt Nam, thậm chí không thể oán giận hay trách cứ Việt Nam, mà ngược lại còn cần đến sự hợp tác của Việt Nam, khi Nga đang rất cần các mối quan hệ, các quốc gia có thiện chí giúp Nga trong lúc nước này bị cô lập như vậy. Việc bỏ phiếu thuận sẽ giúp Việt Nam thể hiện thái độ rõ ràng, nhất quán đối với vấn đề này và cũng phù hợp với lợi ích của Việt Nam, đó là nhấn mạnh việc tôn trọng lợi ích quốc tế và chủ quyền quốc gia, giúp Việt Nam có một vị thế tốt hơn trong việc bảo vệ các lợi ích của mình trên Biển Đông trước các mối đe dọa từ Trung Quốc."
Việt Nam có nên tìm đồng minh quân sự?
Nhưng Việt Nam có thể rút ra những bài học gì từ việc Ukraina bị xâm lăng? Hà Nội có nên liên minh với một cường quốc phương Tây để có thể dựa vào khi bị tấn công như Ukraina? Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp cho rằng trước mắt, Việt Nam nên giữ chính sách “bốn không” như hiện nay:
" Có lẽ lúc này Việt Nam chưa thật sự cần một đồng minh quân sự, vì mối đe dọa là có, đặc biệt là trên Biển Đông, nhưng chưa đủ lớn để đi tìm đồng minh. Có đồng minh chỉ tốt khi đồng minh đó là một đồng minh chắc chắn, đáng tin cậy và quan hệ đồng minh đó sẽ không đặt Việt Nam vào một rủi ro chiến lược mới. Việt Nam cũng đã có những bài học của mình, đặc biệt là trong những năm 1970, khi Việt Nam liên kết với Liên Xô thì đã gặp phản ứng gây gắt của Trung Quốc, dẫn tới cuộc chiến Việt-Trung 1979.
Đấy là lý do tại sao trong mấy chục năm qua, Việt Nam vẫn duy trì chính sách "ba không", nay là "bốn không": không tham gia các liên minh quân sự với các nước khác, không cho nước ngoài đặt các căn cứ quân sự trên lãnh thổ của Việt Nam, Việt Nam không đi với nước này để chống nước khác. Chính sách vẫn tiếp tục phù hợp với lợi ích của Việt Nam và sẽ tiếp tục định hướng cho chiến lược ngoại giao của Việt Nam trong thời gian tới.
Như vậy, việc có đồng minh đối với Việt Nam lúc này chưa phải là quan trọng, cái quan trọng là phải khôn khéo trong ứng xử với các nước lớn, đặc biệt là phải kiên quyết chống lại việc vi phạm chủ quyền quốc gia và thách thức lợi ích quốc gia của Việt Nam, nhưng trong phạm vi có thể, phải giữ được sự tự chủ và sự cân bằng chiến lược trong quan hệ với các nước lớn, không khiêu khích khi các lợi ích cốt lõi của mình chưa bị xâm hại và những lằn ranh đỏ mà chúng ta đặt ra chưa bị vượt qua.
Nhìn lại trường hợp của Ukraina thì có lẽ họ đã không quan tâm đúng mức các lợi ích an ninh của Nga, một nước lớn mà họ sống ngay cạnh và đặc biệt là điều này đã được thể hiện qua việc Ukraina muốn gia nhập NATO, tạo ra một thách thức đối với an ninh của Nga và tạo cớ để Nga xâm lược. Đó là bài học rất quan trọng mà Việt Nam cần lưu ý.
Thứ hai, chính sách ngoại giao "làm bạn với các nước" có thể là hơi trung dung quá, nhưng theo tôi, trong bối cảnh hiện nay, chính sách này vẫn còn phù hợp với lợi ích của Việt Nam, bên cạnh chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa.
