Khi trên tàu đã vắng người, khi tiếng súng đã thưa và khi tại tuyến phòng thủ mới đã có thể bắn cầm chừng, tôi và mấy xạ thủ trên tàu mới nhảy xuống sàn tàu, lại một cảnh chết chóc nữa đập vào mắt tôi. Những người bị dẫm nát không còn hình thù của một con người, thịt da nhầy nhụa.
Những người bị dồn ép ngộp thở mà chết trông khá nhất, họ nằm chết trông như ngủ.
Những người bị đạn bắn chết nằm gục ngang gục ngửa, có người bị trúng đạn ở đầu, có kẻ trúng mặt, người trúng ngực, kẻ trúng bụng.
Họ trúng đạn đủ chỗ và nằm chết đủ kiểụ
Những người bị thương đang quằn quại, rên la.
Có người ngồi gục đầu xuống, máu từ ngực phụt ra có vòi như vòi nước.
Chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện mang những người bị thương vào bờ. Nằm trên tàu hay khiêng vào bờ nào có khác gì nhaụ Có biết đến bao nhiêu người bị thương, làm sao mà lo cho xuể trong khi chính những người còn khỏe mạnh lo cho nhau, lo cho mạng sống của mình còn chưa xong. Tôi thấy trung úy Chức tiểu đoàn 2 Pháo binh bị thương không biết nặng nhẹ, máu ướt đẫm áo quần, nằm thoi thóp.
Tôi ngạc nhiên khi thấy cô gái Huế học Văn Khoa đang ngồi vái trời vái Phật, miệng ngoác ra mà khóc. Không hiểu tại sao cô nàng lại ở trên tàụ Ðúng ra cô ta đã phải ở trên chiếc tàu cùng với Lữ đoàn trưởng và Lữ đoàn phó của tôi, đang lênh đênh ở ngoài khơi kia.
Nhưng tôi cũng chẳng có thời giờ đâu mà thắc mắc. Tôi nói lớn với cô ta:
– Thôi chứ cô nàng, không lo mà vô bờ đi, còn bày đặt mà ngồi đó vái cái thành tàụ
Bưởi nói với tôi:
– Con nhỏ này là Việt Cộng đó ông thày, nó ngồi trên tàu làm bộ khóc, làm bộ vái trời, chứ thật ra là chỉ điểm cho Việt Cộng. Ông nhớ không, hồi tối ở tuyến nó cũng khóc rùm trời.
Tôi phì cười:
– Bộ mày tưởng nó ngồi đó làm hiệu rồi Việt Cộng tránh không bắn nó, hay mày tưởng đạn của Việt Cộng biết nó cùng một phe nên né nó.
– Chứ sao nó ngồi trên đó mà không trúng đạn?
Tôi không thể trả lời và cũng không thể giải thích như thế nàọ Mọi câu trả lời nếu được thỏa đáng đều phải vịn vào một đấng vô hình.
Tôi vào bờ cát. Tiếng súng đã im.
Trời đã về chiều, hình như là ba hay bốn giờ gì đó.
Chúng tôi đứng một hàng dọc dọc theo bờ cát.
Mặt trời chiều chiếu thẳng vào mặt.
Sóng vỗ nhè nhẹ sau lưng.
Tôi nhìn quanh cố tìm những khuôn mặt quen thuộc trong đại đội, chẳng có bao nhiêu, chừng năm, bảy mạng gì đó. Ðâu rồi đại đội trưởng, đâu rồi Huy mập, đâu rồi Ngô Dzu, đâu rồi Khải máy, Phước râu, đâu rồi Ðăng…. đâu rồi tụi bay?
Lòng tôi chùng xuống, nước mắt trào ra. Bao nhiêu gian lao, bao nhiêu khổ ải từ bao nhiêu năm nay không sao, không lẽ lại rủ nhau cùng chết một cách đau thương tức tưởi và lãng nhách ở đây hay saỏ
Thiếu tá Thành từ phía đầu kia của tuyến đi lại:
– Ông Huy, súng đạn của mình hiện giờ ra sao rồỉ
– Không bao nhiêu hết, thiếu tá. Tôi đang cho người đi nhặt súng đem xuống rửa dưới biển.
Vừa lúc, một chiếc GMC từ phía nam đi trờ tới, thiếu tá Thành chận xe lại và nói với tôi:
– Huy ở đây chỉ huy tuyến nàỵ Tôi đi kiếm thêm súng đạn.
Chiếc GMC tiếp tục chạy lên hướng bắc, trên xe chỉ có thiếu tá Thành và người tài xế.
Tôi đi một vòng dọc tuyến, thấy mấy người lính tiểu đoàn 2 Pháo binh, tôi nói với họ:
– Tụi bay lên tàu khiêng trung úy Chức xuống.
Ðiều này gợi tôi quyết định lập một toán khỏe mạnh lên tàu khiêng những người bị thương xuống. Nhưng dĩ nhiên cũng chỉ khiêng những ai là Thủy Quân Lục Chiến, còn những người thuộc các binh chủng khác thôi thì kệ họ.
Tôi cũng cho người lên tàu kiếm đạn và đồng thời tìm cách chuyển nước ngọt xuống tiếp tế cho mọi người.
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy những người lính này, không phải là tất cả nhưng cũng không phải là ít, lúc nãy khi còn ở trên tàu, họ hung hăng dữ tợn bao nhiêu thì bây giờ họ lại hiền lành ngoan ngoãn bấy nhiêụ Tuyến phòng thủ cấp thời này được tập hợp bằng những người lính của khá nhiều đơn vị khác nhau của Thủy Quân Lục Chiến, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5, tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 2 Pháo binh, lính Vận Tải, Truyền Tin, lính Quân Y, Viễn Thám… Tôi không phải là cấp chỉ huy trực tiếp của họ, lúc nãy họ có thể hứng chí tặng tôi một viên vào đầu sau những tiếng đếm đụ mẹ một, đụ mẹ hai, đụ mẹ ba. Nhưng bây giờ họ tuân lệnh tôi một cách tuyệt đối.
Kỷ luật quả thật là một yếu tố căn bản để tạo thành sức mạnh của quân đội. Khi đã mất chỉ huy, khi mọi thằng đã bằng nhau thì thằng nào mạnh, thằng nào có súng thằng ấy nắm quyền sinh sát. Khi tình trạng bằng nhau đã hết, tình trạng hỗn quân hỗn quan đã hết, khi sự chỉ huy được tái lập, mọi người lại răm rắp đâu vào đấỵ
Bây giờ đến lượt chính tôi kê súng vào đầu một người lính, tay này to cao như một thằng Mỹ, cởi trần trùng trục, xâm đầy hình và chữ trên tay, trên lưng, trên ngực, tay khư khư ôm một khẩu M-79, đã không dám đứng dậy để chiến đấu, mà lại cũng không chịu giao súng cho ai. Tôi nói:
– Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, mày không đứng dậy hoặc không đưa súng cho tao, đụ mẹ, tao bắn.
– Súng của em mà trung úy.
– Ðụ mẹ, một.
– Em mệt quá rồi trung úy, trung úy cho em ngồi nghỉ mệt chút rồi em đứng dậy, trung úy.
– Ðụ mẹ, hai.
– Trời ơi, ông giết em thật sao trung úy?
– Ðụ mẹ, ba.
Tiếng ba chưa dứt, tên lính vội vàng đưa khẩu súng M-79 bằng cả hai tay cho tôi, miệng lắp bắp:
– Súng đây trung úy, súng đây trung úy.
Tôi lấy khẩu súng giao cho một người lính đứng cạnh đó.
Tôi không cố tâm bắn chết người lính này, nhưng nếu anh chàng không giao súng cho tôi hoặc không đứng dậy để chiến đấu, thôi thì cũng đành vậỵ May cho anh chàng và cũng may cả cho tôi!
Không có bóng dáng một người lính Bộ Binh nào trong tuyến nàỵ Khi xuống tàu thì tranh giành cũng ra gì lắm, nhưng khi cần phải cầm súng đánh nhau với Việt Cộng thì chỉ còn chúng tôi. Phải chăng họ hận chúng tôi vì chuyện vừa xảy ra trên tàu hay vì chúng tôi là những thằng được khoán trắng cho việc đánh trận. Trừ một số người tuy không bị thương nhưng vẫn nhất định nằm lì lại trên tàu -không hiểu họ còn hy vọng gì nơi cái tàu đã nằm hơn nửa thân trên cát- những người còn lại không biết đã chạy biến đi đâu mất.
Sự vắng mặt của những người lính Bộ Binh đã làm nhiều người lính Thủy Quân Lục Chiến càng thêm tin là quả đạn bắn vào đài chỉ huy chiếc tàu lúc nãy là do những người lính của Sư đoàn 1. Những lời bàn tán và đồn đãi:
– Bọn Sư đoàn 1 bị bắn và bị đuổi xuống tàu đã lấy đại bác 57 ly không giựt bắn vào tàụ Không được ăn thì đạp đổ!
