(China's Belligerence: Twisting flows, Weaponising water)
TAI HỌA TRUNG HOA TRÊN SÔNG MEKONG
(Chinese calamity on the Mekong river)
Salma Kouser Asif – Bình Yên Đông lược dịch
Bangla News 24 – 15 July 2021
Đồng bộ với địa chánh trị hiện đại, có vẻ như Trung Hoa có ý định lợi dụng tài nguyên thiên nhiên như một chiến lược chiến tranh tương tự như chánh sách tiêu thổ để lực lượng địch không có tài nguyên cần thiết để sống còn. Với chiến lược nầy, Trung Hoa đang xây một đập lớn nhất thế giới trong Khu Tự trị Tây Tạng để chứng tỏ tính ưu việt của mình trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở qua một hành động mà không có quốc gia nào khác đã thực hiện vào bất cứ lúc nào trong lịch sử.
Hơn nữa, Trung Hoa dự định xây các nhà máy thủy điện trên các sông khác chẳng hạn như Salween, Mekong, Yangtze và Bramaputra có khả năng sản xuất điện đến 120 GW. Trên mặt phía tây, nước nầy đang tài trợ và xây cất Chuỗi Bắc Sông Indus bằng cách xây các đập trong khu vực Kashmir do Pakistan quản lý, được xem như một sai lầm ở Himalayas. Việc xây đập trở lại trong năm 2010 khi Trung Hoa khởi động việc xây dựng các đập nhỏ dọc theo dòng chánh Bramaputra (Yarlung Tsangpo) với 2 đập đã hoàn tất và một số nữa sẽ hoạt động không bao lâu nữa. Chỉ riêng đập lớn nhất thế giới như được dự trù trên Yarlung Tsangpo sẽ sản xuất 60 GW, 3 lần nhiều hơn công suất của đập lớn nhất hiện nay ở Trung Hoa, đập Three Gorges (Tam Hiệp). Bằng cách ảnh hưởng dòng chảy, vận tốc và chiều hướng của con sông khổng lồ nầy và các phụ lưu của nó, Trung Hoa có thể ngăn chận hay chuyển nước sông theo ý muốn vào các dự án phát triển hạ tầng cơ sở đại qui mô. Thí dụ, Dự án Chuyển nước Nam-Bắc và Dự án Chuyển Điện Tây-Đông và việc nối kết các sông chánh để lấy nước từ vùng có nhiều nước đến các vùng thiếu nước, tất cả là một phần của đại kế hoạch để làm cho Trung Hoa tự túc về nguồn nước mà không đếm xỉa đến hậu quả cho các quốc gia duyên hà ở hạ lưu. Tuy nhiên, đây là một cái giá môi trường không thể bào chữa, vùng nầy là một trong những vùng núi non trẻ nhất, đó là rặng Himalayas. Nó cũng có thể biến thành một ác mộng kỹ thuật cho các hoạt động xây cất mà cuối cùng có thể hủy hoại sinh thái mong manh của khu vực.
Không còn nghi ngờ gì nữa, các hành động trên của Trung Hoa đã gây nhiều lo ngại cho các quốc gia duyên hà ở hạ lưu: Ấn Độ và Bangladesh. Mặc dù Trung Hoa đã hạ thấp những lo ngại nầy, sự e sợ của 2 quốc gia nầy không hoàn toàn bất ngờ. Tình hình địa chánh trị hiện thời và sự bành trướng vô độ của tham vọng Trung Hoa cùng nắm tay để châm ngòi cho ngững lo ngại nầy. Các đập xây trên sông Mekong có thể xem như một điềm báo trước cho một khủng hoảng như thế với ý niệm lờ mờ về cái theo sau. Thí dụ, trong trận hạn hán năm 2019 trong lưu vực Mekong, các nhánh ở thượng lưu Trung Hoa nhận được mưa kỷ lục nhưng các đập đã giữ lại gần hết nước và không còn bao nhiêu chảy xuống hạ lưu mặc dù các quốc gia ở hạ lưu mong muốn một cách tuyệt vọng. Ngược lại, các đập của Trung Hoa bị nghi ngờ đã gây lũ lụt, chằng hạn như 1 thập niên trước dọc theo Mekong ở Lào. Trung Hoa xem các dự án nầy như một quốc gia ở thượng lưu và lớn nhất của hệ thống phụ lưu, họ tin rằng các quốc gia duyên hà ở hạ lưu tương đối nhỏ hơn không có phương tiện để chống lại hay mặc cả hữu hiệu trong việc thương lượng về nước.
