An ninh nước là một khái niệm mới được đưa ra từ thập niên 1990s để bày tỏ lo ngại về những vấn đề của nguồn cung cấp nước như mức tin cậy, phẩm chất, số lượng, an toàn và sử dụng bình đẳng, và môi trường. Khái niệm nầy càng ngày càng được dùng trong các quỹ đạo chánh sách, từ Quỹ Hoang dã Thế giới (World Wildlife Fund (WWF)) và Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum (WEF)) cho đến Liên Hiệp Quốc (LHQ) (United Nations (UN) (WWF, 2009; UNEP, 2009; WEF, 2011; UN-Water, 2013; UNESCO, 2013) [1].
Từ ngữ ‘an ninh nước’ và các ý niệm tiềm ẩn đã thu hút sự chú ý của các tổ chức chánh phủ và phi chánh phủ, thành phần tư nhân và học thuật trong việc soạn thảo chánh sách lẫn trong thực hành. Mặc dù việc sử dụng nước gia tăng rõ rệt, một sự hiểu biết tổng quát về cách mà an ninh nước được nhận thức và sử dụng trong các lãnh vực khác nhau trên thế giới vẫn còn hạn chế.
Bài viết nầy có mục đích tìm hiểu về an ninh nước nói chung và hiện trạng an ninh nước ở Việt Nam hiện nay.
An ninh nước là gì?
Theo UN-Water, một cơ chế phối hợp nhiều cơ quan của LHQ về tất cả các vấn đề liên hệ đến nước, an ninh nước nên được định nghĩa như: “Khả năng của một dân số để bảo vệ việc tiếp cận khả chấp những số lượng nước thích hợp với phẩm chất chấp nhận được để duy trì cuộc sống, phúc lợi của nhân loại, và phát triển kinh tế; để bảo đảm việc bảo vệ chống lại ô nhiễm nước và các bệnh tật liên quan đến nước; và để bảo tồn các hệ sinh thái trong không khí hòa bình và ổn định chánh trị” Định nghĩa nầy hàm ý rằng nước phải được quản lý một cách khả chấp trong suốt chu kỳ nước và được thực hiện với sự tập trung liên ngành, để nó đóng góp vào việc phát triển kinh tế xã hội và nâng cao tính chịu đựng của xã hội đối với các ảnh hưởng môi trường và các bệnh tật do nước truyền nhiễm mà không làm tổn thương sức khỏe của dân số và hệ sinh thái hiện tại và tương lai [2].
Đàm luận về an ninh nước trong những năm gần đây bao gồm nhiều yếu tố phổ biến và then chốt. Sau đây là tóm lược các yếu tố cốt lõi cần thiết để thực hiện và duy trì an ninh nước [2]:
· Tiếp cận với nước uống đầy đủ và an toàn với giá phải chăng để đáp ứng các nhu cầu căn bản như điều kiện về sức khỏe và vệ sinh, và bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc;
· Bảo vệ cuộc sống, nhân quyền, và văn hóa và các giá trị giải trí;
· Bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái trong việc phân phối nước và các hệ thống quản lý để duy trì khả năng hoạt động của các dịch vụ sinh thái cần thiết;
· Cung cấp nước cho việc phát triển và các hoạt động chẳng hạn như năng lượng, vận chuyển, kỹ nghệ và du lịch;
· Thu thập và thanh lọc nước đã dùng để bảo vệ đời sống của con người và môi trường không bị ô nhiễm;
· Cộng tác để quản lý nguồn nước xuyên biên giới bên trong và giữa các quốc gia để cỗ vũ tính khả chấp và hợp tác về nước nước ngọt;
· Khả năng đối phó với những bấp bênh và rủi ro của những nguy hiểm liên quan đến nước, chẳng hạn như lũ lụt, hạn hán và ô nhiễm, cùng các nguy hiểm khác; và
· Cai quản và trách nhiệm tốt, và cứu xét thích đáng quyền lợi của tất cả các bên liên hệ qua: các chế độ pháp lý thích hợp và hữu hiệu; các tổ chức minh bạch, được tham gia rộng rãi và có trách nhiệm; hạ tầng cơ sở được hoạch định, điều hành và bảo trì đúng cách; và phát triển khả năng.