Tôi không tin điều này, vì những người lính Bộ Binh làm gì còn súng 57 ly trong lúc nàỵ Nhưng những lời đồn và bàn tán mỗi lúc một nhiều cũng khiến tôi bắt đầu nghi ngờ sự suy đoán của mình.
Người tài xế chiếc xe GMC chở thiếu tá Thành đi kiếm đạn lúc nãy hớt hơ hớt hãi chạy bộ về. Anh ta báo cáo với tôi:
– Thiếu tá bị bắt rồi trung úy.
– Tại sao mày lại về được đây?
– Em chở thiếu tá đi lên cách đây chừng hai cây số, bị Việt Cộng chận lại. Em khai là binh nhì, thiếu tá ổng khai là hạ sĩ. Tụi nó tịch thu xe rồi nói em thay đồ dân sự về Huế mà sống, hình như tụi nó biết thiếu tá là sĩ quan nên bắt đi theọ Em lừa lừa rồi trốn về đâỵ
Niềm hy vọng kiếm thêm được súng đạn đã tiêu tan, cấp chỉ huy của tôi đã bị bắt. Súng đạn đi mót nhặt tại chỗ dù đã rỉ sét vẫn không đủ cung cấp cho chúng tôi trong khi chúng tôi vẫn bắt buộc phải bắn cầm chừng để giữ chân Việt Cộng. Sau một hồi bàn bạc với các sĩ quan khác, tôi quyết định bỏ cái tuyến này, rời xa chiếc tàu mắc cạn, kéo nhau vào tuyến của Lữ đoàn còn đang chiến đấu ở phía nam, nơi mà chúng tôi đã tách ra hồi sáng để kéo nhau xuống tàụ
Khi về gần đến tuyến của Lữ đoàn, chúng tôi bị một loạt đạn đại liên từ chiếc M-M-113 đậu ngang tuyến của tiểu đoàn 5 bắn xẹt trên đầu chúng tôi.
Mấy người lính tiểu đoàn 5 đứng trên chiếc thiết vận xa khoát khoát tay ra hiệu không cho chúng tôi vào tuyến.
Chúng tôi giơ hai tay lên đầu giống như những kẻ đầu hàng để chứng tỏ chúng tôi không còn khả năng chiến đấu. Vừa giơ tay chúng tôi vừa tiếp tục đi tới. Lần này khẩu đại liên trên chiếc M-113 nhắm thẳng chân của những người đi đầu của chúng tôi mà bắn, đồng thời chúng tôi còn lãnh thêm mấy quả đạn M-79. Bốn, năm người bị thương ngã lăn ra cát.
Từ sáng đến giờ, thời gian chưa đầy mười tiếng đồng hồ, chúng tôi đã trải qua không biết bao nhiêu nỗi kinh hoàng. Bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu hy vọng đã tiêu tan. Bây giờ trở về để nương nhờ những người bạn, những đồng đội trong cùng binh chủng. Nhưng cánh cửa đã khép chặt, chúng tôi bị xua đuổi bằng những tràng đại liên, bằng những viên đạn M-79. Thiếu tá Tiền tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 mới hôm qua hôm kia đây còn nói với Huy mập “Thầy trò mày rán làm cho tao cú nữa, đây là trận đầu của tao ở bên này”, trong khi thầy trò Huy mập đã tanh banh hết. Vậy mà bây giờ, chính lính của ông đĩ nhiên họ làm theo lệnh- vác đại liên, vác M-79 ra bắn xua đuổi chúng tôi.
Chúng tôi tấp vào bờ cát, cách tuyến của tiểu đoàn 5 chừng bốn, năm chục thước.
Ngồi đây, ngoài tuyến hay vào trong kia -trong tuyến- thực sự đối với tôi chẳng khác gì nhaụ Ðạn Việt Cộng không chừa một chỗ nào và cũng không chừa một ai. Trong tuyến mới đúng là nơi thu hút hỏa lực của địch, còn chúng tôi nằm ngoài, cảm thấy không an tâm chỉ là tâm lý, không an tâm vì mình đã mất khả năng tự vệ và bị từ chối sự bảo vệ của những người mình trông đợi.
Mấy người bị bắn ngã đã được đưa vào tuyến.
Lính tráng thắc mắc tại sao họ không được cho vào tuyến. Trung sĩ nhất Ðăng thường vụ đại đội hỏi tôi:
– Ông thầy, mình cũng là Thủy Quân Lục Chiến chứ đâu phải là Bộ Binh, tại sao họ không cho mình vào tuyến?
– Tiểu đoàn mình tan hàng rồi, mình vào tuyến bây giờ sẽ ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của những thằng đang đánh nhau trong đó.
– Ảnh hưởng mẹ gì, ông thầy, mình vô tuyến rồi kiếm chỗ nằm tránh đạn ở mút đàng sau này chứ mình đâu có lên đàng trước đâu mà làm mất tinh thần của tụi nó.
– Mày nên nhớ là họ chỉ cần nghe tin là tàu không bốc được tụi mình, tinh thần của họ đã bị nhụt hẳn đi rồi, cần gì phải đợi mình kể lại. Mà mày không thấy nằm đây mình không bị đạn bắn tới, đâu cần phải tìm chỗ tránh đạn ở trong tuyến nữa.
Tôi chưa nói dứt câu, nhiều loạt đạn nhắm thẳng chúng tôi bay tới. Việt Cộng đã về đến chỗ tàu mắc cạn. Thầy trò cha con chúng tôi ùa chạy vào tuyến, đạn Việt Cộng bắn vãi sau lưng.
Những người lính tiểu đoàn 5 trên M-113 thản nhiên ngồi chờ cho đến khi chúng tôi vào hết trong tuyến mới bắt đầu bắn trả về phía tàu mắc cạn.
Tuyến phòng thủ của Lữ đoàn từ chiều hôm qua chỉ bị tấn công một mặt từ hướng tây, nơi tiểu đoàn 7 bàn giao tuyến lại của tiểu đoàn 4 tôi. Bây giờ bị thêm một mặt tấn công mới từ hướng bắc.
Xạ trường bằng phẳng, những loại súng bắn thẳng không bị cản trở bởi bất cứ một chướng ngại nàọ Những người lính trên M-113 đã rời xe, xuống những hố cá nhân đào quanh đấỵ
Chúng tôi, những thằng hết khả năng tác chiến, moi vội những cái hố ở phía sau những cái gọ của dân nằm úp đáy trên mặt cát.
Tiếng súng nhỏ nổ đì đoành trên tàu mắc cạn. Hình như Việt Cộng đang bắn những người còn nằm lại trên tàụ
Ðây là lần thứ hai tôi được xem, một cách rất bàng quan, những người lính Thủy Quân Lục Chiến đánh trận. Lần đầu vào ngày 27 tháng Giêng năm 73, buổi chiều cuối cùng trước giờ ngưng bắn có hiệu lực tại Cửa Việt. Tiểu đoàn 4 tôi được tăng cường hai đại đội của tiểu đoàn 2 và một đơn vị Thiết Giáp -tôi không rõ cấp đơn vị- lập thành lực lượng đặc nhiệm Tango do chính đại tá tư lệnh phó làm tư lệnh lực lượng. Lực lượng chúng tôi có nhiệm vụ bằng mọi giá cắm cờ ở Cửa Việt trước 8 giờ sáng ngày 28 tháng Giêng. Trung đoàn Việt Cộng 48 phòng thủ.
Từ chạm tuyến lên đến mục tiêu khá xa, có đến mấy cây số nên từng nấc dọc đường được chia thành nhiều mục tiêu phụ, chúng tôi từng đại đội một chia nhau chiếm từng mục tiêụ Ðiểm xuất phát của đại đội tôi là mục tiêu mà một đại đội của tiểu đoàn 2 đánh chiếm. Ðại đội tôi di chuyển một cách thoải mái từ phía dưới lên. Ðại đội trưởng tôi lúc đó là trung úy Tước Đương Tấn Tước- gọi tôi lại gần và chỉ:
– Ông có thấy chiếc M-48 đang cháy kia không?
– Thấy, Sao Mai.
– Rồi, ông dắt con cái vô đó.
Một cái lệnh hành quân rất nhẹ nhàng và dễ dàng. Nhưng thực sự, nói vậy mà đâu phải vậy, M-48 mà cháy thì mục tiêu đâu phải là nhẹ ký. Tôi vào đến nơi được xem những người lính của tiểu đoàn 2 đang chiếm mục tiêụ Những người lính của tiểu đoàn 2 này không hổ danh với chính cái tên mà Việt Cộng đã đặt cho họ, tiểu đoàn Trâu Ðiên. Họ xung phong, họ xông xáo vào tuyến phòng thủ của Việt Cộng như vào chỗ không người. Có chết chóc đấy, có bị thương đấy nhưng Việt Cộng không thể nào cản được bước chân của họ. Có một trung đội quá hăng máu, tiến quá nhanh, vượt qua khỏi mục tiêu tiến quá sâu vào phần đất dầy đặc Việt Cộng, nên đã bị bao vây, không hầm hố, không mô cát để ẩn nấp, họ trở thành điểm tập trung tác xạ của không biết bao nhiêu tay súng Việt Cộng.
