Tác giả: Tina Hà Giang p/v Frank Snepp
01/01/2022
Hình: TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu (bìa phải) trong một cuộc họp với Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin, người thứ nhì trong hình từ phải sang, đang nhìn vào ông.
Trong các phần phỏng vấn trước, Frank Snepp nói về hành động của Tổng thống Richard Nixon và cố vấn an ninh Henry Kissinger sẵn sàng bỏ rơi VNCH.
Nhưng diễn biến tình hình ở VNCH sau Hòa đàm Paris 1973 còn có một nhân vật khác, cựu phân tích gia chiến lược của CIA ở VNCH nói.
Trả lời BBC hồi cuối tháng 10/2021 ở Nam California, ông Frank Snepp, 78 tuổi, giải thích đây là câu chuyện phức tạp và nói về vai trò của đại sứ Graham Martin.
Frank Snepp: Những người nói Hoa Kỳ bỏ rơi hay phản bội Sài Gòn nói đúng vì đó là những gì Kissinger và Nixon đã làm. Họ có được bằng chứng về điều này trong cuộc trò chuyện của Kissinger với Nixon, bằng chứng đó được lưu giữ trên các cuốn băng của Nhà Trắng.
Nhưng tình hình chiến sự VN phức tạp hơn như vậy, không đơn giản là sự bỏ rơi. Sự phức tạp đó có tên Graham Martin. Sau khi ngừng bắn, Đại sứ Graham Martin đến Sài Gòn. Người đàn ông tuyệt vời này là một “chiến binh” miền Nam Hoa Kỳ, một người hết sức lịch lãm.
Ông có giọng nói miền Nam (nước Mỹ) nhẹ nhàng, có cách nhìn người khác với ánh mắt tử tế, và thường hay cúi đầu. Martin rất cao, vì vậy khi nói chuyện ông hay nhìn xuống, khiến người đối diện có cảm giác họ đối diện một người đàn ông có quyền lực lớn, đang nhìn xuống những phận đời thấp kém hơn. Martin có cái cách thiết lập vị trí chủ đạo trong các cuộc trò chuyện, cho mọi người thấy quyền lực của mình.
Và Graham Martin cần những điều đó, cần tất cả những quyền lực ông có thể có được, vì ông đến VN sau khi quân Mỹ đã ra đi, sau khi lực lượng không quân Mỹ đã ngừng bay trên không phận VN. Martin được giao nhiệm vụ bảo vệ VNCH, ít nhất là trong suy nghĩ của riêng ông, và ông đã tận tâm làm điều đó. Vì vậy những người nói rằng Hoa Kỳ sẵn sàng bỏ rơi VN, họ đã không tính đến Martin.
Là một chiến binh của thời chiến tranh lạnh, Martin ghét chủ nghĩa cộng sản. Con trai ông, một sĩ quan chiến đấu bị giết ở Việt Nam năm 1965 và Martin không bao giờ quên điều đó, ông nhất quyết không để những kẻ giết con trai mình chiến thắng trong cuộc chiến VN, “chủ nghĩa cộng sản chết tiệt” không thể thắng. Đó là suy nghĩ của ông.
Vấn đề nằm ở chỗ Martin tin rằng viện trợ của Hoa Kỳ, trừ sức mạnh không quân, trừ pháo binh, trừ quân lính Mỹ, chỉ cần viện trợ của Hoa Kỳ thôi là đủ để giúp củng cố chính phủ VNCH, bất chấp những gì Kissinger nói là Mỹ sẽ không quan tâm đến những gì xảy ra sau đó. Martin rất quan tâm. Ông nhất định không để miền VNCH đầu hàng Cộng sản, những kẻ đã giết con trai ông.
Nhưng Martin đã mắc những sai lầm nghiêm trọng. Ông phớt lờ sự tàn phá của nạn tham nhũng; ông phớt lờ những vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo yếu kém của VNCH. Ông cho rằng chỉ riêng ý chí của mình cộng với tiền viện trợ Hoa Kỳ là có thể xoay chuyển tình thế, rằng việc miền Nam chưa sẵn sàng để chiến đấu một mình hay chưa thể tự đứng vững không thành vấn đề.
