Tờ Tuyên cáo khởi nghĩa
10/2/1930 - 10/2/2021
VQ Trung Hiếu
Ngày 25 tháng 12, 1927 Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí thành lập VNQDĐ với chủ trương “làm cuộc cách mạng quốc gia, đánh đổ thực dân phong kiến, lập nên một chế độ Cộng Hòa Dân Chủ nhằm mang lại Độc Lập, Tự Do cho Dân Tộc, Hạnh Phúc và Tiến Bộ cho toàn dân”. Việt Nam Quốc Dân Đảng đã đặt ra thách thức đầu tiên của chủ nghĩa dân tộc có tổ chức đối với sự thống trị của thực dân ở Việt Nam.
Vào những năm 20 của thế kỷ trước, dân tộc Việt Nam vẫn còn chìm đắm trong cảnh nước mất nhà tan. Các phong trào yêu nước do giới sĩ phu lãnh đạo nổ ra vào các thập niên cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX đều thất bại. Một không khí hoang mang, tiêu trầm tràn ngập trong giới Nho sĩ bấy giờ. Cuộc Khởi nghĩa Yên Báy do đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng- Nguyễn Thái Học làm ngọn cờ và linh hồn đã nổ ra trong khung cảnh ấy. Hầu hết những người tham gia cuộc khởi nghĩa đều ở độ tuối thanh xuân, đó là: Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Bắc ... và của nhiều chiến sĩ vô danh khác…Họ đã lấy trái tim tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ để đốt lên những bó đuốc, tuy rằng không thay được ánh bình minh, song nó cũng khiến cho bóng tối bớt đi phần cô quạnh, góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của toàn thể Quốc Dân Việt…
Việt Nam Quốc Dân Đảng là đảng cách mạng có tư tưởng cải cách, sự kết hợp giữa sự đàn áp của Pháp và sự thất vọng với chủ nghĩa cải cách thuộc địa thất bại đã khiến đảng áp dụng một đường lối cấp tiến hơn. Năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học, những người theo chủ nghĩa dân tộc đã tổ chức và phát động “Tổng khởi nghĩa” chống Pháp ở miền Bắc Việt Nam nhằm đánh đuổi thực dân, thống nhất đất nước và lập nền Cộng Hòa
Việt Nam Quốc dân Đảng qua tài liệu lưu trữ Hải ngoại Pháp.
Kỳ I: Hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng qua tài liệu của mật thám Pháp
Lưu trữ Hải ngoại Pháp (ANOM) lưu trữ nhiều tài liệu của Sở Liêm phóng (hay còn gọi là Sở Mật thám) Đông Dương về Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ). Đây chủ yếu là các báo cáo, đánh giá về hoạt động của đảng này, kể từ ngày thành lập (năm 1927) đến khi khởi nghĩa Yên Báy thất bại, các phiên tòa xét xử các đảng viên bị bắt.
Báo cáo của Bride, Chánh án Tòa đại hình Bắc Kỳ năm 1929 tổng hợp quá trình hoạt động của một tổ chức chính trị lớn chống Pháp có tên gọi Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), đòi giành độc lập cho Việt Nam bằng mọi cách và mọi giá có thể. Bản báo cáo nêu khá cụ thể về nội dung các cuộc họp của VNQDĐ, cũng như đánh giá vai trò của những lãnh đạo như Nhượng Tống, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Thế Nghiệp hay Nguyễn Khắc Nhu (Xứ Nhu).
Nam Đồng thư xã và tổng hợp các hoạt động của các đảng viên cao cấp
Nam Đồng thư xã được thành lập từ năm 1925, do Phạm Tuấn Lâm (Dật Công), Phạm Tuấn Tài (Mộng Tiên), và Hoàng Phạm Trân (Nhượng Tống) đứng ra thành lập, tại số 6 đường 96 khu Nam Đồng (trước Bờ Hồ Trúc Bạch, Hà Nội). Đây là nơi chuyên viết, dịch và cho xuất bản các tác phẩm cách mạng thế giới.
Tháng 7/1927, mật thám Pháp phát hiện Nguyễn Thái Học xuất hiện ở Nam Đồng thư xã, nơi được ông dùng để ở. Tháng 9/1927, Nguyễn Thái Học cùng với Phạm Tuấn Tài lên kế hoạch chống Pháp. Cũng trong tháng 9/1927, Nguyễn Ngọc Sơn lên đường sang Trung Quốc.
Tháng 11/1927, mật thám Pháp báo cáo về một cuộc nổi dậy có thể diễn ra vào ngày 11/11/1927 ở Bắc Ninh, kỷ niệm Ngày Đình chiến. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy đã không diễn ra do Nguyễn Thái Học cho rằng thời điểm chưa thuận lợi, một cuộc nổi dậy chưa được chuẩn bị kỹ có thể ảnh hưởng không tốt đến tổ chức cũng như sự phát triển của VNQDĐ. Ngày 24,25 và 26/11/1927, Nhượng Tống, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn họp tại nhà của Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài vừa trở về từ Tuyên Quang. Mỗi người trình bày quan điểm cũng như kế hoạch của riêng mình và tuyên bố thành lập tổ chức có tên gọi Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nguyễn Thái Học muốn tập hợp các đảng nhóm nhỏ chống Pháp trong vùng.
Tháng 12/1927, Nguyễn Thế Nghiệp đi Nam Kỳ nghiên cứu tình hình chính trị, đến Thanh Hóa, ông đã phân công Hoàng Văn Tùng tiến hành các hoạt động tuyên truyền trong vùng cũng như Bắc Trung Kỳ. Nguyễn Ngọc Sơn đến Ninh Bình cùng với Phạm Tiềm (tức Tú Tiềm), Nhượng Tống đến Thái Bình, Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch lên Lào Cai. Phạm Tuấn Tài về lại Tuyên Quang. Tháng 2/1928, Nguyễn Thế Nghiệp từ Nam Kỳ trở về và ở lại Nam Đồng thư xã, khi đó chỉ còn lại Nguyễn Thái Học.
Vào giai đoạn này, mật thám Pháp coi Nhượng Tống là nhân vật hoạt động tích cực nhất của đảng. Ông đóng vai trò tuyên truyền, thư ký, biên tập, là cầu nối với các nhà xuất bản ở Nam Kỳ bị chính quyền Pháp nghi ngờ tham gia VNQDĐ. Ông vận động cho kế hoạch thành lập một chi bộ lớn ở Sài Gòn cũng như tại các thành phố lớn của Đông Dương. Nhượng Tống cố vấn cho những người mà ông thường trao đổi thư từ trong soạn thảo tài liệu tuyên truyền phân phát tại Bắc Kỳ, kêu gọi giành tự do cho đất nước.
Các cuộc họp của VNQDĐ không có thời gian và địa điểm cố định. Ngày 7/4/1928, Nguyễn Thái Học và Nguyễn Kim Ngữ đến Yên Phụ. Cũng trong tháng này, các đảng viên của các chi bộ trong vùng cũng về họp tại Nam Đồng thư xã để tổng kết tình hình chính trị. Biết bị mật thám Pháp theo dõi, Nguyễn Thế Nghiệp không rời khỏi nơi ở, tiếp tục soạn thảo điều lệ đảng. Tháng 5/1928, ông đi Thái Bình, Thanh Hóa và Vinh. Trong thời gian này, VNQDĐ nhóm họp dưới sự điều hành của những thành viên sáng lập. Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch và Lê Văn Phúc là ủy viên lâm thời, đảm trách việc tổ chức VNQDĐ dưới sự chủ trì của Nguyễn Thái Học. Tháng 7/1928 diễn ra cuộc họp đầu tiên có sự tham dự của đại biểu các vùng và Ủy ban trung ương được thành lập. Cũng từ mốc thời gian này, mọi hoạt động của VNQDĐ bị mật thám Pháp theo dõi chặt chẽ, trong đó có các thông tin về chương trình họp, thảo luận, các cuộc họp.
Tổ chức của Việt Nam Quốc Dân Đảng
Chuyến đi của Nguyễn Thế Nghiệp ở Trung và Nam Kỳ tháng 12/1927
Tại Vinh, Nguyễn Thế Nghiệp gặp rất nhiều nhà cách mạng tham gia và liên quan đến vụ lưu vong bí mật ở Móng Cái, đa số họ đã là đảng viên của VNQDĐ ở Bắc Trung Kỳ. Tại Huế, ông gặp Phan Bội Châu. Ở Sài Gòn, ông gặp Vũ Đình Dy - chủ bút của tờ «Thanh niên Đông Dương», Nguyễn Khánh Toàn, cựu chủ bút của tờ «Nhà quê» (năm 1929, đã chuyển sang sống ở Marseille, Pháp). Hai ông đã cung cấp cho Nguyễn Thế Nghiệp thông tin về tình hình chính trị và tổ chức của các hội nhóm do Nguyễn An Ninh, Trần Nguyên Phú và Nguyễn Đinh Kiêm lãnh đạo. Gấp gáp trở về Bắc Kỳ tham dự lễ thành lập VNQDĐ, tháng 3/1927, Nguyễn Thế Nghiệp lên tàu về Bắc Kỳ cùng với Nguyễn Văn Ngọc và Cao Hữu Tạo, mà theo mật thám Pháp cho là nhân viên Ngân hàng Đông Dương.