Trung đội Trâu Ðiên này vẫn tả xung hữu đột, vẫn bình tĩnh chiến đấu như đang thực tập một bài chiến thuật trong quân trường.
Khi đại đội tôi lên và giải vây cho họ xong, một người lính nhìn tôi cười nói:
– Ðụ mẹ, đánh giặc đã quá, ông thầy!
Lần này là lần thứ hai, tôi nằm sau một cái gọ lật úp làm nơi ẩn nấp, quan sát những người lính của tiểu đoàn 5 chiến đấu. Lần này, cái hăng say, cái nhuệ khí của thế tấn công không có, chúng tôi đang ở cái thế bị bao vây, lương thực chúng tôi hết cạn, đạn dược chúng tôi hết gần sạch banh, đường về chúng tôi không có. Chúng tôi đang ở trong cái thế bi thảm nhất cả về tinh thần lẫn phương tiện chiến đấu. Vậy mà những người lính của tiểu đoàn 5, mấy con “đỉa đói” này vẫn vừa đánh giặc vừa cười đùa. Có hai người lính đầu không mũ sắt, mình không áo giáp, chân không giày, một người ôm nòng khẩu súng cối 60 ly được bọc bằng mấy cái áo giáp cho khỏi nóng, một người cầm mũ sắt làm bàn tiếp hậu, tay cầm quả đạn, cứ thế họ đặt súng chỗ này bắn một hai quả, đặt súng chỗ khác bắn một hai quả. Vừa bắn vừa cười nói bô bô. Một viên đạn bất ngờ ghim sâu vào ngực người lính cầm mũ sắt, quả đạn bên tay phải rơi phịch xuống cát, mũ sắt bên tay trái văng ra xa. Một người lính khác tay cầm mũ sắt, chạy tới nhặt quả đạn tiếp tục bắn. Người lính ôm nòng súng nhìn người bạn vừa ngã chết, miệng cười tươi như không có gì xảy ra:
– Ðụ má, chết sớm dzậy mày?
Người xạ thủ thứ hai rướn người lên rồi ngã xuống vì viên đạn trúng vào bụng.
Người thứ ba cầm mũ sắt chạy ra. Vừa ra đến nơi chưa kịp bắn viên nào thì cả xạ thủ lẫn người ôm nòng súng ngã vật ra chết.
Nòng khẩu súng cối 60 ly nằm chúi họng xuống cát. Tôi ngồi xem hào hứng đến độ quên luôn rằng cái gọ đang làm vật che đạn cho tôi cũng trúng khá nhiều đạn, trong khi cái đầu tôi mỗi lúc một rướn cao lên để xem cho rõ.
Nắng tắt dần, gió biển mỗi lúc một lạnh hơn.
Tôi thấy gai gai người, mới sực để ý mình đã cởi áo từ lúc nào và cũng không thể nghĩ được là tại sao mình đã cởi áọ
Bưởi xuất hiện đột ngột, từ bên hông một cái gọ nào đó chạy tới.
Trên người mặc có mỗi cái quần lót và cái áo giáp.
Gặp Bưởi lúc này còn hơn bắt được vàng. Bưởi ôm chầm lấy tôi:
– Ông thầy, em kiếm ông thầy quá trời.
– Mày ở đâu chạy tới đây?
– Em đi kiếm ông thầy quá trời. Ai moi cho ông thầy cái lỗ này?
– Tao moi mình ên.
Bưởi cười cười:
– Hèn chi.
Tôi cũng cười cười:
– Hèn chi gì mày?
– Ông thầy qua chỗ em đi. Em đào sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu lỡ có chết chỉ việc lấp cát là êm. Ông thầy nằm kiểu này nếu chết đúng là cái lỗ không đủ chôn.
– Ðụ mẹ, trù ẻo màỵ
– Thiệt mà. Mà bây giờ về em phải đào cho rộng thêm.
– Sao vậy?
– Hồi nãy đi kiếm ông thầy, em gặp một cái “lỗ”. Em mang “con lỗ” về nằm chung. Ấm lắm ông thầy ơi.
Tôi cười cười, gian ý:
– Coi được không mày?
– Trời ơi, số một mà ông thầỵ Mà thời buổi này ông còn bày đặt kén nữa hả?
– Ðâu có kén, mà đều cũng phải đỡ đỡ một chút chứ hôi rùm ai mà chịu nổi.
– Ðâu có hôi, ông thầy, con nhỏ cũng mới tắm biển lên mà.
Hai thầy trò tôi nháy mắt nhìn nhau cười.
Bưởi cởi áo giáp đưa cho tôi:
– Ông thầy mặc đi rồi mình dzọt.
Tôi ngần ngừ:
– Thôi mày mặc đi.
Bưởi nhất định không chịu:
– Ông không thấy đạn bắn quá trời saỏ Ông chạy đâu có lẹ bằng tôi.
– Mày tưởng chạy lẹ là không ăn đạn à?
– Mà bộ ông không thấy lạnh hả? Người ông nổi gai ốc cùng mình kìa.
Quả thật, gió biển mỗi lúc một mạnh hơn, tôi đã rùng mình nổi da gà sau mỗi lần gió thổi, hai hàm răng tôi đã bắt đầu đập vào nhaụ Người tôi đã run lên vì lạnh. Hết phương từ chối, tôi mặc áo giáp vào rồi băng mình chạy theo Bưởi.
Chúng tôi chạy từng quãng ngắn từ cái gọ này sang cái gọ khác.
Ðến cái gọ cuối cùng trước khi đến chỗ Bưởi nằm, tôi gặp Khải máy và Phước râu.
Tôi la lên vì mừng:
– Ðụ mẹ, cả hai thằng mày còn sống hả?
Khải máy có cái tên rất lịch sử -Trần Quang Khải- ôm chầm lấy tôi:
– Ba thằng tụi em chia nhau đi kiếm ông thầỵ Em với thằng Phước râu mới về tới đâỵ
Phước râu bây giờ mới lên tiếng:
– Tui thấy trung úy Gắt ngồi đằng kia kìa. Ðụ mẹ, ổng thủ nguyên một bao cát gạo sấy thịt hộp. Thấy tui ổng ngó lơ. Kệ mẹ ổng chớ, ai thèm xin.
Nói đến gạo sấy và thịt hộp, tôi mới thấy đói. Suốt từ trưa hôm qua tới giờ tôi có ăn uống gì đâu. Mà cũng có gì đâu để mà ăn uống. Ngoại trừ sáng nay ngồi uống rượu với bọn thiếu úy Sĩ, tôi lại có tật hễ uống rượu vào là không ăn gì nên tuy có đồ ăn nhưng tôi có nhét được miếng nào vào bụng đâu. Tuy nhiên, cái đói chỉ thoáng qua rất nhanh.
Tôi an ủi:
– Ðói lúc này đâu có chết tụi baỵ Tao cũng đói. Nhằm nhò gì!
Bưởi giục:
– Mình về bên kia đi ông thầỵ
Khải máy dặn dò:
– Tụi em nằm đây, khi nào chạy kêu tụi em nghe ông thầỵ
Tôi và Bưởi băng qua một quãng trống ngắn, về đến hố của Bưởi.
Người con gái nằm trong hố, chùm poncho chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Khuôn mặt kể cũng dễ coi.
Vừa xuống hố, Bưởi ra lệnh:
– Ngồi dậy đi bà nội, lấy chỗ để tôi moi rộng thêm cho ông thầy nằm.
Người con gái ngồi dậy, vẫn quấn chặt cái ponchọ
Bưởi khoét cái hố rộng ra thật nhanh bằng mũ sắt.
Tôi cởi áo giáp:
– Trả mày cái áo giáp, lấy trả tao cái jacket.
– Em vứt dưới biển rồi ông thầỵ
Tôi tiếc ngẩn ngơ:
– Ðụ mẹ, sao mày vứt của tao đỉ
– Lúc lội ra tàu mọi thứ em bỏ hết, em đâu dám vứt áo của ông thầỵ Em mặc trong người, có điều ở dưới biển lâu nó ngấm nước, nặng quá trời luôn. Em mà không cởi ra bỏ, dám em bị chết chìm luôn rồi.
Cả cuộc đời nhà binh bảy năm, gia tài của tôi chỉ có mỗi cái áo jacket nàỵ Nó là cái field jacket của Mỹ, áo thật dầy, có cả mũ. Tôi lựa đúng cỡ người, hy sinh một bộ đồ bệt mới tinh để đắp ra ngoài. Cái áo tôi mơ ước. Tôi mới có được cách đây chừng hơn một tháng. Sài Gòn nóng như thế mà khi về phép tôi còn mang theo để tối tối, trời vừa đủ hơi man mát là tôi lấy ra mặc. Mất Quảng Trị, mất Huế tôi không tiếc bằng mất cái jacket nàỵ Nhưng làm sao bây giờ, mất thì đã mất rồi, mà lỗi thì không thể đổ lỗi cho Bưởi. Tôi trong trường hợp nó cũng phải làm như vậy thôi.