Ông nghĩ rằng ý chí kiên định sẽ tạo ra được những thành quả tốt đẹp, và ông đã đánh lạc hướng Tổng thống Thiệu. Tổng thống Thiệu không hiểu rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ đưa không quân Mỹ trở lại vì Martin nói với Thiệu, rằng, “nếu anh cần, tôi sẽ làm cho điều đó [Không quân Mỹ trở lại – BBC] xảy ra”.
BBC: Tại sao Graham Martin lại phải làm như vậy, đánh lạc hướng Tổng thống Thiệu?
Frank Snepp: Martin làm vậy vì ông tin rằng ý chí của mình sẽ khiến điều ông muốn thành hiện thực. Ông như hơi bị điên (half-insane). Tôi rất quý trọng Martin, rất thân với ông, tôi là người báo cáo tình hình quân sự chính của ông. Tôi hẹn hò với con gái ông, và thường xuyên ăn tối ở nhà ông. Tôi thân với ông đến nỗi sếp tôi, trưởng trạm CIA Tom Polgar nói, hãy theo dõi Martin, tìm hiểu xem ông định làm gì, tôi không thể đoán được ý nghĩ của ông ấy.
Tôi giống như một chuyên viên giám sát không chính thức theo dõi đại sứ và đại sứ thì lại muốn dung tôi để do thám trưởng trạm CIA. Martin không tin CIA và ông nghĩ rằng ông có tôi trong túi. Vì vậy, tôi lúc ấy như một con chuột bị hai con mèo rượt đuổi. Tôi biết Martin rất rõ, tôi biết suy nghĩ của ông. Thế mà tôi đã rất kinh ngạc như chỉ có thể kinh ngạc trước một người bị chi phối bởi sự phi lý, dù đó là một người thật lôi cuốn.
Martin không cho phép chúng tôi tường trình về tình trạng tham nhũng đang sói mòn trung tâm Sài Gòn, vì ông lo là tường trình của CIA về nạn tham nhũng ở miền Nam sẽ khiến tin tức bị rò rỉ, rồi công chúng và Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ nghĩ rằng VNCH không xứng đáng được viện trợ thêm. Vì vậy, ông cấm ngặt chúng tôi không được đụng đến vấn đề tham nhũng. Điều đó có nghĩa là, chúng tôi nhắm mắt lại và không đối diện với nhược điểm lớn của của quân đội và chính phủ VNCH, và không thể đề nghị họ cải thiện điều đó.
Ngoài việc cố gắng xin viện trợ, Martin muốn miền Nam thắng đến nỗi ông luôn trấn an ông Thiệu, và nói với Thiệu rằng nếu cần, Mỹ sẽ lại mang B-52 vào VN, dù ông thừa biết là không thể có chuyện đó. Cũng có thể Martin nghĩ Nixon khùng quá nên sẽ đưa B-52 trở lại. Có thể ông tin như vậy, tôi thì tôi không tin điều đó. Nhưng tôi nghĩ tất cả chỉ là kịch tính.
Graham Martin nghĩ rằng việc quản lý đất nước nhiều phần giống như trên một sân khấu, chỉ cần đóng đúng vai, thể hiện được quyền lực là tạo được sự khác biệt. Và ông là bậc thày về sự tự dối mình, bậc thày về ảo tưởng. Vấn đề là, ông không nhìn rõ thực tại, vì tham nhũng đã hủy hoại năng lực chiến đấu của VNCH.
BBC: Sài Gòn đã thất thủ rất chớp nhoáng, theo ông thì ngoài việc bị Hoa Kỳ bỏ rơi, và nạn tham nhũng – như ông nói, còn có những yếu tố nào khác?
Frank Snepp: Giới lãnh đạo miền Nam đã quen đánh trận theo lối của Mỹ, với rất nhiều sức mạnh oanh tạc của không quân, và với cách tấn công ở bất cứ nơi nào có mặt kẻ thù. Ông Thiệu không còn làm như vậy được. Ông không biết rằng ông không còn khả năng di chuyển, không còn sức mạnh không quân, không có năng lực vận tải hữu hiệu trước đây khi quân đội Mỹ còn ở đó.