Việc Trung Hoa từ chối xác nhận đường chảy của các sông nầy cũng đưa đến nghi ngờ rằng việc xây cất với kỹ thuật phá nổ có ý định chuyển nước đến Trung Hoa. Cũng nên lưu ý rằng Trung Hoa cũng ngăn cản một phụ lưu của Bramaputra trên sông Xiabugu. Cách đây không lâu, Trung Hoa cũng cố gắng để cản trở đường chảy của sông Galwan, bắt nguồn từ vùng Aksai do Trung Hoa kiểm soát, nơi gần đây đã chứng kiến các cuộc đụng độ giữa 2 quốc gia - Ấn Độ và Trung Hoa.
Với các đập khổng lồ nầy, nông nghiệp của Ấn Độ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nông nghiệp của Bangladesh cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi các kiến trúc nầy sẽ giữ lại một số phù sa đáng kể do sông mang xuống để làm cho đất ở vùng hạ lưu phì nhiêu và đóng một vai trò quan trọng trong việc sản suất nông nghiệp của Ấn Độ và đông bắc Bangladesh. Thật vậy, Bangladesh là quốc gia duyên hà ở cuối nguồn đối mặt với đe dọa nặng nề. Hầu hết dân số của quốc gia ở trong các vùng lũ lụt như Padma, Meghna, Jamura và Barak. Lượng nước xả quá nhiều trong Jamuna (hạ lưu của Bramaputra) có thể đưa đến lũ lụt lớn, khiến cho hàng triệu người phải dời cư. Nó cũng có hậu quả cho người tị nạn tìm nơi cư trú ở nước láng giềng và có thể gây ra phiền phức xuyên biên giới.
Là một quốc gia ở thượng lưu, Trung Hoa có lợi thế lớn lao trong việc thay đổi dòng chảy của sông với tiềm năng dùng nó như một chiến thuật/đe dọa để bắt nạt các quốc gia ở hạ lưu trong bất cứ cuộc đối đầu nào. Thí dụ, mặc dù Ấn Độ có một thỏa thuận chia sẻ dữ kiện thủy học với Trung Hoa, trong cuộc chạm trán ở Doklam, Trung Hoa đã đơn phương đình chỉ thỏa thuận, ảnh hưởng đến hàng triệu người dựa vào nguồn nước nầy. Mặc dù hiện trạng được tái lập sau đó trong năm 2018, hành động nầy là một chỉ dấu rõ rệt cho thái độ hiếu chiến của Trung Hoa, để lại dấu ấn bất tín nhiệm thường thực giữa 2 quốc gia với nhận thức rằng Trung Hoa có khả năng vũ khí hóa tài nguyên thiên nhiên như một phần của chiến thuật làm áp lực của họ. Cũng có thể là chiều hướng giữ lại tài nguyên đơn phương của Trung Hoa đã đưa đến việc chạm trán ở Pangong Tso vì nó ở gần thung lũng Shaksgam, một vùng có nhiều silica được dùng như nguyên liệu thô cho kỹ nghệ chip điện tử hàng tỉ USD và được Pakistan tặng cho Trung Hoa trong năm 1963.
