Sáu năm. Đó là khoảng thời gian còn lại Đài Loan có thể có trước khi hứng chịu một cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc. Ít nhất, đó là ước tính của vị tư lệnh sắp mãn nhiệm tại Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, Đô đốc Philip Davidson, hồi tháng 3 khi phát biểu tại một phiên điều trần mở của Quốc hội.
Đài Loan sẽ an toàn cho đến năm 2027, trừ khi điều này xảy ra |
Kể từ đó, các nhà quan sát đã dựa vào các bình luận của Davidson – vốn rõ ràng ám chỉ dịp lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) vào năm 2027 có thể là một sự kiện mà Trung Quốc muốn kỷ niệm bằng cách chinh phục Đài Loan – để ủng hộ quan điểm của họ về việc Bắc Kinh có sớm thực hiện một bước đi nguy hiểm hay không.
Đối với những người đồng tình với quan điểm của Davidson, số lượng máy bay chiến đấu chưa từng có xâm nhập vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan, lên tới gần 150 chiếc trong vài ngày đầu tháng trước, là bằng chứng mới nhất cho thấy điều gì đó đang xảy ra.
Đối với những người bác bỏ quan điểm trên, có thể dễ dàng giải thích rằng các cuộc xâm nhập không phận gần đây chỉ đơn giản là một phần cho thấy sự gia tăng phản ứng quân sự nói chung của Bắc Kinh nhằm ngăn chặn việc Mỹ và Đài Loan tăng cường thắt chặt quan hệ song phương.
Có nhiều lý do chính đáng để tin rằng dự đoán của Davidson có phần hơi quá táo bạo.
Mặc dù Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình rõ ràng đang tìm cách khiến Đài Loan khuất phục, và bằng vũ lực nếu cần, ông vẫn tiếp tục thúc đẩy “tái thống nhất hòa bình” như là phương thức ưa thích của Bắc Kinh. Đến giờ ông Tập có thể đã dùng những ngôn từ mạnh mẽ hơn nếu ông nghĩ rằng chiến tranh là một khả năng thực sự. Thay vào đó, ông Tập đã đưa ra các biện pháp nhằm dập tắt các suy đoán về một cuộc tấn công tiềm tàng bằng cách kiểm duyệt các tin đồn trên mạng xã hội Trung Quốc rằng Bắc Kinh đã huy động lực lượng quân dự bị và hướng dẫn người dân tích trữ lương thực.
Liệu có khả năng ông Tập đang âm mưu tiến hành một cuộc đánh lén hay không? Chắc chắn là có thể, nhưng cho đến nay, không có bằng chứng nào cho thấy ông đang làm vậy, và những gì chúng ta biết lại cho thấy điều ngược lại – một cách tiếp cận từ từ, nghe ngóng, với hy vọng rằng áp lực ngoại giao, kinh tế và quân sự đối với Đài Loan sẽ dẫn đến việc Quốc Dân Đảng, vốn thân thiện với Trung Quốc, sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan tiếp theo vào năm 2024.
Ngoài ra, Bắc Kinh vẫn chưa cập nhật Luật Chống ly khai năm 2005, cho thấy trái với hầu hết các phân tích của phương Tây, Đài Loan không phải là ưu tiên hàng đầu. Ông Tập thường bỏ qua việc nhắc đến “Đài Loan” trong các bài phát biểu quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong một bài phát biểu như vậy trước các quan chức hàng đầu hồi tháng Giêng, ông Tập tập trung vào các mục tiêu hiện đại hóa và phát triển kinh tế xã hội hơn là giải quyết vấn đề Đài Loan.
Ông Tập cũng phải lo lắng về khả năng thành công của PLA nếu tiến hành một cuộc đổ bộ vào Đài Loan. Các cuộc tấn công đổ bộ bằng đường biển nổi tiếng là khó thành công, hãy xem trường hợp của Anh trong chiến tranh Quần đảo Falklands là một ví dụ – và PLA trong quá khứ đã thể hiện những khiếm khuyết trong các lĩnh vực quan trọng như không vận chiến lược, hậu cần và chiến tranh chống tàu ngầm, bên cạnh những vấn đề khác.