Chuyến đi tuyên truyền ở Xiêm La (Thái Lan) tháng 6/1927
Chuyến đi này được những người khởi xướng thành lập VNQDĐ quyết định ngày 22/05. Nguyễn Thái Sơn, Hồ Văn Mịch và Phạm Tiềm (tức Tú Tiềm) đã tới Xiêm La vào tháng 6/1927. Ba người tới Udon ở Tây Bắc Thái Lan, gặp nơi có nhiều chí sĩ Việt Nam lưu vong sinh sống, trong đó có Hy Tống và Ngọc Ân của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Ba ông tham dự cuộc họp tưởng niệm người đã hy sinh trong vụ ám sát Toàn quyền Đông Dương Merlin năm 1924. Nhân dịp này, ba ông đã có những bài phát biểu, vận động hợp nhất với Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, nhưng đảng này đã trả lời cần phải tham vấn ý kiến của những người cộng sản ở Quảng Châu. Cuối tháng 7/1927, Tú Tiềm về nước và có bản báo cáo về chuyến đi trong cuộc họp ngày 02/9.
Chuyến đi của Nguyễn Ngọc Sơn và Hồ Văn Mịch tới Nam Kỳ
Nguyễn Ngọc Sơn và Hồ Văn Mịch không trở về Bắc Kỳ sau khi rời Xiêm La mà tới Nam Kỳ, với mục đích thành lập các chi bộ tại đây. Cả hai có các cuộc gặp với Nguyễn An Ninh, Tú Kiên và Trần Nguyên Phú, những nhà lãnh đạo của các phong trào chống Pháp tại Nam Kỳ. Theo Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn An Ninh là người vừa trở về từ Pháp, mang tư tưởng phương Tây và đảng do Nguyễn An Ninh lập nên không có cơ sở vững chắc, vì một người trong gia đình khi gia nhập đảng, đồng nghĩa với tất cả gia đình của họ cũng trở thành đảng viên của đảng. Do vậy tuy đảng có số lượng thành viên đông nhưng nhiều người không có khả năng, không có sự bình đẳng giữa các đảng viên. Nguyễn Ngọc Sơn đã chứng minh cho Nguyễn An Ninh thấy những ưu điểm trong tổ chức của VNQDĐ. Nguyễn An Ninh bị bắt và Nguyễn Ngọc Sơn buộc phải dừng kế hoạch hợp tác với Nguyễn An Ninh. Tú Kiên và Nguyễn Ngọc Sơn cũng đã gặp nhau. Tú Kiên là lãnh tụ của Đảng Tân Việt ở Trung Kỳ. Ông cũng cho Nguyễn Ngọc Sơn biết ông hy vọng dẫn đắt đảng của ông thành công trong 3 năm tiếp theo. Việc Tú Kiên bị Pháp bắt đã giáng đòn mạnh vào đảng của ông và bất chấp mọi nỗ lực của Tú Kiên sau khi ra tù, Đảng Tân Việt không thể vực dậy. Trần Nguyên Phú, một thợ ảnh là người sáng lập một đảng chính trị mang khuynh hướng cộng sản. Trong thời gian lưu trú ở Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Sơn đã tổ chức thành công 8 chi bộ và khi về Bắc Kỳ, ông được Trần Nguyên Phú thông báo có thêm 4 chi bộ được thành lập. Dựa vào những hoạt động trên, Đào Khắc Hùng ra thông tri về việc Tú Kiên và Trần Nguyên Phú đã chấp nhận hợp nhất với VNQDĐ tại Nam Kỳ trên nguyên tắc. Thông tin này được mật thám Pháp nắm được khi thu được cuốn sổ tài liệu của VNQDĐ. Cũng trong thời gian lưu trú tại Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Sơn đã tới Cao Miên (Campuchia) để gặp một người tên là Trần Đinh Sóc, cháu của Ba Liệu (Nguyễn Công Riệu) song không có kết quả.
Phân bố các chi bộ của VNQDĐ giai đoạn cuối năm 1928 đầu 1929
Việt Nam Quốc Dân Đảng qua tài liệu lưu trữ Hải ngoại Pháp.
Kỳ II : Quốc dân Đảng những năm 1928-1929
Báo cáo quý I năm 1928 của mật thám Pháp đã liệt Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) vào tầm ngắm theo dõi các đảng chính trị chống Pháp quyết liệt tại Đông Dương, với tiền thân là Nam Đồng thư xã dưới vỏ bọc một hội truyền bá văn hóa.
Biên bản phiên tòa ngày 02 và 3.07.1929
Chủ trương dùng bạo lực ?
VNQDĐ thành lập ủy ban biên soạn sách, tạp chí tuyên truyền nhằm mục đích truyền bá, tuyên truyền tới quần chúng. Đầu tiên là Hồn Cách Mệnh: trong số thứ hai, nội dung đề cập đến việc hành động bằng bạo lực. Một số ấn phẩm đang trong giai đoạn chuẩn bị như bản thông tri của Đào Khắc Hùng, cuốn sách về lịch sử giành độc lập của nước Mỹ, một cuốn sách về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đế quốc, cuốn sách viết về người tiên phong trong cách mạng.
Bên cạnh đó, VNQDĐ đẩy mạnh tuyên truyền trong binh lính. Mua chuộc binh lính được xem là một trong những phương cách đánh đuổi quân Pháp, đối tượng nhắm tới là bộ phận chỉ huy các toán quân, những người làm việc liên quan đến thiết bị chiến tranh, tuyên truyền kết nạp họ tham gia hoạt động đấu tranh của đảng nhằm hỗ trợ trang bị quân sự cho các đảng viên khác. Một số chi bộ quân sự được thành lập. Những quân nhân bị bắt thừa nhận tham gia VNQDĐ, nhưng luôn phủ nhận ủng hộ bạo lực và kêu gọi cầm vũ khí, mật thám Pháp khẳng định các điều lệ của VNQDĐ lại cho thấy điều đó. Những chú thích tìm thấy trên sổ ghi chép của Nguyễn Ngọc Sơn ghi khá cụ thể về thiết bị vũ khí, số lượng quân Pháp đóng ở Hà Nội.
Mật thám Pháp đã phục hồi được các báo cáo của Nguyễn Thế Nghiệp bị tiêu hủy trong các vụ bắt bớ, lục soát ở Nam Đồng thư xã. Đó là những tài liệu quân sự, có hướng dẫn về sử dụng lựu đạn. Viên Chánh án Tòa đại hình Brides khẳng định, hoạt động của VNQDĐ không chỉ dừng lại ở mức độ hòa bình, kêu gọi binh lính Việt trong quân đội Pháp nổi dậy .
Cuộc họp ngày 01/07/1928
Cuộc họp dự kiến diễn ra ở Gia Lâm với sự tham dự của tất cả các đại biểu, nhưng cuối cùng lại được quyết định diễn ra ở Nam Đồng thư xã. Cuộc họp cũng thống nhất cử ba đại biểu đi Xiêm La (Thái Lan) để kết nối liên lạc với các nhóm chí sĩ yêu nước lưu vong lưu trú tại đây. Trên thực tế, ba đại biểu được cử là Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch và Tú Tiềm đã thực hiện nhiệm vụ này từ tháng 6/1928. VNQDĐ quyết định mở các cửa hàng nhằm cung cấp tài chính cho các cuộc ám sát.
Cuộc họp ngày 02/09/1928
Cuộc họp diễn ra ở số 5 đường Sơn Tây (Route de Sơn Tây, Hà Nội) do Nguyễn Thái Học chủ trì. Ông đã khen ngợi 19 đảng viên bất chấp các vụ bắt bớ của Pháp vẫn tới dự họp. Ông kêu gọi các đảng viên hy sinh vì đất nước để một ngày nào đó lá cờ độc lập có thể tung bay trên đất Việt Nam, làm biến mất vĩnh viễn lá cờ của Pháp. Chương trình nghị sự của cuộc họp gồm: cử đại biểu đến Vân Nam, Quảng Châu và Quảng Tây cũng như các vùng biên giới để tiến hành các chiến dịch tuyên truyền ủng hộ đảng. Gửi đại biểu đến gặp Phan Bội Châu để thảo luận các vấn đề tuyệt mật. Thành lập Khách sạn Việt Nam để đại biểu các tỉnh có thể lưu trú trong thời gian ở Hà Nội cũng như tăng thêm nguồn tài chính cho đảng. Thành lập tờ báo xuất bản bằng chữ quốc ngữ, tăng cường xuất bản sách về cách mạng. Yêu cầu con của các đảng viên khi trưởng thành phải gia nhập đảng, tăng mức độ tuyên truyền trong lính bản xứ (khố đỏ và khố xanh). Phân phát bản tổng kết hoạt động của đảng trong tháng 7 và 8. Cũng trong cuộc họp này, số đầu tiên của Hồn Cách Mạng đã được phát cho các đại biểu nhưng các đại biểu đánh giá là có nội dung không phù hợp với trình độ của đa số đảng viên.
Cuộc họp ngày 01/11/1928
Cuộc họp diễn ra tại ngõ Bourrin (phố Yên Ninh ngày nay, Hà Nội) do Nguyễn Thái Học chủ trì. Ông đã quyết định quyên góp tiền để đưa các đại biểu sang Trung Quốc. Hội nghị bàn về những đảng viên được cử đi sang Trung Quốc. Báo cáo tài chính tháng 9 và 10 không hoàn tất và phiên họp bất thường được quyết định diễn ra vào ngày 11/11.