Ngoài ra, Nhóm Liên Chánh phủ về Thay đổi Khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC)) đã nhấn mạnh trong các phúc trình của họ rằng vùng Himalayas rất dễ bị động đất và các thảm họa thiên nhiên do các chuyển động địa chấn không thể đoán trước. Bất cứ sự can thiệp nào với địa hình và sinh thái của nó của các dự án hạ tầng cơ sở hiện đại sẽ đặt toàn thể khu vực và hàng tỉ người trong nhiều quốc gia vào sự nguy hiểm chết người.
Tuy thế, Trung Hoa vẫn lập luận rằng việc xây cất thủy điện trên sông Bramaputra là các đập dòng chảy, không có trữ nước hay chuyễn nước. Tuy nhiên, các chuyên viên độc lập nói rằng không thể bảo đảm các dự án đó không làm giảm dòng chảy xuống hạ lưu, nhất là trong mùa khô hay ngược lại gây lũ lụt trong mùa mưa. Vì thế, những lo ngại của các quốc gia ở hạ lưu có vẻ thành thật vì họ cần phải đối phó với lưu lượng quá nhiều trong mùa mưa có thể gây ngập lụt và châm ngòi cho lũ lụt tàn khốc.
Với tình huống toàn cầu hiện nay và đe dọa của thay đổi khí hậu, băng tan, hệ sinh thái mong manh, sạt lở đất phì nhiêu, đất chuồi thường xuyên và kinh tế yếu kém, cần phải nới rộng phạm vi hợp tác ra ngoài các tay chơi quốc gia để đạt được những khát vọng của khu vực. Với một địa hình tự nhiên hiểm trở, việc xây đập là một thách thức kỹ thuật trong giới hạn của kỹ thuật xanh. Khi bài viết nầy được in, một phần lớn băng của cao nguyên Tây Tạng tiếp tục tan và có lẽ sẽ biến mất không lâu. Thật vậy, phúc trình của IPCC nói rằng số băng còn lại trên cao nguyên Tây Tạng sẽ sớm biến mất nếu mức hủy hoại hiện nay tiếp tục không ngừng gây ra hâm nóng toàn cầu và thay đổi khí hậu. Gia tăng tuyết tan, mực nước biển dâng và nhiệt độ lên cao cũng gia tăng tần suất của thảm họa thiên nhiên. Giới chức Trung Hoa thú nhận rằng họ cũng biết các rủi ro liên quan đến việc xây dựng hạ tầng cơ sở nhưng điều đó không ngăn chận họ theo đuổi những nỗ lực gây thiệt hại môi trường. Không chỉ thế, trong quá khứ Trung Hoa được biết đã phá hoại một con sông xuyên biên giới bằng cách gây ô nhiễm đến mức không thể dùng trong gia đình, ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp và kinh tế thủy sản.
Đánh giá cấp bách
Từ một tư thế đặc quyền, là một quốc gia duyên hà ở thượng lưu, Trung Hoa là kho tin tức về tình trạng của các sông và nước trong sông, nếu được dùng đúng có thể giúp quản lý lũ lụt tốt hơn cho các quốc gia duyên hà và các sông ở hạ lưu. Vì sự lệ thuộc vào Trung Hoa để có tin tức cần thiết khiến nước nầy có lợi thế trong việc thao túng và giữ lại dữ kiện nước. Như trong trường hợp của Ấn Độ, vì thiếu cơ chế dàn xếp hỗ tương về chia sẻ nước cho các sông xuyên biên giới, và với việc Trung Hoa từ chối việc dàn xếp quốc tế, có rất ít giải pháp ngoại giao cho các quốc gia có quan tâm. Ấn Độ nay có những lựa chọn miễn cưỡng trong việc sử dụng hữu hiệu các sông ở trong nước và thu hoạch tối đa nước mưa là một. Các quốc gia Đông Nam Á (ĐNA) khác cũng báo động vì Trung Hoa từ chối tham vấn với các nước láng giềng ở hạ lưu. Đã đến lúc các quốc gia Nam và ĐNA thương thảo với Trung Hoa như một nhóm thống nhất để sống còn. Sau cùng, đặc tính của thiên nhiên là không biết các biên giới và Trung Hoa phải chấp nhận rằng việc sử dụng khả chấp của họ không phải trỗi dậy từ bá quyền của một quốc gia mà là bổn phận tập thể của các quốc gia có trách nhiệm.