Việt Cộng ở phía tàu mắc cạn hình như đã đến gần tuyến vì tôi nghe tiếng súng mỗi lúc một chát chúa hơn. Tiếng súng phòng thủ của tiểu đoàn 5 chỉ còn là cầm chừng vì mỗi lúc tôi thấy một thưa hơn.
Bưởi vừa mặc áo giáp vừa nói:
– Ông thầy nằm đắp chung poncho với con nhỏ này, em đi tìm cho ông thầy cái áo giáp.
– Thôi Bưởi, nguy hiểm màỵ
– Gần ngay đây mà ông thầỵ
Nói chưa dứt, Bưởi đã chạy vụt đi.
Tôi nằm đắp chung poncho với cô gái. Hơi ấm từ người nàng làm tôi khó chịu, không phải tôi khó chịu cô gái mà tôi khó chịu tôi.
Ðời thuở nhà ai, trong hoàn cảnh này, người ta ai cũng phải lo mà giữ sức khỏe, còn tôi, tôi lại muốn phung phí sức khỏe. Bộ chưa đủ mệt hay saỏ
Bàn tay tầm bậy của tôi mầy mò tứ tung trong ponchọ Cô gái không có thái độ hoan hô hay đả đảo gì ra mặt, nhưng người cô ta đang từ âm ấm chuyển dần sang nóng, hơi thở dồn dập và rõ tiếng hơn. Ðến một lúc thuận tiện, tôi tìm một vị thế thích hợp.
Nhưng vị thế thích hợp đã không có với chúng tôi. Cát dính lung tung lên người chúng tôi, ở dưới hố thì hố được đào cong vòng như cái võng, kéo nhau lên trên miệng hố, đạn Việt Cộng bay loạn xạ ở tầm rất thấp.
Rất thèm, nhưng thôi thì đành chịu, lắc đầu, chép miệng, “ngậm ngùi”.
Suốt từ lúc tôi về đến cái hố này, cô gái vẫn không nói một tiếng, và tôi cũng không nói một tiếng nào với cô ta.
Khải máy nói vọng sang từ cái gọ bên cạnh trong khi tay tôi vẫn đang mầy mò tầm bậy trong poncho:
– Người ta chạy hết rồi ông thầy ơi.
– Thằng Bưởi chạy đi kiếm áo giáp cho tao chưa về.
– Chắc nó chạy luôn theo mọi người rồi.
– Chắc không đâu, đợi nó một chút nữa thử coi.
Trời đã tối, tiếng súng bắn đi đã êm, chỉ còn những tiếng súng Việt Cộng bắn chúng tôi. Tiếng chân người chạy mỗi lúc một nhiều về hướng nam.
Khải máy và Phước râu chạy đến chỗ tôi. Khải máy la lên:
– Trời ơi ông thầy, người ta chạy hết rồi, ông còn nằm đó mà “moi lỗ”!
– Còn phải đợi thằng Bưởi nữa chứ.
– Ðợi gì nữa mà đợi. Có thể nó đã chết rồi, cũng có thể nó đã chạy rồi.
Tôi quay sang cô gái:
– Thôi, chạy đi cô em.
Cô gái nhìn tôi, lắc đầu.
Tôi đứng dậy, chạy theo Khải máy và Phước râu.
Chúng tôi chạy lom khom qua hết những cái gọ nằm rải rác trên bờ, nhập vào dòng người đang chạy sát mé nước.
Chạy thì cứ chạy, không lẽ mọi người đã chạy mà mình lại không chạy, nhưng thực sự tôi không hiểu là chạy để làm gì, và chạy đi đâu, chạy về hướng nam tức là chạy về phía cửa Tư Hiền. Tôi chẳng buồn nghĩ là chạy về đó rồi sẽ làm gì, và mình có chạy nổi về đó hay không.
Phước râu đề nghị:
– Hồi nãy tụi nó tự tử nhiều quá, hay là mình tự tử luôn đi ông thầỵ
Khải máy góp ý:
– Có lý đó ông thầỵ Mình chạy như vầy để làm cái gì?
– Không, tụi mày ngu thấy mẹ. Người ta cắt đất để giao cho Việt Cộng. Tụi mình dở nên mình bị kẹt. Nếu bị bắt cũng chừng vài tháng chứ mấy, khi nào được trao trả về, đụ mẹ, đánh lại.
– Làm tù binh của Việt Cộng chịu gì nổi ông thầỵ
– Cái gì mà không nổi, tụi mày không thấy tù binh được trao trả hồi ngưng bắn à, người ta ở tù bao nhiêu năm người ta còn chịu được. Bộ tụi mày không thấy thiếu úy Bông, chuẩn úy Nhường à!
Tiếng súng phía sau lưng đã hết, nhưng dòng người chúng tôi lại bị ăn đạn từ phía trong bờ mỗi lần chúng tôi chạy ngang một cái chốt của Việt Cộng. Cũng có những tràng súng, cũng có những quả lựu đạn được bắn trả, được ném trả vào những cái chốt đó. Không biết có giết được mạng nào không?
Việt Cộng được dịp bắn thả cửa vào chúng tôi. Số người trúng đạn không phải là ít.
Tôi nói với hai thằng đệ tử:
– Chạy trên cát thì lẹ nhưng mà nguy hiểm quá, trong khi mình đâu cần chạy nhanh hay chạy chậm. Chạy dưới nước chậm hơn nhưng an toàn hơn. Ðạn bắn ra chỉ trúng thằng chạy trong thôi.
Phước râu và Khải máy mỗi đứa chạy một bên để đỡ tôi, khi nào mệt tôi choàng cổ hai đứa để được dìu chạy, khi nào tôi chạy được một mình, Phước râu lại tấp vào phía trong bờ, chạy trên cát.
Tôi ngạc nhiên:
– Mỗi lần buông tao ra mày chạy trên cát cho đỡ mệt hả?
– Tui đâu có mệt ông thầy, chạy phía này lỡ có bị bắn tui còn che được cho ông chớ.
Tôi xúc động ứa nước mắt. Khải máy đã từng về dự đại hội chiến sĩ xuất sắc ở Sài Gòn, nhưng vì là gốc quân phạm nên leo mãi leo hoài vẫn không lên nổi cái lon hạ sĩ trong khi đã đeo binh nhất từ trước khi về đại đội cũng có đến ba năm. Khải mang máy đại đội nên là tay thân tín của đại đội trưởng, thay vì chạy theo đại đội trưởng vừa đỡ mệt vừa có cả gạo sấy thịt hộp, Khải máy lại chạy với tôi, lãnh đủ cả đói lẫn mệt.
Phước râu là hạ sĩ, đã có một thời gian năm 72 làm quyền tiểu đội trưởng khi còn là binh nhất, trong khi với Thủy Quân Lục Chiến, hạ sĩ mới hy vọng mon men được đến cái chức tiểu đội phó. Hạ sĩ Phước là tay đánh giặc có hạng nhưng cũng là tay cứng đầu, nên vừa rồi đã được đại đội trưởng “trân trọng kính mời” ra khỏi đại đội để qua đại đội mới là đại đội 3. Là một con cáo già trong những trận đánh, đồng thời Phước râu cũng là một tay kinh nghiệm đầy mình trong những đợt “di tản chiến thuật”. Bây giờ Phước râu tự ý lấy thân che đạn cho tôi trong khi tôi không còn là cấp chỉ huy của anh chàng.
Ba thầy trò tôi chạy dĩ nhiên là chậm so với những người cùng chạy nên cứ tụt dần về phía saụ Nhưng dòng người hình như vô tận nên chúng tôi dù có bị tụt dần vẫn không phải là những thằng sau chót.
Lại rất nhiều người bị bắn ngã từng chặng từng chặng khi chạy qua những cái chốt của Việt Cộng. Chưa bao giờ bọn chó má này được bắn sướng tay đến như vậỵ Mỗi tràng đạn ít ra cũng phải trúng vài ba người. Nhưng ai ngã mặc ai, những người chạy vẫn cứ chạỵ
Lại có rất nhiều người tự tử. Bây giờ họ không tự tử từng người, từng cá nhân mà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng người chúng tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người thứ tư… nhập bọn, lại tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, lại một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi vẫn cứ tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người thứ tư…
Tôi không thể nhớ để mà đếm nổi là đã có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở giữa những vòng tròn người như vậỵ Nhiều, thật nhiều quả lựu đạn đã nổ.
https://baovecovang
Cao Xuân Huy – Tháng ba gãy súng |
Những người bị dồn ép ngộp thở mà chết trông khá nhất, họ nằm chết trông như ngủ.