Trong trường hợp của Ukraina, nước này đã nhận được sự trợ giúp rất là lớn của các đối tác phương Tây và các nước khác trên thế giới về viện trợ vật chất, cũng như về ngoại giao và công luận. Ukraina sẽ không có sự trợ giúp như vậy nếu không có quan hệ với nhiều nước trên thế giới.
Theo tôi, thách thức của Việt Nam trong thời gian tới đó là phải làm sao giữ được sự tự chủ, cân bằng chiến lược, vừa làm sao chống lại được một cách hiệu quả các sức ép hay đe dọa tiềm tàng từ Trung Quốc. Có lẽ giải phải không phải là tham gia các liên minh quân sự, mà phải nâng cao nội lực của Việt Nam, đặc biệt là phải quản lý tốt các căng thẳng trong quan hệ với Trung Quốc, đồng thời phát triển quan hệ với càng nhiều quốc gia càng tốt, đặc biệt là các nước lớn, các quốc gia chủ chốt, có vai trò và ảnh hưởng quan trọng trên trường quốc tế, để giúp bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia của Việt Nam."
Áp lực của phương Tây
Tờ Asia Times ngày 01/03/2022 trích lời nhà phân tích Nguyễn Khắc Giang, Đại học Victoria, Wellington, nhận định: “ Phản ứng của Việt Nam mập mờ là vì họ muốn duy trì quan hệ tốt với Nga, nhưng chắc họ cũng hiểu rằng cuộc xâm lăng của Nga là một mối đe dọa đến nguyên tắc không can thiệp của Việt Nam, nhất là vì Hà Nội cũng cảm thấy bị Trung Quốc đe dọa”. Nhưng tờ báo này cho biết là Hà Nội đang chịu sức ép từ các nước phương Tây đòi phải có một lập trường chống Nga rõ ràng hơn. Asia Times trích dẫn tuyên bố của đại sứ Anh Quốc Gareth Ward tại Hà Nội : “ Tôi hy vọng Việt Nam có thể cùng với quốc tế lên án cuộc tấn công không hề bị khiêu khích này.”
Cũng theo Asia Times, Việt Nam đang quan ngại là, lợi dụng lúc phương Tây chú tâm đến tình hình Ukraina, Trung Quốc sẽ có thái độ lấn lướt hơn ở châu Á, đặc biệt là trong việc áp đặt chủ quyền Biển Đông. Tờ báo này còn nhận định rằng Hoa Kỳ, đối tác an ninh ngày càng quan trọng của Việt Nam, có thể sẽ nhân khủng hoảng Ukraina gây áp lực để Hà Nội bớt nhập vũ khí từ Nga chuyển sang nhập của Mỹ nhiều hơn, một khả năng mà chính phủ Việt Nam trong những năm qua có vẻ sẵn sàng chấp nhận.
Nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp thì cho rằng, do chiến tranh Ukraina, Việt Nam cũng nên xét lại quan hệ với Nga, nhất là việc mua vũ khí của Nga:
"Khủng hoảng này là dịp để Việt Nam xét lại quan hệ với Nga, làm sao có thể quản lý tốt hơn các rủi ro trong mối quan hệ này. Ví dụ như có lẻ Việt Nam phải tìm cách tăng cường việc đa dạng hóa các nguồn cung vũ khí để làm sao có thể giảm phụ thuộc vào nguồn vũ khí và thiết bị quân sự của Nga.
Thứ hai là làm sao điều chỉnh quan hệ kinh tế với Nga để vừa có thể hưởng lợi từ mối quan hệ này, vừa có thể tránh vi phạm các lệnh trừng phạt, để không bị thiệt hại lớn trong tương lai về lợi ích kinh tế cũng như về mặt ngoại giao và vị thế quốc tế.
Thứ ba, do áp lực từ Mỹ, từ phương Tây, Nga có thể xích lại gần hơn Trung Quốc, làm ảnh hưởng tới lợi ích của Việt Nam.
Không có nhận xét nào