Cuộc họp ngày 11/11/1928 tại Khách sạn Việt Nam
Trong cuộc họp này, ba đại biểu đã được cử sang Trung Quốc và các đảng viên được kêu gọi quyên góp tiền để chi trả cho chuyến đi này. VNQDĐ cũng quyết định gửi 100 đồng hỗ trợ Nguyễn Ngọc Sơn quay về Bắc Kỳ. Các đảng viên thống nhất đóng 5% lương hoặc thu nhập. Cuộc họp cũng ca ngợi lòng dũng cảm của các đảng viên đương đầu với những hiểm nguy trong hành động cách mạng, tổng kết tài chính tháng 9 và 10 của đảng, chương trình hành động. Tạp chí Hồn Cách Mạng số thứ 2 với những thay đổi về nội dung cho phù hợp được phát cho các đại biểu dự họp. Chính trong cuộc họp này mà kế hoạch ám sát Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã được đưa ra. Sự sụp đổ của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức Thủ tướng) Pháp Poincaré xoa dịu các lo ngại của các đảng viên của Tổng bộ. Họ cho rằng sự kiện này sẽ ngăn viên Toàn quyền rời khỏi Đông Dương.
Cuộc họp ngày 25/12/1928
Cuộc họp diễn ra tại phố Charron kéo dài (phố Mai Hắc Đế ngày nay, Hà Nội), vẫn do Nguyễn Thái Học chủ trì với sự tham dự của các đại biểu của nhiều tỉnh. Điều lệ đảng đã có những sửa đổi, được sao chép và phân phát cho các đảng viên dự họp. Tổng bộ cũ kết thúc nhiệm kỳ và Tổng bộ mới ra đời phù hợp với điều lệ vừa được sửa đổi. Các ban Lập pháp và Hành pháp cần phải được thành lập. Cuộc họp tiến hành bầu thành viên của ban Lập pháp, sau đó chỉ định các thành viên của Ủy ban thuộc ban Hành pháp. Các đại biểu khác được phân bổ về hai bộ. Trước khi giải tán, Tổng bộ cũ đã đọc các báo cáo về tình hình của đảng, dự đoán về một sự can thiệp từ bên ngoài, những quan hệ cần duy trì để đạt được các mục tiêu: Nguyễn Thái Học và Tú Tiềm được chỉ định để hoàn thành sứ mệnh bên Trung Quốc. Cuối cuộc họp, tổng bộ cũ đã trao lại quyền cho tổng bộ mới và cuộc họp tiếp theo dự kiến diễn ra ngày 01/01/1929.
Cuộc họp ngày 01/01/1929 vẫn tại địa điểm cũ. Đây là cuộc họp của Ban Hành pháp và Lập pháp. Ban Hành pháp do Nguyễn Khắc Nhu chủ trì, Lê Xuân Hy là Phó chủ tịch. Ban Hành pháp do Nguyễn Thế Nghiệp làm Chủ tịch, Lê Văn Phúc là Phó chủ tịch. Nguyễn Khắc Nhu đọc diễn văn nói về tình hình đất nước bị quân Pháp chiếm đóng, mọi tự do bị bóp nghẹt và đảng phải sử dụng mọi sức mạnh để phát động cách mạng. Nguyễn Thế Nghiệp giải thích về các quy chế liên quan đến việc phân chia Tổng bộ thành hai ban. Mục đích của biện pháp này là dẫn tới nguyên tắc phân chia quyền lực. Các quyết định khác được xem xét kỹ lưỡng.
Vừa trở về từ Nam Kỳ, Nguyễn Ngọc Sơn, đã báo cáo kết quả của các hoạt động tuyên truyền, những kết nối liên lạc với Nguyễn An Ninh, Trần Nguyên Phú và Nguyễn Đinh Kiêm.
Cuộc họp ngày 20/01/1929
Cuộc họp được tiến hành tại nhà của Hoàng Thúc Gị, phố Goussard (phố Thái Phiên ngày nay, Hà Nội). Trước tình hình tài chính đáng lo ngại của Khách sạn Việt Nam, ông kêu gọi các đảng viên quyên góp tiền để duy trì sự tồn tại của nhà nghỉ.
Cuộc họp ngày 02/02/1929, cũng vẫn tại nhà Hoàng Thúc Gị
Đây là cuộc họp cuối cùng, với vấn đề chính được nêu ra là việc quản lý kém Khách sạn Việt Nam của Hoàng Văn Đào tức Mỹ Hữu Đào. Một số đảng viên đề nghị thành lập một số nhà nghỉ tự quản mỗi tỉnh.
Nguyễn Thái Học, Nguyến Thế Nghiệp dự kiến việc kinh doanh nhà nghỉ là nguồn thu thường xuyên của đảng, để không phải quyên góp tiền từ các đảng viên. Đề nghị này từng được trình lên trong cuộc họp hồi tháng 7/1928 và đã được chấp nhận dù có những phản đối.
Tháng 9/1929 Nguyễn Thái Học đi Thanh Hóa và quyết định giao cho Hoàng Văn Đào làm chủ nhà nghỉ. Khách sạn Việt Nam mở cửa từ ngày 26/10 tại phố Hàng Bông.
Nguồn thu của VNQDĐ mỗi quý ước chừng 2.000 đồng và ngày 01/01/1929, đảng ra quyết định quyên góp tiền bằng cách trích 5% lương hoặc thu nhập của các đảng viên. Khách sạn Việt Nam được lập ra nhằm cung cấp tài chính cho hoạt động tuyên truyền, nhưng trên thực tế, nó lại ngốn phần lớn nguồn tài chính của đảng và duy trì tồn tại nhờ vào tiền quyên góp tự nguyện từ đảng viên.
Cũng trong cuộc họp, người soạn thảo chương trình hành động của VNQDĐ là Ngô Văn Triện ( tức Trúc Khê) đã nêu ra những điều kiện của một nhà tuyên truyền giỏi : có thể chất, trí tuệ và đạo đức tốt. Ông cũng đưa ra những lời khuyên trong việc tuyển thêm đảng viên, xem xét cá nhân cũng như cách tiếp cận tiếp xúc.
Thư của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Piétri gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 17.12.1929 về việc một số đảng viên VNQDĐ tìm cách đi sang Nga
Phiên tòa ngày 02/07/1929 xét xử các đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng
Ngày 29/02/1929, tên trùm mộ phu Bazin bị ba đảng viên của VNQDĐ là Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung (Ký Cao) ám sát.
Trong bốn tháng sau đó, Pháp đã tiến hành bắt bớ 227 người, ba người trốn thoát. Cũng theo báo cáo này, nhà tù Hỏa Lò - nơi giam giữ 227 tù nhân không đáp ứng được các điều kiện giam giữ cần thiết số lượng tù nhân chính trị lớn như vậy. Bản báo cáo của Brides khẳng định toàn bộ 227 người trên đều tham gia các phong trào đấu tranh chống Pháp, phần lớn trong số những người bị Pháp kết án làm việc trong chính quyền Pháp hoặc bản xứ :
Thư ký các tòa Công sứ : 8 người
Giáo viên bản xứ trường tư thục : 4 người
Giáo viên dạy chữ Hán : 2 người
Sinh viên : 6 người
Nghị viên, hội viên, nhân viên trong chính quyền bản xứ : 13 người
Phóng viên : 4 người
Nhân viên : 10 người
Thư ký tại các cơ quan chính quyền khác : 28 người
Giáo viên dạy tại các cơ sở công : 36 người
Địa chủ, làm nông, thầy lang : 37 người
Buôn bán, thợ thủ công và các nghề khác : 39 người
Quân đội : 40 người
Ngày 02 và 03/07/1929, Tòa Đại hình Bắc Kỳ tuyên án 227 người bị bắt, 147 người trong số đó được miễn tố do vai trò của họ trong các cuộc đấu tranh, 78 người bị kết án. Tình hình sức khỏe của Hồ Văn Mịch rất yếu, ông ho ra máu và được chuẩn đoán chỉ còn sống được ít ngày .