Những yếu tố của an ninh nước được trình bày trong Hình 1.
Hiện trạng an ninh nước ở Việt Nam
Hiện trạng an ninh nước ở Việt Nam được báo chí trong nước mô tả phần nào trong những năm gần đây.
Bài báo trên tờ Công Thương cho biết: “Với tổng dòng chảy nước mặt hàng năm từ 830-840 tỉ m3, Việt Nam là một quốc gia được đánh giá có tiềm năng tài nguyên nước. Tuy nhiên, an ninh nguồn nước lại đang đứng trước nguy cơ không được bảo đảm. Mặc dù có hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm tới khoảng 63%, còn lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ chỉ khoảng 37%, tương đương từ 310 - 315 tỷ m3/năm. Trong khi đó, dòng chảy ở trong nước lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu tại lưu vực sông Cửu Long (khoảng 57%), sông Hồng - Thái Bình (khoảng 16%), còn lại ở các lưu vực sông khác. Đáng lo ngại, việc khai thác nước tập trung quy mô lớn dẫn đến hạ thấp mực nước sâu và gây ra tình trạng xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung. Kèm theo đó, nước thải không được xử lý đúng quy chuẩn, kỹ thuật… gây sức ép lớn đến số lượng, chất lượng nguồn nước các sông, suối. Nhiều sông chính, khu vực tập trung đông dân cư, khu công nghiệp, làng nghề… bị ô nhiễm trầm trọng. Trong khi đó, nhu cầu về nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất tăng nhanh, càng đặt ra nhiều thách thức về an ninh nguồn nước.” [3]
Theo Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà (Hình 2), trong mùa khô, “… nếu các quốc gia thượng nguồn sông Mekong chỉ cần giữ lại 20% nước trong các hồ chứa thủy điện, thì an ninh nguồn nước của Việt Nam sẽ bị đe dọa… những nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) đã chỉ ra thể chế về nước của Việt Nam đang có vấn đề. Cụ thể, Việt Nam chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa có đầu tư để đảm bảo được hạ tầng cơ sở về nước; chưa có chánh sách kinh tế, tài chính nước… Hiện nay, 80% lượng nước sử dụng của Việt Nam là dùng cho nông nghiệp. Hiệu quả sử dụng trên một đơn vị m3 ở nước ta mới có 2,37 USD, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới là 19,57 USD, thậm chí còn thấp hơn các nước trong khu vực là Lào 2,57 USD và Philippines 2,58 USD.” [4]
Theo Tiến sĩ Đào Trọng Tứ, Phó Chủ tịch Hội Tưới Tiêu Việt Nam và Trưởng ban Điều hành Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam, Việt Nam “… chỉ sử dụng có 10% tổng số lượng nước được khai thác hàng năm là 830 tỉ. Nguy cơ thiếu nước rõ ràng và ở mức nghiêm trọng. Suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, nước ngầm, thiếu nước, khan hiếm nước trở nên phổ biến hơn. Hiện 20% người dân chưa được sử dụng nước sạch, 17,2 triệu người vẫn sử dụng nguồn nước không đạt tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y Tế.” [5]
Một báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia của Bộ TN&MT cho biết, “… chỉ 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh hàng ngày thải ra môi trường khoảng 900.000 m3 nước, khiến nguồn nước mặt tại nhiều con sông, điển hình như sông Nhuệ, sông Đáy (Hình 3) bị ô nhiễm từ trung bình đến nặng. Còn theo thống kê của Bộ Y Tế, trong các bệnh truyền nhiễm gây dịch ở Việt Nam thỉ bệnh tiêu chảy (là bệnh có liên quan đến ô nhiễm môi trường nước) đứng đầu danh sách về tổng số ca bệnh bị mắc trên toàn quốc. Thậm chí đã xảy ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước cung cấp cho các nhà máy nước sinh hoạt, làm gia tăng chi phí sản xuất nước sạch. Một số nhà máy không đủ khả năng xử lý đã phải dừng hoạt động.” [6]
Để bảo đảm cho an ninh nước của Việt Nam, Bộ TN&MT đã xây dựng một đề án “… để giải quyết 6 vấn đề chính theo xu thế chung của an ninh nguồn nước: Đảm bảo nguồn nước cho cấp nước sinh hoạt; đảm bảo cấp nước sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng và giao thông; chủ động ứng phó với tác động của hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm, biến đổi khí hậu; tác động từ nước ngoài đối với nguồn nước xuyên biên giới và các mối nguy hiểm khác liên quan đến nước cho môi trường, thoát nước, xử lý nước thải đô thị và giao thông thủy và các hoạt động liên quan.