Những người bị đạn bắn chết nằm gục ngang gục ngửa, có người bị trúng đạn ở đầu, có kẻ trúng mặt, người trúng ngực, kẻ trúng bụng.
Họ trúng đạn đủ chỗ và nằm chết đủ kiểụ
Những người bị thương đang quằn quại, rên la.
Có người ngồi gục đầu xuống, máu từ ngực phụt ra có vòi như vòi nước.
Chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện mang những người bị thương vào bờ. Nằm trên tàu hay khiêng vào bờ nào có khác gì nhaụ Có biết đến bao nhiêu người bị thương, làm sao mà lo cho xuể trong khi chính những người còn khỏe mạnh lo cho nhau, lo cho mạng sống của mình còn chưa xong. Tôi thấy trung úy Chức tiểu đoàn 2 Pháo binh bị thương không biết nặng nhẹ, máu ướt đẫm áo quần, nằm thoi thóp.
Tôi ngạc nhiên khi thấy cô gái Huế học Văn Khoa đang ngồi vái trời vái Phật, miệng ngoác ra mà khóc. Không hiểu tại sao cô nàng lại ở trên tàụ Ðúng ra cô ta đã phải ở trên chiếc tàu cùng với Lữ đoàn trưởng và Lữ đoàn phó của tôi, đang lênh đênh ở ngoài khơi kia.
Nhưng tôi cũng chẳng có thời giờ đâu mà thắc mắc. Tôi nói lớn với cô ta:
– Thôi chứ cô nàng, không lo mà vô bờ đi, còn bày đặt mà ngồi đó vái cái thành tàụ
Bưởi nói với tôi:
– Con nhỏ này là Việt Cộng đó ông thày, nó ngồi trên tàu làm bộ khóc, làm bộ vái trời, chứ thật ra là chỉ điểm cho Việt Cộng. Ông nhớ không, hồi tối ở tuyến nó cũng khóc rùm trời.
Tôi phì cười:
– Bộ mày tưởng nó ngồi đó làm hiệu rồi Việt Cộng tránh không bắn nó, hay mày tưởng đạn của Việt Cộng biết nó cùng một phe nên né nó.
– Chứ sao nó ngồi trên đó mà không trúng đạn?
Tôi không thể trả lời và cũng không thể giải thích như thế nàọ Mọi câu trả lời nếu được thỏa đáng đều phải vịn vào một đấng vô hình.
Tôi vào bờ cát. Tiếng súng đã im.
Trời đã về chiều, hình như là ba hay bốn giờ gì đó.
Chúng tôi đứng một hàng dọc dọc theo bờ cát.
Mặt trời chiều chiếu thẳng vào mặt.
Sóng vỗ nhè nhẹ sau lưng.
Tôi nhìn quanh cố tìm những khuôn mặt quen thuộc trong đại đội, chẳng có bao nhiêu, chừng năm, bảy mạng gì đó. Ðâu rồi đại đội trưởng, đâu rồi Huy mập, đâu rồi Ngô Dzu, đâu rồi Khải máy, Phước râu, đâu rồi Ðăng…. đâu rồi tụi bay?
Lòng tôi chùng xuống, nước mắt trào ra. Bao nhiêu gian lao, bao nhiêu khổ ải từ bao nhiêu năm nay không sao, không lẽ lại rủ nhau cùng chết một cách đau thương tức tưởi và lãng nhách ở đây hay saỏ
Thiếu tá Thành từ phía đầu kia của tuyến đi lại:
– Ông Huy, súng đạn của mình hiện giờ ra sao rồỉ
– Không bao nhiêu hết, thiếu tá. Tôi đang cho người đi nhặt súng đem xuống rửa dưới biển.
Vừa lúc, một chiếc GMC từ phía nam đi trờ tới, thiếu tá Thành chận xe lại và nói với tôi:
– Huy ở đây chỉ huy tuyến nàỵ Tôi đi kiếm thêm súng đạn.
Chiếc GMC tiếp tục chạy lên hướng bắc, trên xe chỉ có thiếu tá Thành và người tài xế.
Tôi đi một vòng dọc tuyến, thấy mấy người lính tiểu đoàn 2 Pháo binh, tôi nói với họ:
– Tụi bay lên tàu khiêng trung úy Chức xuống.
Ðiều này gợi tôi quyết định lập một toán khỏe mạnh lên tàu khiêng những người bị thương xuống. Nhưng dĩ nhiên cũng chỉ khiêng những ai là Thủy Quân Lục Chiến, còn những người thuộc các binh chủng khác thôi thì kệ họ.
Tôi cũng cho người lên tàu kiếm đạn và đồng thời tìm cách chuyển nước ngọt xuống tiếp tế cho mọi người.
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy những người lính này, không phải là tất cả nhưng cũng không phải là ít, lúc nãy khi còn ở trên tàu, họ hung hăng dữ tợn bao nhiêu thì bây giờ họ lại hiền lành ngoan ngoãn bấy nhiêụ Tuyến phòng thủ cấp thời này được tập hợp bằng những người lính của khá nhiều đơn vị khác nhau của Thủy Quân Lục Chiến, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5, tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 2 Pháo binh, lính Vận Tải, Truyền Tin, lính Quân Y, Viễn Thám… Tôi không phải là cấp chỉ huy trực tiếp của họ, lúc nãy họ có thể hứng chí tặng tôi một viên vào đầu sau những tiếng đếm đụ mẹ một, đụ mẹ hai, đụ mẹ ba. Nhưng bây giờ họ tuân lệnh tôi một cách tuyệt đối.
Kỷ luật quả thật là một yếu tố căn bản để tạo thành sức mạnh của quân đội. Khi đã mất chỉ huy, khi mọi thằng đã bằng nhau thì thằng nào mạnh, thằng nào có súng thằng ấy nắm quyền sinh sát. Khi tình trạng bằng nhau đã hết, tình trạng hỗn quân hỗn quan đã hết, khi sự chỉ huy được tái lập, mọi người lại răm rắp đâu vào đấỵ
Bây giờ đến lượt chính tôi kê súng vào đầu một người lính, tay này to cao như một thằng Mỹ, cởi trần trùng trục, xâm đầy hình và chữ trên tay, trên lưng, trên ngực, tay khư khư ôm một khẩu M-79, đã không dám đứng dậy để chiến đấu, mà lại cũng không chịu giao súng cho ai. Tôi nói:
– Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, mày không đứng dậy hoặc không đưa súng cho tao, đụ mẹ, tao bắn.
– Súng của em mà trung úy.
– Ðụ mẹ, một.
– Em mệt quá rồi trung úy, trung úy cho em ngồi nghỉ mệt chút rồi em đứng dậy, trung úy.
– Ðụ mẹ, hai.
– Trời ơi, ông giết em thật sao trung úy?
– Ðụ mẹ, ba.
Tiếng ba chưa dứt, tên lính vội vàng đưa khẩu súng M-79 bằng cả hai tay cho tôi, miệng lắp bắp:
– Súng đây trung úy, súng đây trung úy.
Tôi lấy khẩu súng giao cho một người lính đứng cạnh đó.
Tôi không cố tâm bắn chết người lính này, nhưng nếu anh chàng không giao súng cho tôi hoặc không đứng dậy để chiến đấu, thôi thì cũng đành vậỵ May cho anh chàng và cũng may cả cho tôi!
Không có bóng dáng một người lính Bộ Binh nào trong tuyến nàỵ Khi xuống tàu thì tranh giành cũng ra gì lắm, nhưng khi cần phải cầm súng đánh nhau với Việt Cộng thì chỉ còn chúng tôi. Phải chăng họ hận chúng tôi vì chuyện vừa xảy ra trên tàu hay vì chúng tôi là những thằng được khoán trắng cho việc đánh trận. Trừ một số người tuy không bị thương nhưng vẫn nhất định nằm lì lại trên tàu -không hiểu họ còn hy vọng gì nơi cái tàu đã nằm hơn nửa thân trên cát- những người còn lại không biết đã chạy biến đi đâu mất.
Sự vắng mặt của những người lính Bộ Binh đã làm nhiều người lính Thủy Quân Lục Chiến càng thêm tin là quả đạn bắn vào đài chỉ huy chiếc tàu lúc nãy là do những người lính của Sư đoàn 1. Những lời bàn tán và đồn đãi:
– Bọn Sư đoàn 1 bị bắn và bị đuổi xuống tàu đã lấy đại bác 57 ly không giựt bắn vào tàụ Không được ăn thì đạp đổ!
Tôi không tin điều này, vì những người lính Bộ Binh làm gì còn súng 57 ly trong lúc nàỵ Nhưng những lời đồn và bàn tán mỗi lúc một nhiều cũng khiến tôi bắt đầu nghi ngờ sự suy đoán của mình.
Người tài xế chiếc xe GMC chở thiếu tá Thành đi kiếm đạn lúc nãy hớt hơ hớt hãi chạy bộ về. Anh ta báo cáo với tôi:
– Thiếu tá bị bắt rồi trung úy.