Kết án vắng mặt :
Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Dương Hạc Đình : 20 năm tù giam ;
Nguyễn Tường Loan : 10 năm tù giam
Nguyễn Như Hy : 5 năm tù giam
Nguyễn Văn Viên (Hà Nội) : 15 năm tù giam
Nguyễn Văn Viên (Bắc Ninh): 10 năm tù giam
Kết án :
Phạm Tuấn Tài : 15 năm tù giam
Hoàng Thúc Gị : 10 năm tù giam
Nguyễn Ngọc Sơn : 10 năm tù giam
Lê Văn Phúc : 10 năm tù giam
Tương Đan Bảo: 10 năm tù giam
Nguyễn Thế Nghiệp : 10 năm tù giam
Đào Khắc Hùng (tức Đào Nam Hinh, Đào Hinh, Đào Hinh Nam) : 10 năm tù giam
Nguyễn Thái Trác : 5 năm tù giam
Hồ Văn Mịch : 5 năm tù giam
Hoàng Trác : 10 năm tù giam
Hoàng Phạm Trân (tức Nhượng Tống), Lê Xuân Hy (tức Cử Hy), Nguyễn Văn Năng, Trần Văn Môn, Đặng Xuân Tiếp, Phạm Hữu Phùng, Nguyễn Công (Ngọc) Riêu, Hoàng Hồ, Lê Văn Chu, Đoàn Mạnh Chế, Trần Bích, Phạm Duy Kiêu (tức Hàn Kiêu), Nguyễn Danh Doi, Đặng Đình Hướng, Nguyễn Văn Đàm : 5 năm tù giam
Lê Thành Vị, Chu Dưỡng Bình, Phạm Hữu Chinh, Phạm Tiềm, Trương Văn Tân, Đặng Đình Diên, Nguyễn Văn Kệch, Đoàn Tiệp (tức Phó Tiệp), Nguyễn Văn Khoa (có sách ghi là Khác), Đào Danh Hợi, Đào Viết Chuyên, Trần Hưng Long, Đặng Ngọc Như (tức Giáo Như), Nguyễn Canh Hoan, Nguyễn Trọng Phú, Trần Bình Kim, Nguyễn Đăng Đóa, Phùng Văn Đê : 5 năm tù giam
Nguyễn Hữu Đạt, Hà Đức Vong, Hoàng Văn Đào, Chu Văn Phác, Nguyễn Văn Loan, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Kim Ngữ, Vũ Đức Hiền, Trần Xuân Ngưỡng, Vũ Tá Chu, Trần Văn Chinh, Ngô Thúc Địch, Lê Văn Quyền, Đặng Minh Phụng, Lê Đức Phong, Liễu Bá Dung, Nguyễn Văn Vỵ, Nguyễn Duy Cương, Phạm Hữu Nữu, Phạm Liên Hoa, Ngô Văn Triên, Trịnh Thế Hưng, Lê Trọng Dang, Nguyễn Văn Tôn, Lê Văn Tô, Nguyễn Thư Hoàng, Lê Duy Châu, Nguyễn Văn Tâm, Phó Đức Chính, Nguyễn Đức Phương, Mai Ngọc Thiệu (Cả Sâm), Nguyễn Huy Viên, Phạm Minh Đức : 2 năm tù giam
Nguyễn Hữu Đạt, Chu Dưỡng Bình, Phạm Hữu Chinh, Phạm Tiềm, Hà Đức Vương, Nguyễn Văn Loan, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Kim Ngữ, Vũ Đức Hiền, Trần Xuân Ngưỡng, Đặng Đình Diên, Trần Văn Chinh, Ngô Thúc Địch, Lê Văn Quyền, Đặng Minh Phụng, Lê Đức Phong, Liễu Bá Dung, Phạm Hữu Nữu, Ngô Văn Triện, Trịnh Thế Hưng, Lê Văn Tô, Nguyễn Thư Hoàng, Nguyễn Văn Tâm, Phó Đức Chính, Nguyễn Đức Phương, Nguyễn Huy Viên tạm thời được hoãn thi hành án.
Mật thám Pháp cũng cho rằng VNQDĐ đứng sau vụ ám sát Trịnh Thị Nhu và Trịnh Thị Uyển ở Hải Phòng. Hai người này bị nghi ngờ đã phản bội VNQDĐ và vụ ám sát này có nhiều điểm khá tương đồng với vụ ám sát trùm mộ phu Bazin.
Viên Chánh án Tòa đại hình Bắc Kỳ đánh giá VNQDĐ đã hoạt động khá thành công, khi kết nạp nhiều đảng viên là viên chức làm việc trong chính quyền Pháp hay chính quyền bản xứ. Hơn thế, chỉ trong thời gian ngắn (hơn 1 năm), Nguyễn Thái Học và các cộng sự của ông đã biến tổ chức quy mô nhỏ là Nam Đồng thư xã thành một đảng chính trị chống Pháp có quy mô lớn, với các ban Lập Pháp, Hành pháp, Tòa án tối cao. Tháng 12/1928, mật thám Pháp ước tính VNQDĐ khoảng 800 đảng viên thuộc 70 chi bộ và đến tháng 2/1929, khoảng 1540 đảng viên thuộc 120 chi bộ.
Danh sách các bắt bớ đảng viên VNQDĐ tại các tỉnh
Chuẩn bị
Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, và Phó Ðức Chính bị mật thám vây bắt hụt tại làng Võng La, tổng Hạ Bì, huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) ngày 8-12-1929. Tuy nhiên, để qua mặt Pháp, các ông lại triệu tập đại hội ngay tại Võng La ngày 26-1-1930, gồm khoảng 20 đại biểu các tỉnh miền Trung du Bắc Kỳ. Sau khi kiểm điểm tình hình, Nguyễn Thái Học tuyên bố:
“… Người ta bảo: cần phải đứng trước ở chỗ không thua! Nhưng chúng ta thì đứng trước ở chỗ thua mất rồi! Thế nhưng liệu chúng ta hãy hoãn để tổ chức lại rồi mới đánh có được không? Tôi tin rằng không thể được! Cuộc đời là cả một canh bạc, gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch hết cả vốn. Gặp thời thế không chiều mình, đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã xen vào trong đầu óc quần chúng, khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng, thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi của sẽ không tiếp, người sẽ bị bắt lần, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam, âu là chết đi để lại cái gương hy sinh phấn đấu cho người sau nối bước. Chúng ta “không thành công thì thành nhân”, có gì mà ngần ngại. ”
Nguyễn Thái Học trình bày xong, một đảng viên tên là Trần Hải tiếp lời:
“Chúng ta có cả ngàn chi bộ dân sự, 4, 5 trăm chi bộ nhà binh, cùng sự ủng hộ của đồng bào, lực lượng chúng ta không đến nỗi yếu kém! Chúng ta đã đứng vào cái thế cưỡi cọp, không thể lùi bước được nữa! Tôi đề nghị đảng ta ra lệnh tổng khởi nghĩa.(29)
Khi hỏi ý kiến để lấy quyết định chung, toàn thể những người có mặt trong hội nghị Võng La đều biểu quyết đồng tâm tổng khởi nghĩa, nhưng hội nghị này chỉ bàn thảo kế hoạch thực hiện ở Hưng Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ và Yên Bái. Những tỉnh trung du nầy đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khắc Nhu.
Sau đó một hội nghị khẩn cấp khác được Nguyễn Thái Học triệu tập tại làng Mỹ Xá, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, mới phân công kế hoạch khởi nghĩa ở Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Ðáp Cầu, Phả Lại. Các tỉnh miền đồng bằng do Nguyễn Thái Học điều động. Riêng tỉnh Sơn Tây do Phó Ðức Chính phụ trách. Tại Hà Nội, VNQDĐ xét thấy chưa đủ thực lực để khởi nghĩa, nên chỉ giao cho Ðặng Trần Nghiệp tức Ký Con (30) chỉ huy đoàn quân cảm tử làm nghi binh để cầm chân quân Pháp.
Ngày trọng đại được chọn là tối mồng 9 rạng mồng 10-2-1930. Các nhà lãnh đạo chọn ngày nầy để khởi nghĩa vì mồng 10-2 dương lịch là mồng 1 Tết âm lịch năm canh ngọ. Nhân dịp Tết cổ truyền, dân chúng thường đi lại mua bán tấp nập, người Việt Nam lại có tập tục đốt pháo để mừng xuân, là cơ hội thuận tiện cho việc chuyển quân và vũ khí được dễ dàng. Tuy nhiên, vào phút chót, vì sự liên lạc khó khăn, việc tập họp đảng viên gặp trở ngại nên các tỉnh miền đồng bằng như Hải Dương, Hài Phòng, Kiến An cử người tìm gặp Nguyễn Thái Học, xin hoãn cuộc tổng khởi nghĩa đến ngày 15-2-1930. Nguyễn Thái Học liền phái người báo cho Nguyễn Khắc Nhu, nhưng đã quá trễ nên nhiều nơi vẫn nổi lên tối mồng 9-2.
Trước hoàn cảnh cùng cực của người dân, trước sự ruồng bố gắt gao của Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng quyết định Tổng Khởi Nghĩa vào ngày 10-2-1930 sau phiên họp lịch sử của VNQDĐ tại Võng La làng Mỹ Xá ngày 26 tháng Giêng năm 1930, dưới sự chủ toạ của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu (Xứ Nhu) và Phó Đức Chính. Cũng trong phiên họp lịch sử này, Nguyễn Thái Học đã để lại cho hậu thế câu nói bất hủ “KHÔNG THÀNH CÔNG CŨNG THÀNH NHÂN”.
Sáng sớm ngày 10 tháng 2 năm 1930, Quân Cách Mạng đồng loạt tấn công nhiều cứ điểm quân sự của Pháp ở khắp nơi: Tấn công Yên Báy, Lâm Thao, Hưng Hóa; ném bom cầu Long Biên, nội thành Hà Nội; đánh Đáp Cầu, Phả Lại; tấn công đồn binh Pháp Kiến An; đánh Phủ Dực, Vĩnh Bảo, Thái Bình; giết chết nhiều sĩ quan, binh lính địch và chiếm nhiều căn cứ của thực dân. Đặc biệt, trên mỗi tay áo các chiến sĩ VNQDĐ đều có gắn chữ “Cách Mạng Quân”, với khăn choàng trước ngực có hàng chữ : “THỀ CHẾT GIẾT GIẶC PHÁP, LIỀU MÌNH CỨU DÂN NAM”.
Quân Pháp với vũ khí tối tân đã phản công mạnh bạo khiến cho quân Khởi Nghĩa cuối cùng bị đẩy lui vì phương tiện còn thiếu thốn. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt. Đảng trưởng Nguyễn Thái Học trốn thoát nhưng cuối cùng bị sa lưới quân thù vào ngày 20/2/1930 tại ấp Cổ Vịt vì ông nhất định ở lại, sống chết cùng các đồng chí, không chịu trốn sang Trung Hoa lưu vong.
Khi hỏi ý kiến để lấy quyết định chung, toàn thể những người có mặt trong hội nghị Võng La đều biểu quyết đồng tâm tổng khởi nghĩa, nhưng hội nghị này chỉ bàn thảo kế hoạch thực hiện ở Hưng Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ và Yên Báy. Những tỉnh trung du nầy đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Khắc Nhu.