Mục tiêu cụ thể của Đề án đến năm 2030 là giảm thiểu tối đa sự phụ thuộc, tối ưu hóa lợi ích do nguồn nước mang lại từ các nguồn nước liên quốc gia; chủ động điều tiết nước, phòng ngừa, ứng phó với các sự cố ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; khắc phục có hiệu quả, bền vững tình trạng hạn hán thiếu nước vào mùa khô các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các hải đảo; Nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho người dân và các ngành sử dụng nước; kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý, gắn với bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; Kiểm soát trên 90% các nguồn thải vào nguồn nước có vai trò quan trọng trong cấp nước được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; cải thiện, phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái ngập nước quan trọng; Cải thiện việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị, nông thôn, nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt khoảng 95 - 100%, nông thôn đạt khoảng 93 - 95%; đảm bảo an ninh lương thực thông qua việc vận hành hiệu quả các công trình thuỷ lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu; cấp đủ nước cho hoạt động sản xuất công nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng nước trong công nghiệp; đảm bảo an ninh năng lượng thông qua việc điều hòa phân bổ hợp lý nguồn nước khai thác cho thủy điện, nhiệt điện; đẩy mạnh sử dụng nước tiết kiệm, nâng cao khả năng tích trữ, an toàn hạ du; từng bước nâng cao tỷ trọng nguồn điện sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo nhằm giảm sự phụ thuộc vào diễn biến nguồn nước; 90% hồ chứa thủy điện được bổ sung nhiệm vụ tham gia phòng lũ, cấp nước cho hạ du và điều tiết vận hành theo thời gian thực; …” [7]
Phần kết luận
An ninh nước là một khái niệm mới mẻ để bày tỏ lo ngại về những vấn đề liên quan đến nước. Khái niệm nầy càng ngày càng được các tổ chức quốc tế như WWF, WEF và LHQ sử dụng. An ninh nước được UN-Water định nghĩa là khả năng cung cấp một số lượng nước thích hợp và có phẩm chất để duy trì cuộc sống và phúc lợi của nhân loại; phát triển kinh tế; bảo vệ môi trường; và bảo tồn các hệ sinh thái.
Dựa theo định nghĩa của UN-Water và tin tức đăng tải trên báo chí, Việt Nam chưa có an ninh nước vì những lý do như quá lệ thuộc vào nguồn nước ở nước ngoài; suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt và nước ngầm; thiếu nước hay khan hiếm nước; 20% người dân chưa được sử dụng nước sạch, 17,2 triệu người vẫn sử dụng nguồn nước không đạt tiêu chuẩn nước sạch; và ô nhiễm trong các sông.
Để bảo đảm an ninh nước cho Việt Nam, Bộ TN&MT đã xây dựng một đề án để bảo đảm nguồn nước cho cấp nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng và giao thông; để chủ động ứng phó với hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm, biến đổi khí hậu; để đối phó với tác động của nguồn nước xuyên biên giới; và để bảo vệ môi trường, thoát nước, và xử lý nước thải đô thị. Đề án có vẻ giải quyết 6 vấn đề chung của an ninh nước, nhưng thực hiện được hay không mới là điều quan trọng và đây chính là những thách thức lớn lao cho nhà cầm quyền Việt Nam.
