Gồm 2 phần
Peter Scholl-Latour sinh năm 1924 ở Bochum, Đức. Năm 1945/46 ông phục vụ trong Commando Parachutiste Ponchardie, một đơn vị nhảy dù của Pháp, đã tham chiến ở Đông Dương. Sau đó, ông học đại học và kết thúc với bằng tiến sĩ tại các trường Đại học Mainz ở Đức, Đại học Sorbonne ở Paris và Université Saint-Joseph tại Beirut. Ông là người thành lập (năm 1963) và là giám đốc studio ở Paris của đài truyền hình nhà nước Đức ARD (cho tới 1969), sau đó là sếp thông tín viên của đài truyền hình nhà nước Đức ZDF (cho tới 1983). Từ Paris, Scholl-Latour thường xuyên sang Việt Nam dưới tư cách là thông tín viên đặc biệt, từng bị Việt Cộng bắt tạm giam một tuần năm 1973. Ông sang Việt Nam thêm một lần nữa vào năm 1976, sang Campuchia năm 1980, Trung Quốc và Afghanistan năm 1981. Bắt đầu từ năm 1983, ông chuyển sang hoạt động trong giới truyền thông in, là tổng biên tập và nhà xuất bản tuần báo stern, và từ 1988 là tác giả tự do.
Cái chết trên ruộng lúa
Mưa rơi không ngưng từ sáng sớm. Tầm nhìn xuống sông Sài Gòn bị che phủ bởi một màn ẩm ướt hôi mốc. Chỉ có vài chiếc tàu chở hàng có tải trọng thấp và không được bảo trì tốt là đang đậu lại ở bến tàu, ở nơi mà chiếc tàu bệnh viện “Helgoland” đã kín đáo giương cao lá cờ Đức trong chiến tranh và tuyên bố tình đoàn kết với người Mỹ, một tình đoàn kết mà ngày càng trở nên dè dặt hơn trong diễn tiến của sự thay đổi ý kiến chung. Những ánh đèn ít ỏi đầu tiên được bật lên và phản chiếu trên nhựa đường ướt nước của Rue Catinat. Con đường mua sắm sang trọng của Sài Gòn có tên là như thế dưới thời của người Pháp, trước khi nó trở thành khu quán rượu và nhà chứa của người Mỹ dưới tên “đường Tự Do”. Bây giờ, nó được những người chiến thắng đỏ từ miền Bắc đổi tên thành “Đồng Khởi”, “lần nổi dậy của nhân dân”, và người miền Nam tự hỏi rằng không biết đó là lần nổi dậy nào của nhân dân.
Là khách Phương Tây, chúng tôi được nhà cầm quyền mới của cộng sản đưa vào khách sạn “Majestic”. Trú ngụ trong “Continental”, khách sạn đã phục vụ như trại đóng quân của các thông tín viên từ khắp nơi trên thế giới trong những năm dài của Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và thứ hai, bây giờ là cán bộ và quan chức cấp cao của Đảng từ Hà Nội. Hàng hiên của “Continental”, thời trước là nơi gặp gỡ, chợ tin tức và chợ tình yêu của giới nhà báo ồn ào, mới đây đã được che chắn trước giới công cộng bởi một lưới sắt mà ở sau đó, giới quan chức của chính quyền mới hưởng thụ những đặc quyền nhỏ bé của họ. Từ cửa sổ khách sạn của tôi trong “Majestic”, tầm nhìn lướt qua những cánh đầm lầy rừng đước bất tận mà con sông Sài Gòn lượn lờ qua đó như một con rắn vàng béo mập. Một chiếc tàu vận tải đầy lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam rời bến và đi về hướng Vũng Tàu. Phải mất một lúc lâu, cho tới khi những bộ quân phục màu xanh và những chiếc nón cối, cái mà các nhà cách mạng Việt Nam đã giữ lại như một di vật lỗi thời của thời thuộc địa, mới biến mất sau khúc quanh kế tiếp của dòng sông. Vào buổi chiều tối của ngày hôm đó, tôi còn chưa biết rằng mục tiêu của lần tăng cường lực lượng này là biên giới bị tranh cãi với Campuchia.
