Đang là ngày rằm tháng bảy, lễ xá tội vong nhân cũng là Lễ Vu Lan của Phật Giáo. Cũng đang là lúc dịch bệnh do con virus Vũ Hán đang gây bao chết chóc và khổ đau trên toàn thế giới. Thành phố Sài Gòn cũng đang trong cơn bệnh bi thương vì đại dịch. Nhớ đến một bài văn tế nổi tiếng của thi hào Nguyễn Du, đăng lại đây có lẽ hợp với khung cảnh lúc này.
Văn tế thập loại chúng sinh còn được gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn là một bài văn tế bằng chữ Nôm soạn vào đầu thế kỷ 19. Tác phẩm được coi là một sáng tác xuất sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
Bản văn tế đăng dưới đây là bản được học giả Hoàng Xuân Hãn hiệu
đính khi so sánh các bản khác nhau, và đã giao cho ông Thanh Tuệ năm 1993.
Năm 1995 nhà xuất bản An Tiêm của ông Thanh Tuệ đã ấn hành bản văn tế này với
lời Tựa của chính học giả Hoàng Xuân Hãn. Xin trích một đoạn từ lời Tựa ấy :
… Nay, có ông
Thanh Tuệ, ngụ tại Paris, vốn xưa tại Sài Gòn quen nghề xuất bản, lại say mê
văn cổ, quí chuộng bài Văn tế THẬP LOẠI CHÚNG SINH. Ông nhận thấy bản
cảo của tôi mang lại cho Ông nhiều điều sở nguyện. Ông đã yêu cầu tôi để Ông
chia thú cùng các bạn hải ngoại, nhất là các bạn rất đông ở bên kia
Đại-tây-dương. Tôi tự nhiên đồng ý. Tôi nghĩ đến đồng bào đứng tuổi ở hải
ngoại, đã từng quen và cảm với văn hóa dân tộc nước nhà. Nay vì sinh hoạt, đành
nhìn con cháu một ngày một xa văn hóa gốc. Nếu mình có thể bảo tồn một cách
chính xác những cái hay của gốc, thì có lẽ mình thuyết phục con em cố giữ gốc dễ
hơn.
Vậy nên, tôi đã lấy bản cảo cũ, đọc lại, bổ túc và sửa chữa một vài điểm nhỏ,
rồi giao cho ông Thanh Tuệ tự tiện dụng hành. Mong có những tiếng giội của độc
giả để phủ chính thêm.
PARIS tháng 10 năm Quí-dậu (1993)
Hoàng Xuân Hãn
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Nguyễn Du
DỰNG ĐÀN GIẢI THOÁT
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô
Não người thay bấy chiều thu,
Ngàn lau khảm bạc, giếng ngô rụng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Xót khôn thiêng phảng phất u minh…
Thương thay Thập loại chúng sinh
Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa
Phận bồ côi lần lữa đêm đen
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu
Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hắt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ, hồn về Tây phương
THẬP LOẠI CHÚNG SINH
1. Vua chúa bị giết
Nào những kẻ tính đường kiểu-hạnh
Chí những lăm cướp gánh non sông
Nói chi đang thuở thị hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau
Bỗng phút đâu tro bay ngói giỡ
Khôn đem mình làm đứa thất phu
Cả giàu sang, nặng oán thù
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu van khóc đêm mưa
Đã hay thành bại là cơ
Mà u hồn biết bao giờ cho tan
2. Quí-nữ liều thân
Nào những kẻ màn lan trướng huệ
Những cậy mình cung Quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Tấm thân mảnh lá biết là làm sao
Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Thảm thiết nhẽ không hương không khói
Hồn vẩn vơ bãi cói ngàn sim
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, càng đêm càng dàu
3. Tể-thần thất thế
Nào những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngòi bút son thác sống ở tay
Kinh luân chất một xải đầy
Đã đêm Quản Cát, lại ngày Y Chu
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma xắm-nắm chung quanh
Nghìn vàng khôn chuộc được mình
Lầu ca viện xướng tan tành còn đâu
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén hương
Cô hồn thất thưởng dọc ngang
Nặng oan, khôn lẽ tìm đường hóa sinh
4. Đại tướng bại trận
Nào những kẻ bài binh bố trận
Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung
Gió mưa thét rống đùng đùng
Phơi thây trăm họ làm công một người
Khi thất thế cung rơi tên lạc
Bãi sa trường thịt nát máu rơi
Bơ vơ góc bể chân trời
Nắm xương vô chủ biết vùi vào đâu
Trời xâm xẩm mưa gào gió thét
Khí âm ngưng mù mịt trước sau
Năm năm sương nắng dãi dầu
Còn đâu tế-tự, còn đâu chưng-thường