Sau đó một hội nghị khẩn cấp khác được Nguyễn Thái Học triệu tập tại làng Mỹ Xá, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, mới phân công kế hoạch khởi nghĩa ở Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Ðáp Cầu, Phả Lại. Các tỉnh miền đồng bằng do Nguyễn Thái Học điều động. Riêng tỉnh Sơn Tây do Phó Ðức Chính phụ trách. Tại Hà Nội, VNQDĐ xét thấy chưa đủ thực lực để khởi nghĩa, nên chỉ giao cho Ðặng Trần Nghiệp tức Ký Con (30) chỉ huy đoàn quân cảm tử làm nghi binh để cầm chân quân Pháp.
Ngày trọng đại được chọn là tối mồng 9 rạng mồng 10-2-1930. Các nhà lãnh đạo chọn ngày nầy để khởi nghĩa vì mồng 10-2 dương lịch là mồng 1 Tết âm lịch năm canh ngọ. Nhân dịp Tết cổ truyền, dân chúng thường đi lại mua bán tấp nập, người Việt Nam lại có tập tục đốt pháo để mừng xuân, là cơ hội thuận tiện cho việc chuyển quân và vũ khí được dễ dàng. Tuy nhiên, vào phút chót, vì sự liên lạc khó khăn, việc tập họp đảng viên gặp trở ngại nên các tỉnh miền đồng bằng như Hải Dương, Hài Phòng, Kiến An cử người tìm gặp Nguyễn Thái Học, xin hoãn cuộc tổng khởi nghĩa đến ngày 15-2-1930. Nguyễn Thái Học liền phái người báo cho Nguyễn Khắc Nhu, nhưng đã quá trễ nên nhiều nơi vẫn nổi lên tối mồng 9-2.
Một điều cần ghi nhận cuối cùng là trước ngày khởi nghĩa, đảng Cộng Sản Ðông Dương rải truyền đơn tố cáo Việt Nam Quốc Dân Ðảng sắp tấn công Bắc Kỳ; cô Giang đưa cho Nguyễn Thái Học xem truyền đơn này, nhưng Nguyễn Thái Học “lấy lòng quân tử đo bụng tiểu nhân”, không tin là những người cộng sản lại có thể làm như vậy được.
1. Tấn công Yên Báy
Cuộc tấn công Yên Báy do Nguyễn Văn Khôi (Thanh Giang), Nguyễn Nhật Thân cùng cai khố đỏ Ngô Hải Hoằng (Cai Hoằng) chỉ huy. Nguyễn Thị Bắc và Nguyễn Thị Giang lo chuyển vận vũ khí và tiếp tế đạn dược. Số đảng viên huy động từ các vùng lân cận về Yên Báy lên đến khoảng 300 người. Cơ sở quân sự của Pháp tại Yên Báy gồm hai trại: trại dưới nằm ở ngọn đồi trong thành phố do đại uý Jourdain chỉ huy, trại trên tọa lạc trên ngọn đồi xa thành phố, gọi là đồn cao, do thiếu tá Le Tacon chỉ huy.
Lúc 1 giờ sáng 11-2, Ngô Hải Hoằng ra lệnh tấn công trại dưới, giết đại uý Jourdain, trung uý Robert, bốn trung sĩ Pháp, và hoàn toàn làm chủ tình thế lúc 4 giờ sáng. Nghĩa quân chuẩn bị tấn công đồn cao thì máy bay Pháp từ Hà Nội lên phản công. Nghĩa quân phải rút lui vào rừng. Chiều 11-2, Pháp xử tử tại chỗ hai cấp chỉ huy nghĩa quân bị Pháp bắt là Cai Nguyên, và Cai Tính.
2. Tấn công Hưng Hóa, Lâm Thao
Cuộc tấn công này do Nguyễn Khắc Nhu (1883-1930) chỉ huy. Nguyễn Khắc Nhu, còn gọi là Xứ Nhu vì trong một kỳ thi, ông đậu đầu xứ tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang, sinh quán của ông. Lúc 1 giờ sáng 11-2, Nguyễn Khắc Nhu ra lệnh tấn công và xung phong vào đồn Hưng Hóa, nhưng bên trong phòng thủ chặt chẽ nên không chiếm được. Ðến 3 giờ sáng, Nguyễn Khắc Nhu đổi hướng tấn công, đánh chiếm phủ Lâm Thao. Tri phủ Ðỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Quân Pháp từ Phú Thọ tiến qua đánh trả. Nguyễn Khắc Nhu bị trọng thương, dùng lựu đạn tự sát nhưng không chết. Ông bị Pháp bắt, bèn tự tử ngay liền trong nhà giam Hưng Hóa.
3. Chuẩn bị đánh Sơn Tây
Sau khi thất bại ở yên bái, Phó Ðức Chính (1897-1930) trốn thoát về Sơn Tây. Ngày 13-2, Phó Ðức Chính cùng Cai Tân, Nguyễn Văn Khôi (Thanh Giang) họp tại nhà Quản Trạng, xã Nam Man, tổng Cẩm Hương, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây, để chuẩn bị lực lượng tấn công tỉnh này, thì bị quân Pháp đến bắt tất cả giải về Hà Nội, vì có kẻ chỉ điểm.
4. Quấy rối Hà Nội
VNQDĐ tự xét thực lực ở Hà Nội không đủ sức nổi dậy nên chỉ quấy rối đe dọa nhà cầm quyền Pháp mà thôi. Ðược tin Yên Báy khởi nghĩa, Lương Ngọc Tốn trong ban ám sát của VNQDĐ, tấn công viên đội cảnh sát gác cầu Long Biên. Ðặng Trần Nghiệp (Ký Con) và một số đảng viên chia nhau đi cắt đường dây điện thoại, ném bom vào một số cơ sở như ngục thất Hỏa Lò, trụ sở cảnh sát…
Những hoạt động này không mấy hiệu quả và cũng ít gây tiếng vang. Ngược lại, nhà cầm quyền Pháp báo động khắp nơi, việc phòng thủ càng thêm chặt chẽ làm cho cuộc nổi dậy trở nên khó khăn hơn. VNQDĐ chuẩn bị tấn công Ðáp Cầu, Phả Lại, Kiến An, nhưng cuối cùng phải thoái lui vì lực lượng tập họp không đầy đủ đúng hạn, và cũng vì quân Pháp biết trước, canh phòng cẩn mật, phá vỡ những chỗ chôn cất vũ khí, và chận bắt các đảng viên.
5. Tấn công Phụ Dực, Vĩnh Bảo
Lúc 8 giờ tối, Hòa Quang Huy, Ðào Văn Thê (Giáo Thê) cùng Nguyễn Văn Hộ chỉ huy 40 đảng viên võ trang đánh úp huyện Phụ Dực, tỉnh Thái Bình. Viên tri huyện trốn thoát. Nghĩa quân tịch thu được một số khí giới, tập họp dân chúng để tuyên truyền. Sáng hôm sau, nghĩa quân dự trù kéo qua đánh Ninh Giang (Hải Dương), nhưng đợi mãi không thấy các cánh quân khác, nên cuối cùng tự giải tán.
Tại Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, ngày 15-2, nghĩa quân cử Trần Quang Diệu giả đến mật báo cho tri huyện Hoàng Gia Mô (cháu nội Hoàng Cao Khải) có một số quân cách mạng hội họp ở làng Cổ Am. Hoàng Gia Mô lo sợ liền đi báo đồn Pháp ở Ninh Giang (tỉnh Hải Dương). Họ Hoàng đi khỏi, nghĩa quân liền vào chiếm huyện lỵ Vĩnh Bảo mà không gặp sức kháng cự nào. Trong khi đó, trưởng đồn Ninh Giang cấp cho Hoàng Gia Mô sáu lính khố xanh, sáu súng trường và một số đạn. Họ Hoàng khôn ngoan cho xe chở lính về trước để thăm dò còn tự mình đi xe kéo tay theo sau. Xe chở lính bị tấn công, họ Hoàng biết được liền lẩn trốn, nhưng rồi cũng bị bắt, và bị nghĩa quân kết án tử vì tội tham ác. Thi hành xong bản án trên, nghĩa quân rút lui êm thấm.
Phản Ứng Của Pháp
Nhà cầm quyền Pháp tại Bắc kỳ phản ứng giận dữ trước các cuộc tấn công của VNQDĐ. Tại Hà Nội, Pháp đóng cửa các công sở ngày 11-2, cho quân đội vũ trang đứng gác khắp các ngả đường, khám xét người qua lại. Pháp tăng phái quân đội đi cứu viện những tỉnh bị tấn công, gửi máy bay lên Yên Bái đẩy lui nghĩa quân ngày 11-2. Ngày 12-2, toàn quyền Pierre Pasquier dùng xe lửa lên Yên Bái dự tang lễ các sĩ quan Pháp bị giết trong cuộc khởi nghĩa của VNQDĐ. Trước khi xe lửa chở y đến Yên Bái khoảng 20 phút, hai trái bom được liệng vào phá sập một phần nhà ga.
Ngày 16-2 Pháp cho năm phóng pháo cơ đến ném 57 quả bom loại 10 ký xuống khắp làng Cổ Am, đốt cháy rụi làng nầy, làm cho 21 thường dân thiệt mạng. Vào lúc bấy giờ, vũ khí chưa tân tiến như ngày nay, việc máy bay ném bom đốt làng là một cuộc tấn công vô cùng ghê gớm chưa từng thấy ở Việt Nam, làm cho mọi người khiếp đảm.