Màn đêm buông xuống với sự vội vã của miền nhiệt đới. Ở phía thượng lưu, bầu trời đã tách ra thành ánh hồng ban chiều cuối cùng. Giống như lửa đang bốc cháy, như trong những ngày cách đây không xa, khi quân đội của miền Bắc bao vây những người bảo vệ Sài Gòn cuối cùng ở Xuân Lộc, những người lính nhảy dù Công giáo dũng cảm, và chuẩn bị tiến hành nhát dao đâm kết liễu vào thủ đô của miền Nam. Đài tưởng niệm bằng bê tông của vị tướng lĩnh và người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo nổi bật trên bầu trời màu tím. Những người cộng sản đã không giật sập bức tượng khổng lồ thống trị cả cảng Sài Gòn này. Cả họ cũng tôn sùng hình ảnh đã trở thành huyền thoại của Trần Hưng Đạo, người đã tiêu diệt đạo quân Trung Quốc của hoàng đế Mông Cổ Hốt Tất Liệt trên sông Bạch Đằng ở Bắc Kỳ, biểu tượng của sự tự khẳng định của Việt Nam trước Trung Quốc. Thống chế Đạo trong giờ phút này là một vị anh hùng dân tộc rất hiện thời, khi mà ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, người ta bắt đẩu bí mật nói về cuộc xung đột không thể tránh khỏi với Bắc Kinh. “Khi mối nguy hiểm từ phía Nam được đẩy lui thì mối nguy hiểm gấp đôi đe dọa ở phương Bắc”, người nữ thông dịch viên của chúng tôi từ Hà Nội trích dẫn một tục ngữ Việt Nam cổ xưa và rồi thêm vào đấy: “Người Trung Quốc xấu bụng”, điều chắc phải có một ý nghĩa hết sức đáng sợ.
Cùng với đồng nghiệp của đội quay phim, chúng tôi đi dạo qua “đường Đồng Khởi”. Những chiếc xe gắn máy và Honda, những cái mà dưới thời chính quyền thân Mỹ trước đây đã thuộc vào trong số những đặc điểm của một xã hội tiêu thụ giả tạo, vẫn còn chưa biến mất khỏi giao thông. Có trời mới biết được sở hữu chủ của chúng kiếm ở đâu ra được xăng. Nhưng toàn bộ các quán rượu và hang động tội lỗi thì đều đã bị đóng cửa. Những người buôn bán đành cam chịu chuẩn bị cho lần quốc hữu hóa của cả tiểu thương. Xích lô vẫn đậu dọc theo vỉa hè như ngày xưa, thế nhưng họ đang hoài công chờ đợi khách. Trên đường phố, chúng tôi lại có thể tự do bàn về chương trình của ngày sắp đến và về những ấn tượng của chúng tôi. Trong phòng khách sạn, chúng tôi buộc phải dự đoán có máy nghe lén. Từ khi chúng tôi đến Sài Gòn, nỗi lo ngại bị theo dõi đè lên chúng tôi như một gánh nặng hiện hữu. Chúng tôi biết rằng mỗi một bước đi, mỗi một cử chỉ, mỗi một lời nói đều bị giám sát và có lẽ là tại các cơ quan an ninh, người ta chỉ chờ một lỗi lầm để can thiệp chống lại chúng tôi mà trong đó việc thu hồi giấy phép quay phim chỉ là cái tai hại nhỏ nhất. Qua ba mươi năm, người ta có được một bản năng cho những tình huống khủng hoảng thuộc loại này, và các nhân viên chính thức đi cùng với chúng tôi từ Hà Nội, những người mà chúng tôi đã kết thân trong thời gian vừa qua, về phía họ cũng đã đông cứng lại trong nghi ngờ và phản kháng.
Đường Tự Do năm 1961
Người ta hầu như chỉ còn nhìn thấy những gương mặt sợ hãi, cay đắng, nghiêm trọng trên đường phố Sài Gòn. Cái tên mới, Thành phố Hồ Chí Minh, không muốn thoát ra khỏi môi của chúng tôi, và ngay cả các quan chức đỏ dường như cũng e ngại không muốn liên kết cái tên của tấm gương cách mạng vĩ đại của họ với một thành phố mà người dân của nó đang tiếc nuối những tiện nghi và những thói xấu của quá khứ một cách rõ rệt đến như thế. Chợ đen vẫn còn sống động trong mùa hè năm 1976. Chợ trộm cắp đó vẫn còn tiếp tục chào mời – khiến những chiến binh nông dân đạm bạc từ phương bắc phải ngạc nhiên – hàng hóa phế thải từ PX, những thứ giống như hàng hóa từ một thế giới trong mơ đối với các người lính dưới ngôi sao đỏ đó. Ông thợ may ở chợ hoa mời chúng tôi đặt một bộ quần áo đầy đủ với giá rẻ đến buồn cười – trả bằng tiền US dollar xanh. Mỗi một người mua bán ở đây đều biết rằng họ đang hưởng một thời hạn khoan hồng. Mỗi buổi sáng họ đều phải dự tính đến việc bị nhanh chóng đưa lên xe tải với vật gia dụng và sở hữu tối thiểu, để tham gia xây dựng tương lai xã hội chủ nghĩa ở những miền đất hoang vu và rừng rậm của “vùng kinh tế mới”.