https://mekong-cuulong.blogspot.com/2021/08/thai-o-hieu-chien-cua-trung-hoa-bop-meo.html
TAI HỌA TRUNG HOA TRÊN SÔNG MEKONG
(Chinese calamity on the Mekong river)
Fabien Baussart – Bình Yên Đông lược dịch
Times of Israel – July 13, 2021
Sunday, August 1, 2021
Đập Dachaoshan trên thượng lưu Mekong ở Trung Hoa. [Ảnh: AP]
Sông Mekong bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng và chảy qua 6 quốc gia là nơi cư trú của nền thủy sản nội địa lớn nhất thế giới và hỗ trợ cho cuộc sống của trên 60 triệu người trong các quốc gia nghèo khó như Myanmar, Thái Lan, Lào, Cambodia và Việt Nam. Người dân sống ven sông và những người dựa vào nước sông nay đang đối phó với thách thức sống còn vì việc xây cất các đập thủy điện khổng lồ của Trung Hoa khiến cho khu vực bị khô hạn. Tính nghiêm trọng của vấn đề có thể đo lường từ sự kiện là Lào, với trách nhiệm và minh bạch kém, đã có kế hoạch để xây 140 đập trên Mekong và các phụ lưu với trợ giúp tài chánh của Trung Hoa.
Trung Hoa đã xây 11 đập khổng lồ trong vùng núi non ở thượng lưu Mekong để đáp ứng với nhu cầu năng lượng của mình. Ngoài ra, Trung Hoa cũng có kế hoạch để nới rộng sông và xây hàng trăm đập ở hạ lưu sông Mekong và các phụ lưu như một phần của Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative (BRI)). Vì các hoạt động xây cất nguy hiểm của Trung Hoa ở thượng lưu Mekong, những vùng ở hạ lưu vực đang chứng kiến hạn hán cũng như sự tàn phá của các hoạt động thủy sản và nông nghiệp. Ngày nay, các hoạt động xây cất của BRI, bao gồm việc thay đổi dòng chảy của Mekong, sẽ có những ảnh hưởng môi trường tiêu cực, hủy hoại hàng triêu cuộc sống trong các quốc gia nghèo ở Đông Nam Á (ĐNA).
Các đập thủy điện của BRI gây một số rủi ro liên hệ đến tính dễ tổn thương khí hậu và thiệt hại tiềm tàng cho các cộng đồng địa phương và hệ sinh thái. Những ảnh hưởng xấu gồm có việc phóng thích khí methane, thay đổi mực nước, sự phân phối phù sa và tính sẵn có của cá và các động vật ở dưới nước khác. Một phúc trình năm 2018 của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)), một tổ chức lưu vực liên chánh phủ, nói các hoạt động xây đập sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sinh thái và sức khỏe và cuộc sống của người nghèo dọc theo sông Mekong. Người nghèo sẽ được lợi ít trong khi chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. “Các đập thủy điện làm giảm dòng chảy trong mùa mưa và gia tăng dòng chảy trong mùa khô khi điều hành bình thường (ngoại trừ các cực đoan khí hậu). Điều nầy làm tăng việc dẫn thủy, giảm thiệt hại lũ lụt, cung cấp cứu trợ hạn hán, nhưng có ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái của sông, tính khả chấp và an ninh lương thực liên quan đến thủy sản,” phúc trình cảnh báo.