– Tại sao mày lại về được đây?
– Em chở thiếu tá đi lên cách đây chừng hai cây số, bị Việt Cộng chận lại. Em khai là binh nhì, thiếu tá ổng khai là hạ sĩ. Tụi nó tịch thu xe rồi nói em thay đồ dân sự về Huế mà sống, hình như tụi nó biết thiếu tá là sĩ quan nên bắt đi theọ Em lừa lừa rồi trốn về đâỵ
Niềm hy vọng kiếm thêm được súng đạn đã tiêu tan, cấp chỉ huy của tôi đã bị bắt. Súng đạn đi mót nhặt tại chỗ dù đã rỉ sét vẫn không đủ cung cấp cho chúng tôi trong khi chúng tôi vẫn bắt buộc phải bắn cầm chừng để giữ chân Việt Cộng. Sau một hồi bàn bạc với các sĩ quan khác, tôi quyết định bỏ cái tuyến này, rời xa chiếc tàu mắc cạn, kéo nhau vào tuyến của Lữ đoàn còn đang chiến đấu ở phía nam, nơi mà chúng tôi đã tách ra hồi sáng để kéo nhau xuống tàụ
Khi về gần đến tuyến của Lữ đoàn, chúng tôi bị một loạt đạn đại liên từ chiếc M-M-113 đậu ngang tuyến của tiểu đoàn 5 bắn xẹt trên đầu chúng tôi.
Mấy người lính tiểu đoàn 5 đứng trên chiếc thiết vận xa khoát khoát tay ra hiệu không cho chúng tôi vào tuyến.
Chúng tôi giơ hai tay lên đầu giống như những kẻ đầu hàng để chứng tỏ chúng tôi không còn khả năng chiến đấu. Vừa giơ tay chúng tôi vừa tiếp tục đi tới. Lần này khẩu đại liên trên chiếc M-113 nhắm thẳng chân của những người đi đầu của chúng tôi mà bắn, đồng thời chúng tôi còn lãnh thêm mấy quả đạn M-79. Bốn, năm người bị thương ngã lăn ra cát.
Từ sáng đến giờ, thời gian chưa đầy mười tiếng đồng hồ, chúng tôi đã trải qua không biết bao nhiêu nỗi kinh hoàng. Bao nhiêu người đã chết, bao nhiêu hy vọng đã tiêu tan. Bây giờ trở về để nương nhờ những người bạn, những đồng đội trong cùng binh chủng. Nhưng cánh cửa đã khép chặt, chúng tôi bị xua đuổi bằng những tràng đại liên, bằng những viên đạn M-79. Thiếu tá Tiền tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 mới hôm qua hôm kia đây còn nói với Huy mập “Thầy trò mày rán làm cho tao cú nữa, đây là trận đầu của tao ở bên này”, trong khi thầy trò Huy mập đã tanh banh hết. Vậy mà bây giờ, chính lính của ông đĩ nhiên họ làm theo lệnh- vác đại liên, vác M-79 ra bắn xua đuổi chúng tôi.
Chúng tôi tấp vào bờ cát, cách tuyến của tiểu đoàn 5 chừng bốn, năm chục thước.
Ngồi đây, ngoài tuyến hay vào trong kia -trong tuyến- thực sự đối với tôi chẳng khác gì nhaụ Ðạn Việt Cộng không chừa một chỗ nào và cũng không chừa một ai. Trong tuyến mới đúng là nơi thu hút hỏa lực của địch, còn chúng tôi nằm ngoài, cảm thấy không an tâm chỉ là tâm lý, không an tâm vì mình đã mất khả năng tự vệ và bị từ chối sự bảo vệ của những người mình trông đợi.
Mấy người bị bắn ngã đã được đưa vào tuyến.
Lính tráng thắc mắc tại sao họ không được cho vào tuyến. Trung sĩ nhất Ðăng thường vụ đại đội hỏi tôi:
– Ông thầy, mình cũng là Thủy Quân Lục Chiến chứ đâu phải là Bộ Binh, tại sao họ không cho mình vào tuyến?
– Tiểu đoàn mình tan hàng rồi, mình vào tuyến bây giờ sẽ ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của những thằng đang đánh nhau trong đó.
– Ảnh hưởng mẹ gì, ông thầy, mình vô tuyến rồi kiếm chỗ nằm tránh đạn ở mút đàng sau này chứ mình đâu có lên đàng trước đâu mà làm mất tinh thần của tụi nó.
– Mày nên nhớ là họ chỉ cần nghe tin là tàu không bốc được tụi mình, tinh thần của họ đã bị nhụt hẳn đi rồi, cần gì phải đợi mình kể lại. Mà mày không thấy nằm đây mình không bị đạn bắn tới, đâu cần phải tìm chỗ tránh đạn ở trong tuyến nữa.
Tôi chưa nói dứt câu, nhiều loạt đạn nhắm thẳng chúng tôi bay tới. Việt Cộng đã về đến chỗ tàu mắc cạn. Thầy trò cha con chúng tôi ùa chạy vào tuyến, đạn Việt Cộng bắn vãi sau lưng.
Những người lính tiểu đoàn 5 trên M-113 thản nhiên ngồi chờ cho đến khi chúng tôi vào hết trong tuyến mới bắt đầu bắn trả về phía tàu mắc cạn.
Tuyến phòng thủ của Lữ đoàn từ chiều hôm qua chỉ bị tấn công một mặt từ hướng tây, nơi tiểu đoàn 7 bàn giao tuyến lại của tiểu đoàn 4 tôi. Bây giờ bị thêm một mặt tấn công mới từ hướng bắc.
Xạ trường bằng phẳng, những loại súng bắn thẳng không bị cản trở bởi bất cứ một chướng ngại nàọ Những người lính trên M-113 đã rời xe, xuống những hố cá nhân đào quanh đấỵ
Chúng tôi, những thằng hết khả năng tác chiến, moi vội những cái hố ở phía sau những cái gọ của dân nằm úp đáy trên mặt cát.
Tiếng súng nhỏ nổ đì đoành trên tàu mắc cạn. Hình như Việt Cộng đang bắn những người còn nằm lại trên tàụ
Ðây là lần thứ hai tôi được xem, một cách rất bàng quan, những người lính Thủy Quân Lục Chiến đánh trận. Lần đầu vào ngày 27 tháng Giêng năm 73, buổi chiều cuối cùng trước giờ ngưng bắn có hiệu lực tại Cửa Việt. Tiểu đoàn 4 tôi được tăng cường hai đại đội của tiểu đoàn 2 và một đơn vị Thiết Giáp -tôi không rõ cấp đơn vị- lập thành lực lượng đặc nhiệm Tango do chính đại tá tư lệnh phó làm tư lệnh lực lượng. Lực lượng chúng tôi có nhiệm vụ bằng mọi giá cắm cờ ở Cửa Việt trước 8 giờ sáng ngày 28 tháng Giêng. Trung đoàn Việt Cộng 48 phòng thủ.
Từ chạm tuyến lên đến mục tiêu khá xa, có đến mấy cây số nên từng nấc dọc đường được chia thành nhiều mục tiêu phụ, chúng tôi từng đại đội một chia nhau chiếm từng mục tiêụ Ðiểm xuất phát của đại đội tôi là mục tiêu mà một đại đội của tiểu đoàn 2 đánh chiếm. Ðại đội tôi di chuyển một cách thoải mái từ phía dưới lên. Ðại đội trưởng tôi lúc đó là trung úy Tước Đương Tấn Tước- gọi tôi lại gần và chỉ:
– Ông có thấy chiếc M-48 đang cháy kia không?
– Thấy, Sao Mai.
– Rồi, ông dắt con cái vô đó.
Một cái lệnh hành quân rất nhẹ nhàng và dễ dàng. Nhưng thực sự, nói vậy mà đâu phải vậy, M-48 mà cháy thì mục tiêu đâu phải là nhẹ ký. Tôi vào đến nơi được xem những người lính của tiểu đoàn 2 đang chiếm mục tiêụ Những người lính của tiểu đoàn 2 này không hổ danh với chính cái tên mà Việt Cộng đã đặt cho họ, tiểu đoàn Trâu Ðiên. Họ xung phong, họ xông xáo vào tuyến phòng thủ của Việt Cộng như vào chỗ không người. Có chết chóc đấy, có bị thương đấy nhưng Việt Cộng không thể nào cản được bước chân của họ. Có một trung đội quá hăng máu, tiến quá nhanh, vượt qua khỏi mục tiêu tiến quá sâu vào phần đất dầy đặc Việt Cộng, nên đã bị bao vây, không hầm hố, không mô cát để ẩn nấp, họ trở thành điểm tập trung tác xạ của không biết bao nhiêu tay súng Việt Cộng.
Trung đội Trâu Ðiên này vẫn tả xung hữu đột, vẫn bình tĩnh chiến đấu như đang thực tập một bài chiến thuật trong quân trường.