Sơ lược về tác giả
Tác giả nguyên là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của tiểu bang Florida và California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trường Cao đẳng Công chánh, Trung tâm Quốc gia Kỹ Thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972. Trưởng ty Kế hoạch, Ủy ban Quốc gia Thủy lợi, Bộ Công chánh và Giao thông, Sài Gòn đến tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh (1983) và Cao học Thủy lợi (1985) tại Đại học Nebraska, Hoa Kỳ. Chuyên viên Thủy học (Hydrlogist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát Trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles. Về hưu từ năm 2016.
Tài liệu tham khảo
[1] UNESCO/UNESCO i-WSSM. 2019. Water Secutity and the Sustainable Development Goals (Series I). Global Water Security Issues (GWSI) Series, UNESCO Publishing, Paris. https://digitallibrary.un.org/record/3807832
[2] UN-Water. October 2013. Water Security & the Global Water Agenda. A UN-Water Analytical Brief. United Nations University, Ontario, Canada. https://www.unwater.org/publications/un-water-annual-report-2013/
[3] Thanh Tâm. 18 tháng 6 năm 2020. “An ninh nguồn nước đang đứng trước nhiều nguy cơ.” Công Thương. https://congthuong.vn/an-ninh-nguon-nuoc-dang-dung-truoc-nhieu-nguy-co-159186.html
[4] Trọng Phú – Đức Minh. 15 tháng 6 năm 2020. ‘Anh ninh nguồn nước đang lệ thuộc nước ngoài’. Vietnambiz. https://vietnambiz.vn/an-ninh-nguon-nuoc-dang-le-thuoc-nuoc-ngoai-20200615221600919.htm
[5] Thùy Linh. 29 tháng 10 năm 2020. Báo động an ninh nguồn nước ở Việt Nam. Lao Động. https://laodong.vn/moi-truong/bao-dong-an-ninh-nguon-nuoc-o-viet-nam-849779.ldo
[6] Nguyễn Nhàn. 4 tháng 8 năm 2020. “An ninh nguồn nước – vấn đề sống còn.” Nông nghiệp Việt Nam. https://nongnghiep.vn/an-ninh-nguon-nuoc--van-de-song-con-d270083.html
[7] Kim Oanh. 16 tháng 6 năm 2021. “Hoàn thiện đề án đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia.” Môi trường Đô thị. https://www.moitruongvadothi.vn/tai-nguyen/nuoc/hoan-thien-de-an-dam-bao-an-ninh-tai-nguyen-nuoc-quoc-gia-a84010.html
https://mekong-cuulong.
Nguyễn Minh Quang – An ninh nước |
Từ ngữ ‘an ninh nước’ và các ý niệm tiềm ẩn đã thu hút sự chú ý của các tổ chức chánh phủ và phi chánh phủ, thành phần tư nhân và học thuật trong việc soạn thảo chánh sách lẫn trong thực hành. Mặc dù việc sử dụng nước gia tăng rõ rệt, một sự hiểu biết tổng quát về cách mà an ninh nước được nhận thức và sử dụng trong các lãnh vực khác nhau trên thế giới vẫn còn hạn chế.
Bài viết nầy có mục đích tìm hiểu về an ninh nước nói chung và hiện trạng an ninh nước ở Việt Nam hiện nay.
An ninh nước là gì?
Theo UN-Water, một cơ chế phối hợp nhiều cơ quan của LHQ về tất cả các vấn đề liên hệ đến nước, an ninh nước nên được định nghĩa như: “Khả năng của một dân số để bảo vệ việc tiếp cận khả chấp những số lượng nước thích hợp với phẩm chất chấp nhận được để duy trì cuộc sống, phúc lợi của nhân loại, và phát triển kinh tế; để bảo đảm việc bảo vệ chống lại ô nhiễm nước và các bệnh tật liên quan đến nước; và để bảo tồn các hệ sinh thái trong không khí hòa bình và ổn định chánh trị” Định nghĩa nầy hàm ý rằng nước phải được quản lý một cách khả chấp trong suốt chu kỳ nước và được thực hiện với sự tập trung liên ngành, để nó đóng góp vào việc phát triển kinh tế xã hội và nâng cao tính chịu đựng của xã hội đối với các ảnh hưởng môi trường và các bệnh tật do nước truyền nhiễm mà không làm tổn thương sức khỏe của dân số và hệ sinh thái hiện tại và tương lai [2].