Không chỉ có lòng sông mà các làng mạc dọc theo sông bị phá hủy để lấy đất cho các đập khổng lồ do Trung Hoa xây cất. Năm 2019, mực nước trong sông Mekong đã xuống thấp đến mức kỷ lục trong 100 năm. Điều nầy đã ảnh hưởng nặng nề đến nguồn cá, việc trồng lúa và sự lành mạnh của hệ sinh thái chung quanh sông. Khi các đập được xây cất thiếu kiểm soát, khu vực Mekong đang đi đến “kiểm họa sinh thái,” tăng tốc bởi thay đổi khí hậu, có thể làm cho sông chết sớm, Brian Eyler, giám đốc chương trình ĐNA của Trung tâm Stimson, nói. Đập của Trung Hoa ở thượng lưu Mekong đã làm giảm mực nước ở hạ lưu vực, gây hạn hán. Điều nầy đã ảnh hưởng đáng kể đến Việt Nam, buộc người dân phải đi rất xa để lấy nước gia dụng hàng ngày.
Việc xây cất đập Nuozhadu (Nọa Trát Độ) của Trung Hoa khiến cho sông Mekong thay đổi đường chảy tự nhiên của nó, đưa đến việc “thiếu nước trầm trọng ở hạ lưu Mekong”, ảnh vệ tinh từ 1992 đến 2019 cho thấy. Các đập của Trung Hoa do BRI bảo trợ đã ngăn chận một số lượng nước chưa từng thấy chảy xuống hạ lưu để hỗ trợ cho cuộc sống của hàng triệu người. “Việc quản lý đập của Trung Hoa đang gây ra những thay đổi thất thường và tàn phá trong mực nước ở hạ lưu. Các trận lũ lụt thình lình và không ngờ ở hạ lưu nay có thể liên kết với việc hoàn tất của đập Dachaoshan (Đại Chiếu Sơn) và đập Nuozhadu trong năm 2002 và 2012-2014. Việc xả nước bất ngờ từ đập làm cho mực nước sông lên nhanh đã tàn phá các cộng đồng ở hạ lưu, gây thiệt hại hàng triệu USD và làm chấn động các tiến trình sinh thái của sông,” Trung tâm Stimson, một tổ chức nghiên cứu, quan sát.
Đập Nuozhadu trên thượng lưu Mekong ở Trung Hoa. [Ảnh: Pinterest]
Các quốc gia ĐNA quá yếu để yêu cầu Trung Hoa ngưng ngăn chận nước. Họ tiếp tục đối mặt với các ảnh hưởng xấu của việc xây cất đập của Trung Hoa. Ở Cambodia, thủy sản và canh tác nông nghiệp đã bị ảnh hưởng khi các đập thủy điện làm giảm nguồn cá và chất dinh dưỡng. Ở Thái Lan, quân đội được trưng dụng để giúp người dân bị ảnh hưởng của hạn hán, châm ngòi bởi đập Xayaburi trên Mekong [Lời người dịch: Đập Xayaburi là đập dòng chảy nên không trữ nước. Tất cả số nước chảy đến đập đều chảy qua đập]. Ngoài ra, chánh phủ Beijing (Bắc Kinh) có kế hoạch để nới rộng Mekong bằng cách dùng thuốc nổ để phá các ghềnh thác và cồn cát để tạo luồng lưu thông cho các tàu trọng tải 500 tấn của Trung Hoa. Nó đang được tiến hành theo kế hoạch mặc dù việc chống đối đang tạm thời ngăn chận. Các nhà môi trường đã quy trách nhiệm cho Trung Hoa đã dành ưu tiên cho quyền lợi kinh tế do thủy điện mang lại, thay vì công nhận các ảnh hưởng tai hại đối với sông Mekong và các cộng đồng ở hạ lưu sông.
https://mekong-cuulong.blogspot.com/2021/08/tai-hoa-trung-hoa-tren-song-mekong.html
Không có nhận xét nào