Thống sứ Bắc Kỳ René Robin (32) gửi điện tín cho công sứ Pháp ở các tỉnh, trong đó có đoạn: “…Village Coam, province de Haiduong, où s’ était réfugiée bande rebelles ayant mis à mort sous préfêt de Vinhbao, a été bombardé hier par escadrille Hanoi. Vous prie donner large publicité et ajoute que tout village qui se mettra dans situation analogue subira impitoyablement le même sort.” (33) (tạm dịch:”….Làng Cổ Am, tỉnh Hải Dương, nơi bọn cướp ẩn trốn sau khi giết viên tri huyện Vĩnh Bảo, ngày hôm qua đã bị một tiểu phi đội Hà Nội đến dội bom. Yêu cầu các ông thông báo rộng rãi, và thêm rằng bất cứ làng nào làm như thế, đều sẽ chịu chung số phận không thương xót.”)
Ngoài Cổ Am, Pháp còn cho quân đến đốt phá các làng mà Pháp nghi ngờ có sự hiện diện của VNQDĐ. Pháp cho người lùng bắt gắt gao đảng viên VNQDĐ cũng như tất cả những ai liên hệ đến VNQDĐ.
Một điều bất lợi cho VNQDĐ là các lãnh tụ đảng dần dần bị bắt. Những nhà hoạt động cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa cử Ðoàn Kiểm Ðiểm về nước quan sát tình hình, và mời Nguyễn Thái Học sang Trung Hoa lánh nạn một thời gian. Những đồng chí của Nguyễn Thái Học cũng khuyên ông nên ra nước ngoài, nhưng ông Nguyễn cương quyết từ chối đề nghị nầy, vì ông cho rằng ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về những biến động vừa qua, nên ông quyết ở lại trong nước lo cải tổ và xây dựng lại đảng, để làm tròn sứ mạng phục quốc.
Sau cuộc họp tại làng Trụ Thôn, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Thái Học tiếp tục lên đường đi công tác, cùng một số đồng chí ngang qua đồn điền người Pháp tên Clébert ở làng Cổ Vịt huyện Ðông Triều tỉnh Hải Dương, thì bị các tuần phu bắt sáng ngày 20-2-1930. Nguyễn Thái Học bị đưa đến tòa sứ Hải Dương, rồi về Hà Nội. Trần Quang Diệu bị bắt vào tháng 5-1930 tại Thái Nguyên.
Về phần Ký Con Ðặng Trần Nghiệp, ông bị người Pháp lùng bắt gắt gao ở Hà Nội, phải xuống Hải Phòng trốn tránh. Tại đây cũng không được yên, Ký Con đến Nam Ðịnh, và bị mật thám Pháp bắt vào giữa tháng 6-1930. Về sau, theo nguồn tin của một nhân viên sở mật thám Nam Ðịnh, ông Phán Tảo, thì chính một đảng viên Ðông Dương Cộng Sản Ðảng đã chỉ điểm cho viên giám đốc nha Liêm Phóng Ðông Dương là Louis Marty; Marty liền ra lệnh cho mật thám Hà Nội xuống Nam Ðịnh bắt Ký Con, mà sở mật thám Nam Ðịnh không hay biết.
Sau khi Ký Con bị vào tù, những đảng viên còn lại đã họp nhiều lần để cải tổ đảng, nhưng rồi những nhà lãnh đạo cũng lần lượt bị người Pháp bắt như Lê Hữu Cảnh (tạm quyền lãnh đạo đảng), Lê Thị Thành, Nguyễn Xuân Huân (tháng 7-1930 tại Hải Phòng), Lê Tiến Sự, Nguyễn Ðôn Lâm, Phạm Văn Hể, Nghiêm Toản,(35) (tháng 8-1930), Hoàng Ðình Gị, Hoàng Ðình Vỹ, Ðỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Vân, Trần Xuân Ðộ (tháng 9-1930)…
Sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa Yên Báy, thực dân Pháp tiến hành một chiến dịch khủng bố tàn bạo. Ngày 14-2-1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ký Nghị định thành lập Hội đồng đề hình (do Thanh tra hành chính Bắc Kỳ Poulet Osier làm chánh Hội đồng) để xét xử vụ án Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sự lùng bắt đảng viên, triệt phá cơ sở đảng diễn ra khắp nơi. Các cơ sở của VNQDĐ tại các địa phương (làng Cổ Am, làng Điền Niên, phố Hàng Bè…) đều chịu sự khủng bố dã man của thực dân Pháp. Đa số các đảng viên VNQDĐ đều bị bắt, tống giam, đưa ra xét xử trước Hội đồng đề hình.
Ngày 20-2-1930, thực dân Pháp bắt được Nguyễn Thái Học và Sư Trạch tại ấp Cổ Vịt (xã Cộng Hòa, Chí Linh, Hải Dương), sau đó giải về tạm giam ở nhà tù Hỏa Lò, chờ ngày xét xử. Cũng tại đây, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí bí mật viết một tờ báo là Tù nhân báo để cổ vũ tinh thần các đồng chí và tuyên truyền cách mạng trong các phòng giam. Sau đó, ông được áp giải lên Yên Báy để xét xử.
Đây là loạt bài trên Phụ nữ Tân Văn năm
1930 thuật lại "vụ Yên Báy".
hoặc
Và đây là Phụ nữ tân văn số 58, số báo quan trọng nhất:
Ý nghĩa lịch sử của khởi nghĩa Yên Báy
- Nói lên lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường bất khuất vì Độc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc cho toàn dân.
Tài liệu mới Lưu trữ hải ngoại quốc gia Pháp (Archives nationales d’outre-Mer – ANOM) có liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930
Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Báy thất bại, thực dân Pháp đã tiến hành một chiến dịch khủng bố rất tàn bạo. Ngày 14-2-1930, Toàn quyền Đông Dương Pasquier đã ký Nghị định thành lập Hội đồng Đề hình do Thanh tra hành chính Bắc Kỳ Poulet Osier là Chủ tịch Hội đồng để xét xử vụ án Việt Nam Quốc dân Đảng. Nghị định này cùng với một số hồ sơ về các phiên tòa do Hội đồng Đề hình mở công khai tại Hà Nội và một số nơi khác hiện nay vẫn còn được lưu giữ tại Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (fonds de la Résidence supérieure au Tonkin – RST) của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Theo tài liệu lưu trữ thì tổng số có hơn 600 đảng viên bị đưa ra xử, trên 30 người bị lĩnh án tử hình (trong đó có các lãnh tụ của đảng như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp, Trần Quang Diệu…).
Các hồ sơ lưu trữ cũng phản ánh các vụ trả thù dã man của thực dân Pháp đối với các địa phương diễn ra các cuộc khởi nghĩa vũ trang như vụ triệt hạ bằng máy bay và súng liên thanh giết chết 21 người dân vô tội ở Cổ Am (Vĩnh Bảo, Hải Phòng); các cuộc khủng bố trắng tại các làng Đồng Tải, Phong Cầu, Kha Lâm (Kiến An, Hải Phòng) và một số làng khác của tỉnh Phú Thọ…
Tuy nhiên, sự khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp đã không làm đồng bào nhụt ý chí đấu tranh. Ngược lại, cuộc khởi nghĩa Yên Báy còn có tác dụng “cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù giặc ngoại xâm. Những tấm gương hy sinh quả cảm của các chiến sĩ Yên Báy đã góp phần tiếp nối truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc”.
Âm vang của cuộc khởi nghĩa Yên Báy và sự khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp đã dội về chính quốc. Nó đã có tác động trực tiếp đến những sinh viên đang du học tại Paris và đã thổi bùng lên trong lòng họ tinh thần dân tộc, xót thương giống nòi thực sự. Những tài liệu trong phông Phủ Toàn quyền Đông Dương (Fonds du Gouvernement général de l’Indochine) của Lưu trữ hải ngoại quốc gia Pháp (Archives nationales d’outre-Mer – ANOM) tại Aix-en Provence cung cấp cho chúng ta những bằng chứng xác thực về sự phản kháng của sinh viên Việt Nam đối với những khủng bố tàn bạo của chính quyền thực dân ở Đông Dương sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Báy. Những tài liệu này cũng là những bằng chứng xác thực về việc chính phủ Pháp luôn chú ý theo dõi và đàn áp sinh viên không những ở thuộc địa mà ngay cả ở chính quốc. Đáng tiếc là những tài liệu này cho tới nay chưa từng được công bố, và cũng chưa từng được sử dụng trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào về Việt Nam Quốc dân Đảng nói chung hay cuộc khởi nghĩa Yên Báy nói riêng.
Theo trình tự thời gian, những tài liệu đó gồm:
I. Những văn bản có tính chất “thông báo” sự kiện phản kháng của 18 sinh viên du học tại Paris từ chính quốc gửi về thuộc địa.
*Công điện số 885-C.A.I ngày 13-5-1930 của Bộ trưởng Thuộc địa gửi Toàn quyền Đông Dương về đơn thỉnh cầu của các sinh viên ở Nhà nội trú của sinh viên Đông Dương tại Khu Học xá Đại học ở Paris, nội dung như sau:
“Paris ngày 13-5-1930
Bộ trưởng Thuộc địa
Gửi Ông Toàn quyền Đông Dương
Tôi hân hạnh chuyển tới Ông, để Ông được biết, bản chụp lá đơn thỉnh cầu của các sinh viên ở Nhà nội trú của sinh viên Đông Dương về những kẻ bị kết án bởi Tòa Đại hình Hà Nội.