Trong những ngày đó, tôi không cố gặp lại những người quen cũ. Tôi chỉ làm hại và gây nguy hiểm cho họ mà thôi. Mặc dù vậy, khi tôi tình cờ gặp Cuc, viên trợ tá camera ngày xưa của chúng tôi, một người lai Campuchia, người nổi tiếng vì tính tình cứng cỏi của mình, ông ấy đã ôm chầm lấy tôi giữa nơi công cộng và thì thầm nói: “Giá như tôi bỏ chạy đi vào lúc đó, khi vẫn còn có thể.” Bây giờ, ông ấy được cho rằng đang lái những chiếc xe limousine Mỹ khổng lồ đó, những chiếc xe – sơn màu đỏ chói – mà vào thời tốt đẹp hơn đã được sử dụng cho lễ cưới. Những con quái vật sặc sỡ ấy bây giờ đứng xa lạ trong màn hơi nước của mùa mưa như những con khủng long từ một kỷ nguyên khác.
Bả chủ cửa tiệm cắt tóc cuối cùng vẫy tay chào tôi từ sau tấm kính bầy hàng mờ hơi nước của bà. Bà ấy biểu hiện lòng can đảm và tính cách con người theo lối của bà, bằng cách vẫn trang điểm cho mình và vẫn tiếp tục mặc quần áo thanh lịch, trong khi phái nữ còn lại của Thành phố Hồ Chí Minh dù muốn hay không vẫn phải cúi mình trước sự nghiêm khắc của những người bí thư mới. Chiếc áo dài cổ truyền, chiếc áo váy có nhiều màu như bươm bướm của người phụ nữ Việt Nam, vừa kín đáo và đồng thời lại vừa quyến rũ, đã biến mất khỏi quang cảnh đường phố. Giày cao gót bây giờ bị chê bai, và một chiếc váy ngắn màu đỏ, cái mà người ta bất chợt nhìn thấy lúc chạy ngang qua, trông giống như một sự khiêu khích phản cách mạng. Nhưng trong tiệm cắt tóc trên đường Catinat, bà chủ vẫn còn để cho các cô gái của mình mặc áo choàng ngắn màu trắng gọn gàng như thời trước, và ở đó cũng vẫn còn nói huyên thuyên và cười khúc khích dường như cũng vô tư như thế. Trong khi đó thì ai cũng biết rằng cho đến khi đóng cửa thì chỉ còn nhiều lắm là vài tuần nữa thôi, và bà chủ – bất thình lình trở trên nghiêm trang – nói về họ hàng ở Paris và về những cố gắng di cư sang Pháp của gia đình. “Ông không biết những kẻ hay lên mặt đạo đức đó tham nhũng đến mức nào đâu, những người được cho là nghiêm khắc về đạo đức từ miền Bắc đó. Phải có vàng mới có được giấy phép xuất ngoại”. Có lẽ là mỗi buổi sáng, ngay khi giờ giới nghiêm chấm dứt vào rạng đông, có một người trong gia đình của tiệm cắt tóc đứng trong cái hàng vô tận đó trước cổng của Tổng lãnh sự Pháp và hy vọng được cấp một thị thực tập thể. Phải có cả sự bất chấp lẫn sự tuyệt vọng ở trong đó, vì mỗi một người nộp đơn đều bị các cơ quan an ninh và chỉ điểm ghi nhận.
Ngày hôm trước, tôi phát hiện một người bất thường trong tiệm cắt tóc, người đã gây nhiều ấn tượng cho tôi, mặc dù trong những tình huống khác có lẽ tôi đã đi ngang qua người đó nhiều lắm là với một cái nhún vai. Đó là một người Việt vào khoảng hai mươi lăm tuổi, người mà vào thời Tướng Thiệu người ta gọi là “cao bồi” với giọng nói pha ít tính bài Mỹ. Anh ta mặc chiếc quần jean chật nhất Sài Gòn, giày ủng Texas, một cái áo sặc sỡ, mở tung ra cho đến tận lưng quần và để hở trên ngực nhiều sợi dây chuyền và trang sức bằng vàng. Mái tóc của anh ta gây sự chú ý trước hết. Những lọn tóc đen dài xuống cho tới vai, và bây giờ anh ta – ngồi uể oải trên một chiếc ghế cắt tóc – đang để cho làm móng tay. Anh chàng cao bồi cuối cùng này, người chưng diện giống như một biếm họa cho một tên ma cô người Việt, có biến mất trong một trại cải tạo ngay vào ngày hôm sau hay không? Anh ta có bị an ninh đỏ sử dụng như là “điệp viên khiêu khích” hay không? Hay anh ta chỉ biểu thị lòng dũng cảm trước sự kết thúc theo cách của mình? Tôi nhớ đến một tù nhân người Pháp của trại tập trung [Đức Quốc Xã] trước đây, người có lần đã nói với tôi: “Trong trại có hai nhóm tù nhân mà không ai có thể có can đảm nhiều hơn, một hạng quý tộc nhất định và giới ma cô.”
(Còn tiếp)
Phan Ba trích dịch từ “Cái chết trên ruộng lúa – Ba mươi năm chiến tranh Đông Dương”
https://phanba.wordpress.com/2014/10/13/noi-buon-tren-sai-gon-phan-1/
Không có nhận xét nào