Và vì thế ông vẫn suy nghĩ theo cách mà một người tướng Mỹ suy nghĩ, rằng ông có thể hạ gục quân địch ở bất cứ nơi đâu, khi chúng tấn công trên vùng cao nguyên, ở các tỉnh phía Bắc. Nhưng ông đã không thể. Ông không còn nguồn lực của Mỹ, không còn sức mạnh không quân của Mỹ, nhưng ông đã không sớm cắt giảm các tuyến phòng thủ của mình, không từ bỏ các vị trí khó phòng thủ, để củng cố lực lượng sớm hơn, trong năm đầu tiên của lệnh ngừng bắn.
Trách nhiệm của Tổng thống Thiệu:
Vào năm thứ hai của lệnh ngừng bắn, Martin cuối cùng đã khuyên ông Thiệu là hãy nghĩ đến việc rút khỏi một số khu vực không cần phải phòng thủ, những nơi kẻ thù không quá mạnh. Ông Thiệu nhất định không chịu làm điều đó. Và điều khủng khiếp đã xảy ra vào tháng 3 năm 1975, một tháng trước khi chiến tranh kết thúc, ông Thiệu mới rút khỏi những khu vực mà ông không thể bảo vệ.
Nhưng ông đột ngột bỏ vùng Tây Nguyên một cách chớp nhoáng mà không lên kế hoạch trước. Vì vậy, khi cuộc lui quân bắt đầu với Tướng Phú lúc đó là Tư lệnh trở thành hỗn loạn và Bắc Việt có thể đánh chặn các lực lượng đang rút lui. Trách nhiệm đó nằm trên vai ông Thiệu vì ông đã có một quyết định không tốt. Ông cũng không biết là muốn quân đội mình làm gì ở Quân khu 1 ngay bên dưới vùng phi quân sự, đã không có một kế hoạch nào mạch lạc, kết quả là, không có cuộc rút lui có trật tự nào trong Quân khu gần phía Bắc Việt Nam nhất. Các lực lượng miền Nam Việt Nam bắt chạy tán loạn và họ chạy về các vùng nơi gia đình họ đang nương náu, và đoàn quân tan rã.
Ông Thiệu phải chịu trách nhiệm cho những kế hoạch không tốt đó, với kết quả là quân đội VNCH trong các quân đoàn 1 và 2 rút về bờ biển phía Đông vào cuối tháng 3 năm 1975. Một tháng trước khi kết thúc cuộc chiến.
Như chúng ta thấy trong tấm hình này, đây là những sĩ quan quân đội tại ngũ. Một số đã phải nhào xuống biển để bơi theo những con tàu này. Tôi nhớ một cảnh đã nhìn thấy khi đáp một chiếc máy bay của CIA đến bờ biển để xem chuyện gì đang xảy ra. Tôi rất kinh ngạc khi chứng kiến cảnh quân lính miền Nam Việt Nam rút lui xuống biển để trốn chạy quân Bắc Việt đang theo họ sát nút.
Với cảnh rút lui hỗn loạn như thế này, khi những người lính phải chồng chất nhau trên các con tàu đang hướng về phía Nam, thì chúng ta có một vấn đề lớn. Vấn đề là làm sao có thể tập hợp những người lính này lại với nhau để biến họ thành một lực lượng có thể bảo vệ Sài Gòn và vùng đồng bằng, những nơi cuối cùng chưa bị tấn công?
BBC: Xin ông trả lời cụ thể vào câu hỏi VNCH có bị Hoa Kỳ bỏ rơi hay không?
Sở dĩ tôi đề cập đến tất cả những điều này, là vì nó trả lời một phần câu hỏi bạn nêu ra, câu hỏi Hoa Kỳ có bỏ rơi Việt Nam không.
Việc rút quân hỗn loạn không phải là lỗi của Hoa Kỳ mà là lỗi của việc không có một kế hoạch tốt. Đó là kết quả của việc không nghiên cứu trước các biện pháp lui binh. Lui binh là một hoạt động quân sự nguy hiểm và khó khăn nhất, và ông Thiệu có thể đã có thể bảo toàn quân đội của mình ở hầu hết các vùng phía Bắc của đất nước, ông có thể đã giải cứu một số người trong quân đội của mình nếu ông lên kế hoạch trước.