Một lá đơn khác có cùng nội dung đã được gửi cùng ngày tới Tổng thống nước Cộng hòa [Pháp].
Công điện số 885-C.A.I ngày 13-5-1930 của Bộ trưởng Thuộc địa gửi Toàn quyền Đông Dương
Trang cuối danh sách các sinh viên Đông Dương tại Khu Học xá Paris - những người đã ký tên trong đơn gửi Bộ trưởng Thuộc địa và Tổng thống nước Cộng hòa Pháp
Ông sẽ tìm thấy kèm theo đây một bản chỉ dẫn do C.A.I lập có các thông tin về những người bản xứ ký tên trong lá đơn này.
Thừa lệnh Bộ trưởng
Giám đốc Vụ Chính trị
Đã ký: JOSEPH”
Bức điện có đóng dấu “Mật” (Secret) và dòng chữ: “Trong danh sách này có tên hai con trai của Bạch Thái Bưởi”.
Khu học xá Đại học ở Paris (Cité Universitaire à Paris)số 41 đại lộ Jourdan, Paris – quận 14. Ảnh: https://www.paris2018.com/sites/cite-universitaire/
Kèm theo công điện số 885-C.A.I ngày 13-5-1930 của Bộ trưởng Thuộc địa gửi Toàn quyền Đông Dương là bản chụp lá đơn viết ngày 12-4-1930 của 18 sinh viên Đông Dương được gửi từ Khu Học xá, Nhà nội trú của sinh viên Đông Dương, số 41 đại lộ Jourdan, Paris, quận 14, với nội dung sau:
Bản chụp toàn văn lá đơn viết ngày 12-4-1930 của 18 sinh viên Đông Dương gửi Bộ trưởng Thuộc địa và Tổng thống nước Cộng hòa Pháp. Nội dung lá đơn yêu cầu tha cho những người đã bị Tòa Đại hình Hà Nội kết án tử hình “vì lý do chính trị” và phản đối những vụ ném bom vào các làng xóm, gây chết chóc cho những người dân lương thiện của chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương.
“Paris ngày 12-4-1930
Gửi Ông Bộ trưởng Thuộc địa,
Thưa ông Bộ trưởng,
Chúng tôi ký tên dưới đây, những sinh viên người Đông Dương ngụ tại Nhà nội trú Đông Dương ở Khu Học xá hân hạnh được kêu gọi lòng khoan dung của Ông đối với 52 đồng bào của chúng tôi đã bị kết án tử hình bởi Tòa Đại hình ở Hà Nội vì lý do chính trị.
Chúng tôi kêu gọi Ông hãy vì tinh thần Công lý và Nhân đạo mà can thiệp với Tòa án tối cao để những người này được ân xá.
Mặt khác, chúng tôi vô cùng phẫn nộ đối với những trận ném bom vào các làng xóm gây nên chết chóc cho những người dân lương thiện.
Xin Ông hãy nhận của chúng tôi, thưa Ông Bộ trưởng Thuộc địa, những tình cảm đau buồn sâu sắc nhất”.
Dưới thư là chữ ký của các sinh viên.
Cũng được gửi kèm theo công điện số 885-C.A.I ngày 13-5-1930 của Bộ trưởng Thuộc địa là danh sách 18 sinh viên đã viết lá đơn trên:
“1. Trần Bá Chi: có thể là người Nam Kỳ, quốc tịch Pháp, đi từ Sài Gòn ngày 16-8-1926, hộ chiếu số 175.
2. Nguyễn Ngọc Ky: người Nam Kỳ, giấy chứng nhận căn cước số C-53513, sinh ngày11-1-1910 ở Da Phuoc, tổng Minh Dat, Bến Tre, con của Nguyễn Ngọc Tương, Tri phủ đại diện hành chính ở Xuyen Moc (Bà Rịa) năm 1928 và Bùi Thị Giàu; đi từ Sài Gòn ngày 20-8-1928.
3. Phan Ngọc Tôn: có học bổng, người Nam Kỳ, giấy chứng nhận căn cước số C-37472, sinh ngày 2-11-1010 ở Tan Kien, tổng Long Hung thuong, Chợ Lớn, con của Phan Ngọc Trinh, Tri huyện năm 1929 ở Mỹ Tho; từ Sài Gòn đi Paris ngày 3-9-1929.
4. Trương Trương Vinh: có học bổng (?), người Nam Kỳ, giấy chứng nhận căn cước số C-12083, sinh ngày 19-2-1905 ở Binh Duc, Long Xuyên, con của Trương Minh Giang, đốc phủ hạng nhất năm 1928 và được thưởng Bắc đẩu bội tinh hạng năm; đi từ Sài Gòn ngày 29-8-1910.
5. Nguyễn Sinh Nam: người Bắc Kỳ, giấy chứng nhận căn cước số T-74900, sinh năm 1911 ở Phúc Xá, tổng Phúc Lâm, huyện Hoàn Long, Hà Đông, con của Nguyễn Văn Vy tức Félix Young.
6. Trương Minh Hàm: có thể là người Nam Kỳ, sinh năm 1909 tại Sài Gòn, đi từ Sài Gòn ngày 29-6-1921, em trai của Trương Văn Xương.
7. Trương Văn Xương: người Nam Kỳ, sinh năm 1907 tại Sài Gòn, rời khỏi Sài Gòn ngày 26-6-1921, anh trai của Hàm.
8. Lê Quang Thắng: người Nam Kỳ, gốc Sa Đéc, con trai của Lê Quang Biên, quốc tịch Pháp.
9. Nguyễn Văn Tất: người Nam Kỳ, giấy chứng nhận căn cước số C-27994, sinh ngày 5-8-1902 tại Long Châu, tổng Bình Long, Vĩnh Long, con của Nguyễn Văn Thiên năm 1926 là thư ký chính hạng của Khu Hành chính Vĩnh Long, đi từ Sài Gòn ngày 25-8-1926.
10. Lê Quang Huy: không rõ tin tức ở Nhà nội trú sinh viên Đông Dương, không được nhận dạng bởi cơ quan an ninh.
11. Nguyễn Văn Nhơn Jean: có thể là người Nam Kỳ cùng tên, sinh ngày 8-7-1910 ở Phuoc Hai, tổng Bình Phước, tỉnh Trà Vinh, con của Nguyễn Văn Thuận và Nguyễn Thị Dương, đi từ Sài Gòn ngày 7-3-1927.
12. Nguyễn Huy Bao: có vẻ chắc chắn là người Bắc Kỳ cùng tên, sinh năm 1909 ở Hà Nội, số 9 đại lộ Doudart de Lagrée [phố Hàm Long], đi từ Hải Phòng ngày 26-11-1925.
13. Bạch Thái Sáu: người Bắc Kỳ, sinh năm 1908 ở Thanh Oai, Hà Đông, con của Bạch Thái Bưởi, đi từ Hải Phòng ngày 2-9-1925.
14. Lê Quang Đức: người Nam Kỳ, sinh ngày 21-8-1921 ở Sa Đéc, con trai của Lê Quang Liên, quốc tịch Pháp và Lê Thị Thi. Được phiên chế vào Pháp ngày 10-11-1928 để làm nhiệm vụ chính thức. Trong thời gian này đã có chứng chỉ học dự bị quân sự cao cấp, nằm trong tốp học sinh sĩ quan dự bị.
15. Bạch Thái Bảy: người Bắc Kỳ, em của Bạch Thái Sáu đã được chỉ rõ ở trên.
16. Thao Nhouy: người Lào, sổ đại học số 1 ngày 27-11-1929, sinh ngày 19-1-1909 ở Khong [?], Bassac [Hậu Giang], có học bổng.
17. Lê Quang Trọng: con trai của Đốc phủ quá cố Lê Quang Hiên, quốc tịch Pháp. Ở Pháp từ 1905.
18. Trần Văn Be: không rõ tin tức ở Nhà nội trú sinh viên Đông Dương, không được nhận dạng bởi cơ quan an ninh”.
II. Những tài liệu thể hiện sự chỉ đạo của chính quyền thực dân ở Đông Dương đối với hệ thống chính quyền các cấp về việc nghiên cứu và giải quyết sự kiện phản kháng của 18 sinh viên Đông Dương tại Khu học xá ở Paris.
* Công văn số 4108/SG ngày 15-7-1930 của Toàn quyền Đông Dương gửi những người đứng đầu các khu vực hành chính địa phương, Viện trưởng Viện Hàn lâm, Tổng Giám đốc Học chính Đông Dương ở Hà Nội.
Trong công văn này, Toàn quyền Đông Dương dùng từ “những người phản kháng” để chỉ số sinh viên đã gửi đơn thỉnh cầu ngày 12-4-1930 lên Bộ trưởng Thuộc địa và Tổng thống nước Cộng hòa Pháp. Phần quan trọng nhất của công văn, Toàn quyền Đông Dương viết: “Phần lớn trong số những người phản kháng là con của các kỳ hào bản xứ và nhất là nhờ địa vị của cha mẹ mà họ có thể được hưởng rất nhiều thuận lợi mà Khu học xá đem lại cho học sinh nội trú. Một vài trong số những thanh niên này được cấp học bổng, một số khác là công dân Pháp; nhiều người không còn là vị thành niên”.
Cuối cùng, Toàn quyền Đông Dương đưa ra ba chỉ thị đối với cấp dưới, nhưng thực chất là ba biện pháp nhằm trục xuất 18 sinh viên đã ký tên trong đơn và đàn áp sinh viên yêu nước:
“1. Thông báo cho cha mẹ của 18 sinh viên đã ký đơn để họ đưa con về nước.
