Doanh nghiệp Việt ngấm đòn COVID-19: sức chống chọi vơi dần |
Thực tế cho thấy sau một năm đối mặt dịch bệnh, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tuyên bố phá sản hay ngừng hoạt động.
Hôm
26/2, báo trong nước loan tin nhà máy có 14.000 công nhân thuộc Công
ty TNHH May Tinh Lợi tại khu công nghiệp Lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh
Hải Dương, loan báo tạm ngưng hoạt động từ ngày 24/2 vì dịch COVID-19.
RFA
đã nối đường dây viễn liên về cơ sở kinh doanh này nhưng không có người
bắt máy. Một cư dân địa phương giấu tên, xác nhận với đài chuyện đóng
cửa là có thật.
Không phải đợi đến giờ mà ngay từ đầu, tức từ
tháng 2/2020, nhiều công ty và doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu thấm đòn
COVID-19 mà đầu tiên và ngay tức thời là các công ty du lịch. Đây là xác
nhận của Giáo sư Tiến Sĩ Phạm Trung Lương, nguyên Phó viện trưởng Viện
Nghiên Cứu Du Lịch, Tổng Cục Du Lịch Việt Nam:
“Du lịch là một
trong những ngành chịu tác động mạnh mẽ nhất từ dịch COVID. Những doanh
nghiệp mạnh còn có thể trụ được một chút như VietTravel hay Saigon
Tourism…dưới hình thức là giảm nhân viên đi, còn những doanh nghiệp nhỏ
thì hầu như phá sản hoặc phải chuyển đổi hết”
“Tóm lại là rất khó
khăn, lượng khách quốc tế giảm gần 90%, tháng đầu của 2020 vẫn còn
khách quốc tế, nhưng từ cuối tháng 2 qua tháng 3/2020 hầu như giảm rất
nhiều và đến tháng Tư thì không còn khách quốc tế nữa. Bước vào đầu năm
nay thì không còn khách quốc tế nào cả. Không chỉ các doanh nghiệp du
lịch bị ảnh hưởng mà các thành phần xã hội tham gia vào ngành du lịch
cũng bị ảnh hưởng. Thí dụ tiểu thương, nhà hàng, vận chuyển khách. Hàng
không mà không có khách thì cũng chết thôi, ngay như tắc xi ở thành phố
lớn mà không có khách thì đâu có việc làm”.
Tình thế kéo dài như vậy nên câu hỏi bức thiết là Chính phủ có thể làm gì để có chính sách hỗ trợ phù hợp cho doanh nghiệp:
“Ngành
du lịch quan trọng ở chỗ là nó kéo theo việc làm cho xã hội. Nhà nước
hỗ trợ bằng cách doanh nghiệp còn nợ ngân hàng thì cho giãn nợ, giãn
thuế. Nhà Nước cũng phải có cái nhìn nhận ưu tiên cho các doanh nghiệp
du lịch để nó phục hồi lại hoặc ít nhất là họ đỡ bị phá sản. Hỗ trợ để
ngành du lịch phục hồi sớm thì nó kéo theo các ngành khác. Đó là điều
Nhà Nước cần nhìn nhận cho nó chuẩn xác”.
Nhiều doanh nghiệp khác
ở những ngành khác cũng đang lún sâu thêm vào khó khăn. Ông Nguyễn Xuân
Dương, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng Công ty May Hưng Yên cho biết
hiện một số doanh nghiệp thuộc Tổng công ty đã bắt đầu thiếu nguyên
liệu, dẫn đến tình trạng gọi là “nhỡ hàng" giữa tháng 3/2021 này.
Nguyên
nhân “nhỡ hàng” đến từ việc thiếu từ 50 đến 60% nguyên, phụ liệu được
nhập khẩu từ Trung Quốc. Không có nguyên liệu đầu vào thì hoạt động sản
xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp coi như ngưng trệ.
Chuyện
thiếu hụt nguyên vật liệu nhập của Trung Quốc thì đã rõ, rồi lại tiếp
tục trong thời điểm COVID-19 khiến nhiều doanh nghiệp may mặc ở Việt Nam
cứ loay hoay và càng bị rơi sâu vào suy trầm, là khẳng định của ông
Nguyễn Thành Sang, nguyên Tổng giám đốc công ty dệt may Phước Thịnh:
“Dịch
bệnh kéo dài từ đầu 2020 tới 2021 này khiến ngành dệt may diễn biến
phức tạp, giá cả nguyên liệu không biết bao giờ dừng trở lạị. Mỗi ngày
mỗi giá, nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa mà nguyên liệu hiện nay thì
không biết ở đâu để có một cái kênh chính thống. Bây giờ có tiền chưa
chắc đã mua nguyên liệu được”.
COVID-19 làm thay đổi, làm tê liệt
nhiều ngành, riêng ngành dệt may thì những ngày tới sẽ rất lao đao, ông
Nguyễn Thành Sang nói tiếp:
“Nhiều nhà máy đóng cửa, một số chưa
phục hồi trở lại. Việt Nam giỏi chống dịch hay mấy cũng chỉ nằm trong
khuôn khổ Việt Nam để an toàn thôi chứ còn về kinh tế và phát triển thì
cũng bị ảnh hưởng chung với cả thế giới.”