Đàm luận về an ninh nước trong những năm gần đây bao gồm nhiều yếu tố phổ biến và then chốt. Sau đây là tóm lược các yếu tố cốt lõi cần thiết để thực hiện và duy trì an ninh nước [2]:
· Tiếp cận với nước uống đầy đủ và an toàn với giá phải chăng để đáp ứng các nhu cầu căn bản như điều kiện về sức khỏe và vệ sinh, và bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc;
· Bảo vệ cuộc sống, nhân quyền, và văn hóa và các giá trị giải trí;
· Bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái trong việc phân phối nước và các hệ thống quản lý để duy trì khả năng hoạt động của các dịch vụ sinh thái cần thiết;
· Cung cấp nước cho việc phát triển và các hoạt động chẳng hạn như năng lượng, vận chuyển, kỹ nghệ và du lịch;
· Thu thập và thanh lọc nước đã dùng để bảo vệ đời sống của con người và môi trường không bị ô nhiễm;
· Cộng tác để quản lý nguồn nước xuyên biên giới bên trong và giữa các quốc gia để cỗ vũ tính khả chấp và hợp tác về nước nước ngọt;
· Khả năng đối phó với những bấp bênh và rủi ro của những nguy hiểm liên quan đến nước, chẳng hạn như lũ lụt, hạn hán và ô nhiễm, cùng các nguy hiểm khác; và
· Cai quản và trách nhiệm tốt, và cứu xét thích đáng quyền lợi của tất cả các bên liên hệ qua: các chế độ pháp lý thích hợp và hữu hiệu; các tổ chức minh bạch, được tham gia rộng rãi và có trách nhiệm; hạ tầng cơ sở được hoạch định, điều hành và bảo trì đúng cách; và phát triển khả năng.
Những yếu tố của an ninh nước được trình bày trong Hình 1.
Hiện trạng an ninh nước ở Việt Nam
Hiện trạng an ninh nước ở Việt Nam được báo chí trong nước mô tả phần nào trong những năm gần đây.
Bài báo trên tờ Công Thương cho biết: “Với tổng dòng chảy nước mặt hàng năm từ 830-840 tỉ m3, Việt Nam là một quốc gia được đánh giá có tiềm năng tài nguyên nước. Tuy nhiên, an ninh nguồn nước lại đang đứng trước nguy cơ không được bảo đảm. Mặc dù có hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm tới khoảng 63%, còn lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ chỉ khoảng 37%, tương đương từ 310 - 315 tỷ m3/năm. Trong khi đó, dòng chảy ở trong nước lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu tại lưu vực sông Cửu Long (khoảng 57%), sông Hồng - Thái Bình (khoảng 16%), còn lại ở các lưu vực sông khác. Đáng lo ngại, việc khai thác nước tập trung quy mô lớn dẫn đến hạ thấp mực nước sâu và gây ra tình trạng xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung. Kèm theo đó, nước thải không được xử lý đúng quy chuẩn, kỹ thuật… gây sức ép lớn đến số lượng, chất lượng nguồn nước các sông, suối. Nhiều sông chính, khu vực tập trung đông dân cư, khu công nghiệp, làng nghề… bị ô nhiễm trầm trọng. Trong khi đó, nhu cầu về nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất tăng nhanh, càng đặt ra nhiều thách thức về an ninh nguồn nước.” [3]
Theo Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Trần Hồng Hà (Hình 2), trong mùa khô, “… nếu các quốc gia thượng nguồn sông Mekong chỉ cần giữ lại 20% nước trong các hồ chứa thủy điện, thì an ninh nguồn nước của Việt Nam sẽ bị đe dọa… những nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) đã chỉ ra thể chế về nước của Việt Nam đang có vấn đề. Cụ thể, Việt Nam chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa có đầu tư để đảm bảo được hạ tầng cơ sở về nước; chưa có chánh sách kinh tế, tài chính nước… Hiện nay, 80% lượng nước sử dụng của Việt Nam là dùng cho nông nghiệp. Hiệu quả sử dụng trên một đơn vị m3 ở nước ta mới có 2,37 USD, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới là 19,57 USD, thậm chí còn thấp hơn các nước trong khu vực là Lào 2,57 USD và Philippines 2,58 USD.” [4]