Vấn đề của Thiệu một phần là vì phe địch đã cài cắm rất nhiều gián điệp vào chính phủ của ông, và họ biết rằng ông tưởng họ sẽ tấn công ở một nơi khác, trong khi trên thực tế họ tấn công ở phía Nam Cao Nguyên trung phần vào đầu tháng 3, trong giai đoạn đầu của cuộc tổng tấn công cuối cùng. Có thể nói là điệp viên của Bắc Việt đã giúp họ thắng cuộc. Và đó không phải là vì Hoa Kỳ, mà là do gián điệp tuyệt vời của kẻ thù. Chính quyền VNCh lúc đó đã bắt đầu sụp đổ, họ không được trang bị đủ để khám phá ra có gián điệp trong hàng ngũ của mình, và một trong những nguyên nhân là vì tham nhũng.
Tham nhũng đã làm suy yếu nguồn cung cấp nhu liệu vì không ai biết những nhu liệu mới được gửi đến nằm đâu. Một số bị đưa vào chợ đen, và tình trạng tham nhũng cũng cho phép kẻ thù gài được gián điệp vào khắp nơi, kể cả bộ chỉ huy và chính phủ VNCH.
Theo một ước tính của CIA vào năm 1971, Bắc Việt có khoảng 30.000 điệp viên, và đó là vào thời điểm tốt. Vào cuối cuộc chiến, CIA ước tính có ba gián điệp hoạt động cho Bắc Việt ngay trong đoàn tùy tùng của Thiệu. Một người có thể đã lọt vào vị trí rất cao trong lực lượng an ninh quân đội, người khác trong tổ chức Tình báo Trung ương. Và bây giờ chúng ta biết một điệp viên Bắc Việt đã giúp Sài Gòn đầu hàng, người này là phụ tá của Tướng Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam Việt Nam, và hoạt động như một điệp viên cho miền Bắc Việt Nam suốt thời gian đó.
Cũng có bằng chứng cho thấy Bắc Việt đã gài được gián điệp vào trong Bộ Tổng tham mưu của VNCH. Đây không phải là một người có chức vụ cao mà là một người đưa thư, người xử lý tất cả các tài liệu ra và vào văn phòng, và người này làm việc cho Bắc Việt, hãy tưởng tượng xem tên gián điệp đó có thể làm được gì.
Đó là một trong những lý do khiến Sài Gòn sụp đổ nhanh chóng, lý do tại sao cuối cùng đã có sự hỗn loạn, và tại sao trong tháng Ba, một nửa đất nước và một nửa quân đội miền Nam Việt Nam đã mất. Vì vậy, nếu ai đó nói với bạn là Hoa Kỳ đã bán đứng Nam Việt Nam, là VNCH thất trận là do lỗi của Hoa Kỳ, thì thực tế là nếu nói về những ngày cuối cùng, hay năm cuối của cuộc chiến, thì không phải vậy.
Cuối cùng, tôi nghĩ, nguyên nhân chính của việc thất trận đến từ thực tế là miền Nam Việt Nam chưa sẵn sàng tự mình chiến đấu trong cuộc chiến này.
Tôi cũng nghĩ những tranh luận này bất lợi cho chúng ta, vì một điều có thể bù đắp cho những gì xảy ra trong giai đoạn cuối cuộc chiến là rút tỉa kinh nghiệm.
Nếu không học được bài học đích đáng, nếu chỉ đổ lỗi cho Quốc hội Hoa Kỳ, đổ lỗi cho giới cấp tiến, đổ lỗi cho vị tướng này vị tướng kia, hoặc cho tin này tin nọ, chúng ta sẽ không rút ra được bài học đúng.
Bài học đầu tiên là nếu bạn là Hoa Kỳ, hãy hiểu rõ đồng minh cũng như kẻ thù của mình. Nhận ra rằng đồng minh còn yếu trong những lĩnh vực này và giúp họ cải thiện. Không nên phớt lờ khuyết điểm của họ.
Chúng tôi làm ngơ trước nạn tham nhũng nên không thể giúp sửa sai cho miền Nam VN. Vì vậy, hãy biết bạn như biết kẻ thù và đừng bao giờ tự dối lòng về sức mạnh của đứa trẻ góp phần tạo ra. Chúng tôi yêu người miền Nam VN nhưng giả vờ rằng họ là siêu nhân và không có gì cần sửa đổi không giúp được gì cho họ.
Không có nhận xét nào