Ông Nguyễn Thành Sang
cho biết ông đồng cảm với điều ông Nguyễn Xuân Dương rằng khó nhất của
các doanh nghiệp bây giờ là dù tạm ngưng sản xuất, tạm cho lao động nghỉ
hay giãn việc thì vẫn phải trả lương để giữ chân người lao động. Mức
lương bình quân trong trường hợp này bằng tiền lương tối thiểu hơn 4
triệu đồng/người/tháng.
Đây là áp lực tài chính vô cùng lớn đối
với các doanh nghiệp, là lời ông Nguyễn Xuân Dương công ty may mặc Hưng
Yên cũng như ông Nguyễn Thành Sang công ty dệt may Phước Thịnh:
“Riêng
đối với ngành dệt may thì mình mạnh ở chỗ gia công chứ mình đâu có làm
chủ nguyên liệu cũng như thiết bị. Nói đến ngành dệt may thì tôi xin
thưa rằng Nhà nước phải bảo vệ ở góc độ người lao động, quan trọng nhất
là công ăn việc làm và đời sống của người lao động”.
Trong khi
đó, theo chuyên gia ngành May Mặc & Da Giày, ông Diệp Thành Kiệt,
doanh nghiệp Việt Nam thấm đòn COVID-19 là chuyện không thể tránh, nhưng
nếu nhìn rộng ra thì có hai góc độ trong một vấn đề:
“Có nghĩa
qua COVID này thì có những doanh nghiệp vẫn duy trì được hoạt động tương
đương với năm 2019, ngược lại có một số doanh nghiệp đang trên bờ vực
phá sản hay đóng cửa. Các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn duy trì được sự
phát triễn hay phải đến bờ vực phá sản thì nó tùy thuộc vào thị trường
của một nhãn hiệu nào đó, tùy thuộc vào nhãn hiệu đó đang đặt hàng ở
đâu. Có những nhãn hiệu họ đặt hàng ở Bangladesh có, ở Việt Nam có, ở
Myanmar có, thí dụ như vậy. Bây giờ với thị trường Bangladesh bị tác
động bởi dịch nên họ muốn rút khỏi Bangladesh, hoặc là với tình hình bên
Myanmar thì rõ ràng họ phải rút toàn bộ đơn đặt hàng khỏi Myanmar.
Trong trường hợp này những doanh nghiệp nào đang làm với những thương
hiệu như vậy lại có cơ may, tức người ta sẽ đưa đơn đặt hàng từ những
nước đang có vấn đề đó về cho Việt Nam. Mặc dù mức tiêu thụ trên toàn
cầu giảm đi nhưng bản thân doanh nghiệp đó do đang ở Việt Nam với đợt
dịch thứ ba đã được kiểm soát, và doanh nghiệp nào làm với những thương
hiệu đó sẽ có cơ hội duy trì, thậm chí phát triển được năng lực sản
xuất”.
Ngược lại, vẫn lời ông Diệp Thành Kiệt, đối với những
doanh nghiệp nào hoạt động thông qua trung gian thì thách thức lúc này
quả là rất lớn.
Yếu tố thứ hai quan trọng không kém là nội lực, là sức chịu đụng của chính doanh nghiệp trong bối cảnh COVID-19:
“Thể
hiện rõ nhất là khả năng chịu đựng về mặt tài chính. Không có tiền để
duy trì bộ máy, không có tiền mua nguyên liệu dự trữ cho sản xuất thì
doanh nghiệp sẽ khó khăn, sẽ đóng cửa”.
Được hỏi về biện pháp hỗ trợ khả dĩ từ chính phủ đối với những doanh nghiệp gặp khó khăn, chuyên gia Diệp Thành Kiệt cho biết:
“Tôi
mới nhận thông tin hôm nay có cuộc họp và Thủ tướng Chính phủ cũng gợi ý
về gói cứu trợ thứ hai cho các doanh nghiệp. Tôi cho rằng đường đi này
của chính phủ là hợp lý. Tuy nhiên phải hiểu gói cứu trợ nếu có thì nên
dành chủ yếu cho người lao động, bởi lao động là những người bị ảnh
hưởng trực tiếp”
“Còn với doanh nghiệp, có quan điểm cho rằng
doanh nghiệp nào sắp chết thì cứu, nhưng cũng có quan điểm hãy cứu những
doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi nhưng lại thiếu tài chính. Hỗ trợ
cho những doanh nghiệp đó phát triển lên thì người lao động có việc làm,
chính phủ thu được thuế, từ đó lấy ra mà cứu những doanh nghiệp khác.
Tôi nghĩ chính phủ sẽ chọn một giải pháp dung hòa”.
Theo số liệu
từ Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, minh họa qua biểu đồ được báo chí đăng
tải lại, con số doanh nghiệp thành lập mới lần đầu tiên giảm trong giai
đoạn 2016-2020.
Cụ thể, cả nước có 134.941 doanh nghiệp thành lập
mới năm 2020, giảm 2,3% so với năm 2019. Song song với đó, 101.719
doanh nghiệp rút khỏi thị trường là số tăng đáng kể 13,9% so với năm
trước, trong đó 46.592 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời
hạn, tăng 62,2% so với cùng kỳ năm 2019.
Ông Nguyễn Bích Lâm,
nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Đặc biệt, cho rằng Chính phủ
cần thực hiện đúng thời điểm và đúng lúc các chính sách, giải pháp hỗ
trợ. Bởi vì nếu thực hiện muộn thì chính sách vẫn là chính sách nhưng sẽ
không còn tác dụng, vị chuyên gia này nhấn mạnh.
https://www.rfa.org/
Không có nhận xét nào