Theo Tiến sĩ Đào Trọng Tứ, Phó Chủ tịch Hội Tưới Tiêu Việt Nam và Trưởng ban Điều hành Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam, Việt Nam “… chỉ sử dụng có 10% tổng số lượng nước được khai thác hàng năm là 830 tỉ. Nguy cơ thiếu nước rõ ràng và ở mức nghiêm trọng. Suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, nước ngầm, thiếu nước, khan hiếm nước trở nên phổ biến hơn. Hiện 20% người dân chưa được sử dụng nước sạch, 17,2 triệu người vẫn sử dụng nguồn nước không đạt tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y Tế.” [5]
Một báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia của Bộ TN&MT cho biết, “… chỉ 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh hàng ngày thải ra môi trường khoảng 900.000 m3 nước, khiến nguồn nước mặt tại nhiều con sông, điển hình như sông Nhuệ, sông Đáy (Hình 3) bị ô nhiễm từ trung bình đến nặng. Còn theo thống kê của Bộ Y Tế, trong các bệnh truyền nhiễm gây dịch ở Việt Nam thỉ bệnh tiêu chảy (là bệnh có liên quan đến ô nhiễm môi trường nước) đứng đầu danh sách về tổng số ca bệnh bị mắc trên toàn quốc. Thậm chí đã xảy ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước cung cấp cho các nhà máy nước sinh hoạt, làm gia tăng chi phí sản xuất nước sạch. Một số nhà máy không đủ khả năng xử lý đã phải dừng hoạt động.” [6]
Để bảo đảm cho an ninh nước của Việt Nam, Bộ TN&MT đã xây dựng một đề án “… để giải quyết 6 vấn đề chính theo xu thế chung của an ninh nguồn nước: Đảm bảo nguồn nước cho cấp nước sinh hoạt; đảm bảo cấp nước sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng và giao thông; chủ động ứng phó với tác động của hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm, biến đổi khí hậu; tác động từ nước ngoài đối với nguồn nước xuyên biên giới và các mối nguy hiểm khác liên quan đến nước cho môi trường, thoát nước, xử lý nước thải đô thị và giao thông thủy và các hoạt động liên quan.
Mục tiêu cụ thể của Đề án đến năm 2030 là giảm thiểu tối đa sự phụ thuộc, tối ưu hóa lợi ích do nguồn nước mang lại từ các nguồn nước liên quốc gia; chủ động điều tiết nước, phòng ngừa, ứng phó với các sự cố ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn; khắc phục có hiệu quả, bền vững tình trạng hạn hán thiếu nước vào mùa khô các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các hải đảo; Nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho người dân và các ngành sử dụng nước; kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý, gắn với bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; Kiểm soát trên 90% các nguồn thải vào nguồn nước có vai trò quan trọng trong cấp nước được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; cải thiện, phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái ngập nước quan trọng; Cải thiện việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị, nông thôn, nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt khoảng 95 - 100%, nông thôn đạt khoảng 93 - 95%; đảm bảo an ninh lương thực thông qua việc vận hành hiệu quả các công trình thuỷ lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu; cấp đủ nước cho hoạt động sản xuất công nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng nước trong công nghiệp; đảm bảo an ninh năng lượng thông qua việc điều hòa phân bổ hợp lý nguồn nước khai thác cho thủy điện, nhiệt điện; đẩy mạnh sử dụng nước tiết kiệm, nâng cao khả năng tích trữ, an toàn hạ du; từng bước nâng cao tỷ trọng nguồn điện sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo nhằm giảm sự phụ thuộc vào diễn biến nguồn nước; 90% hồ chứa thủy điện được bổ sung nhiệm vụ tham gia phòng lũ, cấp nước cho hạ du và điều tiết vận hành theo thời gian thực; …” [7]
Phần kết luận
An ninh nước là một khái niệm mới mẻ để bày tỏ lo ngại về những vấn đề liên quan đến nước. Khái niệm nầy càng ngày càng được các tổ chức quốc tế như WWF, WEF và LHQ sử dụng. An ninh nước được UN-Water định nghĩa là khả năng cung cấp một số lượng nước thích hợp và có phẩm chất để duy trì cuộc sống và phúc lợi của nhân loại; phát triển kinh tế; bảo vệ môi trường; và bảo tồn các hệ sinh thái.