Khi đại đội tôi lên và giải vây cho họ xong, một người lính nhìn tôi cười nói:
– Ðụ mẹ, đánh giặc đã quá, ông thầy!
Lần này là lần thứ hai, tôi nằm sau một cái gọ lật úp làm nơi ẩn nấp, quan sát những người lính của tiểu đoàn 5 chiến đấu. Lần này, cái hăng say, cái nhuệ khí của thế tấn công không có, chúng tôi đang ở cái thế bị bao vây, lương thực chúng tôi hết cạn, đạn dược chúng tôi hết gần sạch banh, đường về chúng tôi không có. Chúng tôi đang ở trong cái thế bi thảm nhất cả về tinh thần lẫn phương tiện chiến đấu. Vậy mà những người lính của tiểu đoàn 5, mấy con “đỉa đói” này vẫn vừa đánh giặc vừa cười đùa. Có hai người lính đầu không mũ sắt, mình không áo giáp, chân không giày, một người ôm nòng khẩu súng cối 60 ly được bọc bằng mấy cái áo giáp cho khỏi nóng, một người cầm mũ sắt làm bàn tiếp hậu, tay cầm quả đạn, cứ thế họ đặt súng chỗ này bắn một hai quả, đặt súng chỗ khác bắn một hai quả. Vừa bắn vừa cười nói bô bô. Một viên đạn bất ngờ ghim sâu vào ngực người lính cầm mũ sắt, quả đạn bên tay phải rơi phịch xuống cát, mũ sắt bên tay trái văng ra xa. Một người lính khác tay cầm mũ sắt, chạy tới nhặt quả đạn tiếp tục bắn. Người lính ôm nòng súng nhìn người bạn vừa ngã chết, miệng cười tươi như không có gì xảy ra:
– Ðụ má, chết sớm dzậy mày?
Người xạ thủ thứ hai rướn người lên rồi ngã xuống vì viên đạn trúng vào bụng.
Người thứ ba cầm mũ sắt chạy ra. Vừa ra đến nơi chưa kịp bắn viên nào thì cả xạ thủ lẫn người ôm nòng súng ngã vật ra chết.
Nòng khẩu súng cối 60 ly nằm chúi họng xuống cát. Tôi ngồi xem hào hứng đến độ quên luôn rằng cái gọ đang làm vật che đạn cho tôi cũng trúng khá nhiều đạn, trong khi cái đầu tôi mỗi lúc một rướn cao lên để xem cho rõ.
Nắng tắt dần, gió biển mỗi lúc một lạnh hơn.
Tôi thấy gai gai người, mới sực để ý mình đã cởi áo từ lúc nào và cũng không thể nghĩ được là tại sao mình đã cởi áọ
Bưởi xuất hiện đột ngột, từ bên hông một cái gọ nào đó chạy tới.
Trên người mặc có mỗi cái quần lót và cái áo giáp.
Gặp Bưởi lúc này còn hơn bắt được vàng. Bưởi ôm chầm lấy tôi:
– Ông thầy, em kiếm ông thầy quá trời.
– Mày ở đâu chạy tới đây?
– Em đi kiếm ông thầy quá trời. Ai moi cho ông thầy cái lỗ này?
– Tao moi mình ên.
Bưởi cười cười:
– Hèn chi.
Tôi cũng cười cười:
– Hèn chi gì mày?
– Ông thầy qua chỗ em đi. Em đào sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu lỡ có chết chỉ việc lấp cát là êm. Ông thầy nằm kiểu này nếu chết đúng là cái lỗ không đủ chôn.
– Ðụ mẹ, trù ẻo màỵ
– Thiệt mà. Mà bây giờ về em phải đào cho rộng thêm.
– Sao vậy?
– Hồi nãy đi kiếm ông thầy, em gặp một cái “lỗ”. Em mang “con lỗ” về nằm chung. Ấm lắm ông thầy ơi.
Tôi cười cười, gian ý:
– Coi được không mày?
– Trời ơi, số một mà ông thầỵ Mà thời buổi này ông còn bày đặt kén nữa hả?
– Ðâu có kén, mà đều cũng phải đỡ đỡ một chút chứ hôi rùm ai mà chịu nổi.
– Ðâu có hôi, ông thầy, con nhỏ cũng mới tắm biển lên mà.
Hai thầy trò tôi nháy mắt nhìn nhau cười.
Bưởi cởi áo giáp đưa cho tôi:
– Ông thầy mặc đi rồi mình dzọt.
Tôi ngần ngừ:
– Thôi mày mặc đi.
Bưởi nhất định không chịu:
– Ông không thấy đạn bắn quá trời saỏ Ông chạy đâu có lẹ bằng tôi.
– Mày tưởng chạy lẹ là không ăn đạn à?
– Mà bộ ông không thấy lạnh hả? Người ông nổi gai ốc cùng mình kìa.
Quả thật, gió biển mỗi lúc một mạnh hơn, tôi đã rùng mình nổi da gà sau mỗi lần gió thổi, hai hàm răng tôi đã bắt đầu đập vào nhaụ Người tôi đã run lên vì lạnh. Hết phương từ chối, tôi mặc áo giáp vào rồi băng mình chạy theo Bưởi.
Chúng tôi chạy từng quãng ngắn từ cái gọ này sang cái gọ khác.
Ðến cái gọ cuối cùng trước khi đến chỗ Bưởi nằm, tôi gặp Khải máy và Phước râu.
Tôi la lên vì mừng:
– Ðụ mẹ, cả hai thằng mày còn sống hả?
Khải máy có cái tên rất lịch sử -Trần Quang Khải- ôm chầm lấy tôi:
– Ba thằng tụi em chia nhau đi kiếm ông thầỵ Em với thằng Phước râu mới về tới đâỵ
Phước râu bây giờ mới lên tiếng:
– Tui thấy trung úy Gắt ngồi đằng kia kìa. Ðụ mẹ, ổng thủ nguyên một bao cát gạo sấy thịt hộp. Thấy tui ổng ngó lơ. Kệ mẹ ổng chớ, ai thèm xin.
Nói đến gạo sấy và thịt hộp, tôi mới thấy đói. Suốt từ trưa hôm qua tới giờ tôi có ăn uống gì đâu. Mà cũng có gì đâu để mà ăn uống. Ngoại trừ sáng nay ngồi uống rượu với bọn thiếu úy Sĩ, tôi lại có tật hễ uống rượu vào là không ăn gì nên tuy có đồ ăn nhưng tôi có nhét được miếng nào vào bụng đâu. Tuy nhiên, cái đói chỉ thoáng qua rất nhanh.
Tôi an ủi:
– Ðói lúc này đâu có chết tụi baỵ Tao cũng đói. Nhằm nhò gì!
Bưởi giục:
– Mình về bên kia đi ông thầỵ
Khải máy dặn dò:
– Tụi em nằm đây, khi nào chạy kêu tụi em nghe ông thầỵ
Tôi và Bưởi băng qua một quãng trống ngắn, về đến hố của Bưởi.
Người con gái nằm trong hố, chùm poncho chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Khuôn mặt kể cũng dễ coi.
Vừa xuống hố, Bưởi ra lệnh:
– Ngồi dậy đi bà nội, lấy chỗ để tôi moi rộng thêm cho ông thầy nằm.
Người con gái ngồi dậy, vẫn quấn chặt cái ponchọ
Bưởi khoét cái hố rộng ra thật nhanh bằng mũ sắt.
Tôi cởi áo giáp:
– Trả mày cái áo giáp, lấy trả tao cái jacket.
– Em vứt dưới biển rồi ông thầỵ
Tôi tiếc ngẩn ngơ:
– Ðụ mẹ, sao mày vứt của tao đỉ
– Lúc lội ra tàu mọi thứ em bỏ hết, em đâu dám vứt áo của ông thầỵ Em mặc trong người, có điều ở dưới biển lâu nó ngấm nước, nặng quá trời luôn. Em mà không cởi ra bỏ, dám em bị chết chìm luôn rồi.
Cả cuộc đời nhà binh bảy năm, gia tài của tôi chỉ có mỗi cái áo jacket nàỵ Nó là cái field jacket của Mỹ, áo thật dầy, có cả mũ. Tôi lựa đúng cỡ người, hy sinh một bộ đồ bệt mới tinh để đắp ra ngoài. Cái áo tôi mơ ước. Tôi mới có được cách đây chừng hơn một tháng. Sài Gòn nóng như thế mà khi về phép tôi còn mang theo để tối tối, trời vừa đủ hơi man mát là tôi lấy ra mặc. Mất Quảng Trị, mất Huế tôi không tiếc bằng mất cái jacket nàỵ Nhưng làm sao bây giờ, mất thì đã mất rồi, mà lỗi thì không thể đổ lỗi cho Bưởi. Tôi trong trường hợp nó cũng phải làm như vậy thôi.
Việt Cộng ở phía tàu mắc cạn hình như đã đến gần tuyến vì tôi nghe tiếng súng mỗi lúc một chát chúa hơn. Tiếng súng phòng thủ của tiểu đoàn 5 chỉ còn là cầm chừng vì mỗi lúc tôi thấy một thưa hơn.