5. Ham giàu chết đường
Cũng có kẻ tính đường trí phú
Làm tội mình nhịn ngủ bớt ăn
Ruột rà không kẻ chí thân
Dầu làm nên nữa, dành phần cho ai
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dẫu có như không
Tuy rằng bạc chảy tiền dòng
Khi đi mang được một đồng nào đi
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Thẩn thơ nội rộc đồng chiêm
Tàn hương giọt nước biết tìm vào đâu
6. Ham danh chết quán
Cũng có kẻ muốn cầu chữ quý
Dấn thân vào thành thị bôn ba
Mấy thu lìa cửa lìa nhà
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng
Anh em : thiên hạ, láng giềng : người dưng
Bóng tang-tử xa chừng hương-khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gửi tha hương
Gió trăng hiu hắt, khói hương lạnh lùng
7. Buôn bán chết xa
Cũng có kẻ vào sông ra bể
Cánh buồm dơi chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng
Đem thân vùi rập vào lòng kình nghê
Lại có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chèn-đắn hai vai
Gặp cơn mưa gió, trở trời
Hồn đường sá, biết lạc loài vào đâu
8. Binh lính chết trận
Lại có kẻ mắc vào ngũ lính
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan
Nước bầu cơm ống gian nan
Dãi dầu muôn dặm, lầm than một đời
Trong chiến trận xem người như rác
Thân đã dành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương
9. Kĩ nữ cô đơn
Cũng có kẻ lỡ làng một tiết
Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con mấy, biết là cậy ai
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu
10. Chết bởi nghèo nàn tai họa
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi những ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi thân vào chiếu lác một manh
Gói xương chôn lấp góc thành
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi
Lại như đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
Ư ư tiếng khóc xót xa nỗi lòng
Cũng có kẻ đắm sông chìm suối
Cũng có người sẩy cũi ngã cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lụt, kẻ lây cháy thành
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì lăm răng khái ngà voi
Có người có đẻ không nuôi
Có người sinh sẩy, mạng người gian nguy
CẢNH LANG THANG CỰC KHỔ CỦA CÔ HỒN
Mắc phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại-hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ
Hoặc là ẩn dọc bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là bãi cỏ lùm cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là tựa thần từ, Phật tự
Hoặc là quanh đầu chợ cuối sông
Hoặc là thơ thẩn đồng không
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre
Mấy thu chịu nhiều bề thảm thiết
Dạ héo khô, gió rét căm căm
Dãi dầu biết mấy trăm năm
Khóc than dưới đất, ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy, tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời, lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng hỡi lại mà chứng minh
CẦU PHẬT GIẢI THOÁT CÔ HỒN
Nhờ Phật lực siêu sinh Tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Khắp trong tứ-đại-bộ-chu
Não phiền thoát sạch, oán thù rửa trong
Đạo Vô thượng thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện quỉ-vương
Linh kỳ một lá dẫn đường độ sinh
Nhờ Phật lực uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê, phút tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ cũng vào nghe kinh
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có câu rằng: Vạn cảnh giai không
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi
MỜI CÔ HỒN HƯỞNG LỄ
Đàn chẩn tế theo lời Phật giáo
Có vật gì, lưng cháo nén hương
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đàng siêu thiên
Ai tới đó, dưới trên ngồi lại
Lấy chút lòng, chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít ra nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi tế độ
Chớ ngại rằng có có chăng chăng
Nam-mô PHẬT, Nam mô PHÁP, Nam mô TĂNG
Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
(Hết)
https://www.diendantheky.net/2021/08/nhan-ram-thang-bay.html
Không có nhận xét nào