Có thể việc Trung Quốc tái cơ cấu quân đội vào năm 2016 theo một khái niệm chung về hợp đồng tác chiến, đồng thời mở rộng và hiện đại hóa mạnh mẽ các lực lượng để phù hợp với lời kêu gọi của ông Tập là đạt được vị thế quân sự “đẳng cấp thế giới” vào năm 2049, đã nâng cao hiệu quả của các lực lượng này. Nhưng nếu chỉ cải thiện năng lực thì không nhất thiết sẽ dẫn tới mức độ hiệu quả cao hơn trên chiến trường, đặc biệt là đối với một quân đội đã không tham chiến lần nào kể từ cuộc chiến tranh với Việt Nam năm 1979.
Các bản tự đánh giá của PLA thường nêu bật những thách thức về khả năng sẵn sàng nhân sự, đặc biệt là trong lãnh đạo chiến đấu. PLA nhấn mạnh sự cần thiết phải huấn luyện trong “các điều kiện chiến đấu thực tế.” Do đó, sẽ không có gì ngạc nhiên nếu Trung Quốc cố gắng thực hiện một chiến dịch quân sự ít khó khăn hơn trước khi tấn công Đài Loan. Người đứng đầu cơ quan tình báo Đài Loan hồi đầu tháng này đã đưa ra một lời chứng đáng chú ý rằng Trung Quốc đã tranh luận trong nội bộ về việc chiếm quần đảo Pratas (Đông Sa) của Đài Loan.
Cũng cần lưu ý rằng dù hành vi của Trung Quốc đối với Đài Loan trong vài năm qua có nghiêm trọng tới đâu, thì Bắc Kinh cũng đã thực sự kiềm chế so với những gì họ có thể đã làm cho tới nay. Ví dụ, trong cuộc Khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1995-1996, Bắc Kinh đã cho phóng các tên lửa đạn đạo đến gần Đài Loan – một biện pháp mang tính khiêu khích cao mà nước này đến giờ vẫn chưa lặp lại.
Trung Quốc cũng đã quyết định giữ nguyên Hiệp định Khung Hợp tác Kinh tế (ECFA), được ký hồi năm 2010 dưới thời người tiền nhiệm của Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn là Mã Anh Cửu thuộc Quốc Dân Đảng đối lập, bất chấp việc Đài Loan từ chối tái khẳng định nguyên tắc Một Trung Quốc theo cái gọi là Đồng thuận năm 1992.
Việc chấm dứt Hiệp định ECFA sẽ gây áp lực kinh tế đáng kể lên hòn đảo. Nói rộng ra, nhiều người có thể mong đợi Bắc Kinh siết chặt áp lực mọi mặt lên Đài Bắc trước khi tiến hành bất kỳ cuộc tấn công quân sự cuối cùng nào. Tuy nhiên, thực tế cho đến nay chưa xảy ra theo hướng đó.
Tất cả những điều này là tin tốt cho an ninh của Đài Loan cho đến năm 2027. Nhưng có một ngoại lệ lớn có thể diễn ra. Nếu đương kim phó tổng thống đang rất được lòng dân của bà Thái là Lại Thanh Đức (Lai Ching-te), có tên tiếng Anh là William Lai, trở thành ứng viên tổng thống năm 2024 của Đảng Dân Tiến, và nếu ông thắng cử, thì khả năng Trung Quốc tiến hành hành động quân sự chống lại Đài Loan sẽ gia tăng.
Bắc Kinh đã gọi bà Thái là một người ly khai và bí mật ủng hộ độc lập, điều đã rất nghiêm trọng. Nhưng nếu ông Lại đắc cử tổng thống, thì Bắc Kinh sẽ đối mặt với một nhà lãnh đạo vốn lúc đang nắm chức thủ tướng hồi năm 2018 đã công khai tuyên bố rằng ông là “một người chiến đấu vì sự độc lập của Đài Loan”. Việc một người như vậy đắc cử tổng thống rất có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc tiến tới hành động quân sự.
Tuy vậy, nhiều điều vẫn có thể xảy ra trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2024, và chúng ta nên hạn chế đưa ra những kết luận dễ dãi. Trong thời gian đó, Đài Loan cũng sẽ được hưởng lợi từ sự hỗ trợ bổ sung của Hoa Kỳ để tăng cường khả năng răn đe chống lại Trung Quốc. Đài Bắc sẽ được hưởng lợi hơn nữa nếu Mỹ cam đoan với Trung Quốc rằng Washington không có kế hoạch khuyến khích hoặc công nhận một Đài Loan độc lập.
Trong năm đầu tiên nắm quyền, chính quyền Biden đã thực hiện một cách hiệu quả cách tiếp cận này.
Không có nhận xét nào