Bưởi vừa mặc áo giáp vừa nói:
– Ông thầy nằm đắp chung poncho với con nhỏ này, em đi tìm cho ông thầy cái áo giáp.
– Thôi Bưởi, nguy hiểm màỵ
– Gần ngay đây mà ông thầỵ
Nói chưa dứt, Bưởi đã chạy vụt đi.
Tôi nằm đắp chung poncho với cô gái. Hơi ấm từ người nàng làm tôi khó chịu, không phải tôi khó chịu cô gái mà tôi khó chịu tôi.
Ðời thuở nhà ai, trong hoàn cảnh này, người ta ai cũng phải lo mà giữ sức khỏe, còn tôi, tôi lại muốn phung phí sức khỏe. Bộ chưa đủ mệt hay saỏ
Bàn tay tầm bậy của tôi mầy mò tứ tung trong ponchọ Cô gái không có thái độ hoan hô hay đả đảo gì ra mặt, nhưng người cô ta đang từ âm ấm chuyển dần sang nóng, hơi thở dồn dập và rõ tiếng hơn. Ðến một lúc thuận tiện, tôi tìm một vị thế thích hợp.
Nhưng vị thế thích hợp đã không có với chúng tôi. Cát dính lung tung lên người chúng tôi, ở dưới hố thì hố được đào cong vòng như cái võng, kéo nhau lên trên miệng hố, đạn Việt Cộng bay loạn xạ ở tầm rất thấp.
Rất thèm, nhưng thôi thì đành chịu, lắc đầu, chép miệng, “ngậm ngùi”.
Suốt từ lúc tôi về đến cái hố này, cô gái vẫn không nói một tiếng, và tôi cũng không nói một tiếng nào với cô ta.
Khải máy nói vọng sang từ cái gọ bên cạnh trong khi tay tôi vẫn đang mầy mò tầm bậy trong poncho:
– Người ta chạy hết rồi ông thầy ơi.
– Thằng Bưởi chạy đi kiếm áo giáp cho tao chưa về.
– Chắc nó chạy luôn theo mọi người rồi.
– Chắc không đâu, đợi nó một chút nữa thử coi.
Trời đã tối, tiếng súng bắn đi đã êm, chỉ còn những tiếng súng Việt Cộng bắn chúng tôi. Tiếng chân người chạy mỗi lúc một nhiều về hướng nam.
Khải máy và Phước râu chạy đến chỗ tôi. Khải máy la lên:
– Trời ơi ông thầy, người ta chạy hết rồi, ông còn nằm đó mà “moi lỗ”!
– Còn phải đợi thằng Bưởi nữa chứ.
– Ðợi gì nữa mà đợi. Có thể nó đã chết rồi, cũng có thể nó đã chạy rồi.
Tôi quay sang cô gái:
– Thôi, chạy đi cô em.
Cô gái nhìn tôi, lắc đầu.
Tôi đứng dậy, chạy theo Khải máy và Phước râu.
Chúng tôi chạy lom khom qua hết những cái gọ nằm rải rác trên bờ, nhập vào dòng người đang chạy sát mé nước.
Chạy thì cứ chạy, không lẽ mọi người đã chạy mà mình lại không chạy, nhưng thực sự tôi không hiểu là chạy để làm gì, và chạy đi đâu, chạy về hướng nam tức là chạy về phía cửa Tư Hiền. Tôi chẳng buồn nghĩ là chạy về đó rồi sẽ làm gì, và mình có chạy nổi về đó hay không.
Phước râu đề nghị:
– Hồi nãy tụi nó tự tử nhiều quá, hay là mình tự tử luôn đi ông thầỵ
Khải máy góp ý:
– Có lý đó ông thầỵ Mình chạy như vầy để làm cái gì?
– Không, tụi mày ngu thấy mẹ. Người ta cắt đất để giao cho Việt Cộng. Tụi mình dở nên mình bị kẹt. Nếu bị bắt cũng chừng vài tháng chứ mấy, khi nào được trao trả về, đụ mẹ, đánh lại.
– Làm tù binh của Việt Cộng chịu gì nổi ông thầỵ
– Cái gì mà không nổi, tụi mày không thấy tù binh được trao trả hồi ngưng bắn à, người ta ở tù bao nhiêu năm người ta còn chịu được. Bộ tụi mày không thấy thiếu úy Bông, chuẩn úy Nhường à!
Tiếng súng phía sau lưng đã hết, nhưng dòng người chúng tôi lại bị ăn đạn từ phía trong bờ mỗi lần chúng tôi chạy ngang một cái chốt của Việt Cộng. Cũng có những tràng súng, cũng có những quả lựu đạn được bắn trả, được ném trả vào những cái chốt đó. Không biết có giết được mạng nào không?
Việt Cộng được dịp bắn thả cửa vào chúng tôi. Số người trúng đạn không phải là ít.
Tôi nói với hai thằng đệ tử:
– Chạy trên cát thì lẹ nhưng mà nguy hiểm quá, trong khi mình đâu cần chạy nhanh hay chạy chậm. Chạy dưới nước chậm hơn nhưng an toàn hơn. Ðạn bắn ra chỉ trúng thằng chạy trong thôi.
Phước râu và Khải máy mỗi đứa chạy một bên để đỡ tôi, khi nào mệt tôi choàng cổ hai đứa để được dìu chạy, khi nào tôi chạy được một mình, Phước râu lại tấp vào phía trong bờ, chạy trên cát.
Tôi ngạc nhiên:
– Mỗi lần buông tao ra mày chạy trên cát cho đỡ mệt hả?
– Tui đâu có mệt ông thầy, chạy phía này lỡ có bị bắn tui còn che được cho ông chớ.
Tôi xúc động ứa nước mắt. Khải máy đã từng về dự đại hội chiến sĩ xuất sắc ở Sài Gòn, nhưng vì là gốc quân phạm nên leo mãi leo hoài vẫn không lên nổi cái lon hạ sĩ trong khi đã đeo binh nhất từ trước khi về đại đội cũng có đến ba năm. Khải mang máy đại đội nên là tay thân tín của đại đội trưởng, thay vì chạy theo đại đội trưởng vừa đỡ mệt vừa có cả gạo sấy thịt hộp, Khải máy lại chạy với tôi, lãnh đủ cả đói lẫn mệt.
Phước râu là hạ sĩ, đã có một thời gian năm 72 làm quyền tiểu đội trưởng khi còn là binh nhất, trong khi với Thủy Quân Lục Chiến, hạ sĩ mới hy vọng mon men được đến cái chức tiểu đội phó. Hạ sĩ Phước là tay đánh giặc có hạng nhưng cũng là tay cứng đầu, nên vừa rồi đã được đại đội trưởng “trân trọng kính mời” ra khỏi đại đội để qua đại đội mới là đại đội 3. Là một con cáo già trong những trận đánh, đồng thời Phước râu cũng là một tay kinh nghiệm đầy mình trong những đợt “di tản chiến thuật”. Bây giờ Phước râu tự ý lấy thân che đạn cho tôi trong khi tôi không còn là cấp chỉ huy của anh chàng.
Ba thầy trò tôi chạy dĩ nhiên là chậm so với những người cùng chạy nên cứ tụt dần về phía saụ Nhưng dòng người hình như vô tận nên chúng tôi dù có bị tụt dần vẫn không phải là những thằng sau chót.
Lại rất nhiều người bị bắn ngã từng chặng từng chặng khi chạy qua những cái chốt của Việt Cộng. Chưa bao giờ bọn chó má này được bắn sướng tay đến như vậỵ Mỗi tràng đạn ít ra cũng phải trúng vài ba người. Nhưng ai ngã mặc ai, những người chạy vẫn cứ chạỵ
Lại có rất nhiều người tự tử. Bây giờ họ không tự tử từng người, từng cá nhân mà họ tự tử tập thể. Không rủ, không hẹn và hầu như họ đều không quen biết nhau trước hoặc có quen biết đi nữa, bạn bè đi nữa họ cũng không thể nhận ra nhau trước khi cùng chết với nhau một lúc. Dòng người chúng tôi đang chạy, một người tách ra ngồi lại trên cát, một người khác cũng tách dòng người ra ngồi chung, người thứ ba, người thứ tư, người thứ năm nhập bọn, họ ngồi tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người thứ tư… nhập bọn, lại tụm với nhau thành một vòng tròn nhỏ, lại một quả lựu đạn nổ bung ở giữa.
Dòng người chúng tôi vẫn cứ tiếp tục chạy, lại một người tách ra ngồi trên cát, lại người thứ hai, người thứ ba, người thứ tư…
Tôi không thể nhớ để mà đếm nổi là đã có bao nhiêu quả lựu đạn đã nổ ở giữa những vòng tròn người như vậỵ Nhiều, thật nhiều quả lựu đạn đã nổ.
https://baovecovang
Không có nhận xét nào