Dựa theo định nghĩa của UN-Water và tin tức đăng tải trên báo chí, Việt Nam chưa có an ninh nước vì những lý do như quá lệ thuộc vào nguồn nước ở nước ngoài; suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt và nước ngầm; thiếu nước hay khan hiếm nước; 20% người dân chưa được sử dụng nước sạch, 17,2 triệu người vẫn sử dụng nguồn nước không đạt tiêu chuẩn nước sạch; và ô nhiễm trong các sông.
Để bảo đảm an ninh nước cho Việt Nam, Bộ TN&MT đã xây dựng một đề án để bảo đảm nguồn nước cho cấp nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng và giao thông; để chủ động ứng phó với hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm, biến đổi khí hậu; để đối phó với tác động của nguồn nước xuyên biên giới; và để bảo vệ môi trường, thoát nước, và xử lý nước thải đô thị. Đề án có vẻ giải quyết 6 vấn đề chung của an ninh nước, nhưng thực hiện được hay không mới là điều quan trọng và đây chính là những thách thức lớn lao cho nhà cầm quyền Việt Nam.
Sơ lược về tác giả
Tác giả nguyên là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của tiểu bang Florida và California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trường Cao đẳng Công chánh, Trung tâm Quốc gia Kỹ Thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972. Trưởng ty Kế hoạch, Ủy ban Quốc gia Thủy lợi, Bộ Công chánh và Giao thông, Sài Gòn đến tháng 4 năm 1975. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh (1983) và Cao học Thủy lợi (1985) tại Đại học Nebraska, Hoa Kỳ. Chuyên viên Thủy học (Hydrlogist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát Trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở Los Angeles. Về hưu từ năm 2016.
Tài liệu tham khảo
[1] UNESCO/UNESCO i-WSSM. 2019. Water Secutity and the Sustainable Development Goals (Series I). Global Water Security Issues (GWSI) Series, UNESCO Publishing, Paris. https://digitallibrary.un.org/record/3807832
[2] UN-Water. October 2013. Water Security & the Global Water Agenda. A UN-Water Analytical Brief. United Nations University, Ontario, Canada. https://www.unwater.org/publications/un-water-annual-report-2013/
[3] Thanh Tâm. 18 tháng 6 năm 2020. “An ninh nguồn nước đang đứng trước nhiều nguy cơ.” Công Thương. https://congthuong.vn/an-ninh-nguon-nuoc-dang-dung-truoc-nhieu-nguy-co-159186.html
[4] Trọng Phú – Đức Minh. 15 tháng 6 năm 2020. ‘Anh ninh nguồn nước đang lệ thuộc nước ngoài’. Vietnambiz. https://vietnambiz.vn/an-ninh-nguon-nuoc-dang-le-thuoc-nuoc-ngoai-20200615221600919.htm
[5] Thùy Linh. 29 tháng 10 năm 2020. Báo động an ninh nguồn nước ở Việt Nam. Lao Động. https://laodong.vn/moi-truong/bao-dong-an-ninh-nguon-nuoc-o-viet-nam-849779.ldo
[6] Nguyễn Nhàn. 4 tháng 8 năm 2020. “An ninh nguồn nước – vấn đề sống còn.” Nông nghiệp Việt Nam. https://nongnghiep.vn/an-ninh-nguon-nuoc--van-de-song-con-d270083.html
[7] Kim Oanh. 16 tháng 6 năm 2021. “Hoàn thiện đề án đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia.” Môi trường Đô thị. https://www.moitruongvadothi.vn/tai-nguyen/nuoc/hoan-thien-de-an-dam-bao-an-ninh-tai-nguyen-nuoc-quoc-gia-a84010.html
https://mekong-cuulong.
Không có nhận xét nào