2. Thực hiện tất cả những biện pháp cần thiết để không còn một sự việc nào tượng tự xảy ra.
3. Thông báo cho tôi [Toàn quyền] những thông tin của Sở Cảnh sát và An ninh Trung ương về những người Đông Dương chưa rõ trong danh sách”.
Tài liệu này cũng chứng tỏ rằng, mặc dù chính quyền thuộc địa đã nỗ lực trong việc tạo ra một tầng lớp trí thức thân Pháp, mục đích xây dựng một hàng ngũ tay sai cho họ về phương diện văn hóa nhưng kết quả đã đi ngược lại với mong muốn và nỗ lực của họ.
III. Những tài liệu thể hiện các biện pháp mà chính quyền thuộc địa các cấp đã thực hiện theo sự chỉ đạo của Toàn quyền Đông Dương trong việc giải quyết sự kiện phản kháng của 18 sinh viên Đông Dương tại Khu học xá ở Paris.
* Bản sao công văn “Mật” ngày 24-7-1930 của Thống sứ gửi Đốc lý Hải Phòng chỉ thị việc giải quyết vụ hai con trai Bạch Thái Bưởi ký tên vào đơn gửi Bộ trưởng Thuộc địa và Tổng thống nước Pháp xin ân xá cho những người đã bị Tòa Đại hình Hà Nội kết án tử hình (được Thống sứ Bắc Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương để báo cáo việc thực hiện công văn số 4108/SG ngày 15-7-1930 về vụ việc đã nêu).
Công văn viết:
“Tôi yêu cầu Ông triệu tập ngay Bạch Thái Bưởi đến văn phòng của Ông để báo cho ông ta biết về thái độ không thích đáng của các con ông ta. Ông đừng quên nhấn mạnh rằng sự thoải mái và sự phát triển về học vấn của chúng cũng như của cải đáng thèm thuồng mà cha mẹ chúng thu được là nhờ có sự giúp đỡ và dưới sự bảo hộ của Chính quyền Pháp.
Ông cũng tuyên bố với Bạch Thái Bưởi rằng, vì các con của ông ta, sau khi đã cân nhắc, đã tự đứng trong hàng ngũ của bọn tội phạm, những kẻ đã giết các sĩ quan của chúng ta ở Yên Bái, thì kể từ nay trở đi, chúng sẽ không bao giờ được hưởng một tí nào sự khoan dung của chúng ta nữa”.
* Bản sao công văn“Mật” ngày 26-7-1930 của Đốc lý Hải Phòng báo cáo đã triệu tập Bạch Thái Bưởi đến văn phòng thông báo việc đưa Bạch Thái Sáu và Bạch Thái Bảy về Việt Nam.
IV. Những tài liệu thể hiện sự theo dõi sinh viên Việt Nam học tại Pháp của chính quyền thuộc địa.
* Bản sao lá thư ngày 20-7-1930 của Nguyễn Văn Trí, trú tại 41 đại lộ Magenta, Paris (quận X) gửi cho bố là ông Nguyễn Văn Thinh, trú tại nhà số 1 quai Lamothe de Carrier, Nam Định trong đó có nhắc tới việc trở về của Bạch Thái Sáu (bản sao thư do Sở Mật thám gửi Thống sứ Bắc Kỳ). Đoạn cuối thư có câu: “Bố mẹ chắc chắn sẽ ngạc nhiên khi thấy Sáu tới một mình. Nhưng bố mẹ hãy tin rằng, nếu có lần con cái không vâng lời bố mẹ, thì bởi chúng không thể làm cách nào khác. Con sẽ nói với bố mẹ về việc này lâu hơn vào một dịp khác” (những câu này đã bị mật thám gạch chân. Điều đó có nghĩa là chúng đã rất đề phòng với những người trẻ tuổi có học vấn này).
* Một số công văn trao đổi dưới dạng “Kín” (Confidentielle) giữa Thống sứ Bắc Kỳ, Giám đốc Sở Mật thám, Công sứ tỉnh Thái Bình với Tổng đốc tỉnh Thái Bình, Tri huyện Đồng Quan và biên bản hỏi cung một số sinh viên Việt Nam từng du học ở Pháp về…
Những tài liệu trên đây là những cứ liệu chứng tỏ rằng, ngay cả những người có lợi ích gắn với chính quyền thực dân ở thuộc địa cũng phản đối chúng khủng bố phong trào cách mạng trong những năm 1930, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Sự trục xuất 18 sinh viên Đông Dương du học ở Pháp và sự bắt bớ, theo dõi học sinh, sinh viên Việt Nam của chính quyền thuộc địa sau khởi nghĩa Yên Bái vẫn không làm cho nhân dân ta chùn bước.
- Cổ vũ lòng yêu nước và chí căm thù trước những thế lực xâm phạm đến chủ quyền Dân Tộc nói lên ý nghĩa sáng ngời của chủ thuyết Dân Tộc Độc Lập
Không phải vô nguyên cớ mà Đảng trưởng Nguyễn Thái Học trở nên lưu danh thiên cổ trong lịch sử Việt Nam. Cái chết của ông chỉ là một trong những điều mà các thế hệ những người Việt yêu nước phải nghiêng mình kính trọng, bên cạnh đó, còn rất nhiều điều khác nữa vẫn ít khi được nhắc tới.
Trong lịch sử hôm nay, với sự mô tả rất dè sẻn dường như có chủ ý, phần lớn người Việt Nam chỉ biết đến các bậc tiền nhân Việt Nam Quốc Dân Đảng bằng thất bại và sự hy sinh mà thôi. Các ghi chép dễ tìm thấy, chỉ gói gọn trong câu chuyện Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của mình hiên ngang ra máy chém ngày 17-6-1930. Nhưng trên thực tế, một Nguyễn Thái Học nằm trong trái tim người Việt, còn là một nhà đấu tranh cải cách ôn hòa, trước khi chọn kháng chiến vũ trang như giải pháp cuối để dành độc lập tự do cho người Việt.
Từ khi là thanh niên ở độ tuổi 20, Nguyễn Thái Học từng nghĩ đến chuyện thuyết phục người Pháp để thay đổi đất nước trong hòa bình – mà đời nay, ngôn ngữ thường dùng là “góp ý xây dựng, đưa đất nước tiến bộ.”. Năm 1925, viết bằng tiếng Pháp, Nguyễn Thái Học đã từng gửi cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varene một kiến nghị cải cách nền công thương Việt Nam, thư đề nghị xây một trường Cao đẳng về công nghệ ở Hà Nội, và một dự án chi tiết về cải cách giúp cho dân nghèo Việt Nam. Nhưng nhiệm kỳ của Alexandre Varene rất ngắn ngủi (chưa đến 6 tháng – https://bit.ly/37AfdA7) nên ông này không để tâm.
Tháng 6-1927, Nguyễn Thái Học còn gửi đơn đến thống sứ Bắc Kỳ để xin phép mở một nguyệt san với mục tiêu trí-đức-thể-dục cho người Việt, có tên là Nam Thanh nhưng cũng bị nhà cầm quyền từ chối. Thật ra lúc này Nguyễn Thái Học đã bắt đầu bị mật thám lưu ý, và coi là thành phần có khả năng tuyên truyền chống chế độ, xâm phạm lợi ích của tổ chức, công dân thuộc nhà cầm quyền.
Nói như vậy để biết, mọi người yêu nước đều bắt đầu với tinh thần ôn hòa, muốn đóng góp để xây dựng đất nước. Nhưng khi họ bị chà đạp, bị áp các điều luật mơ hồ, bỏ tù… thì nguồn năng lượng tự nhiên đó, sẽ biến từ kiên nhẫn ôn hòa sang những hình thái khác. Lịch sử cho thấy rõ như vậy.
- Hành động yêu nước và sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Yên Báy, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng khi bị hành quyết là hy sinh cho tổ quốc, cho một nước Việt Nam Vạn Tuế .
Biểu thị tinh thần phản kháng dân tộc quyết liệt của thành phần trí thức trẻ với nền giáo dục ảnh hưởng cách mạng của xã hội tây phương để chống lại áp bức và chà đạp các quyền Dân Tộc Độc Lập, Tự Do Kinh tế và Tự Do Văn Hóa để mang đến mục tiêu cuối cùng cho dân tộc mà Đảng đã đề ra là Độc Lập, Tự Do và Hạnh Phúc.
Tác giả Louis Roubaud in trong cuốn sách Việt Nam, xuất bản 1931, được trích dẫn khá nhiều, viết về cuộc khởi nghĩa Yên Báy và những diễn biến tại pháp trường. Ngay ở trang đầu Roubaud đã viết: “Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! 13 lần tôi nghe tiếng hô này trước máy chém ở Yên Bái. 13 người bị kết án tử hình đã lần lượt thét lên như vậy cách đoạn đầu đài hai thước”. Tác giả cũng viết về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học: “Anh mỉm miệng cười, cực kỳ bình thản, đưa mắt nhìn đám đông công chúng và cúi đầu chào đồng bào rồi cất giọng đĩnh đạc, trầm hùng mà hô lớn: “Việt Nam vạn tuế”.
Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã dành hơi thở cuối cùng của đời mình trên mặt đất này để gọi tên hai tiếng Việt Nam trước khi bị chém.
Như hai tác giả Louis Roubaud và Hoàng Văn Đào viết, không ai trong số họ đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”.
Không phải chỉ Đảng trưởng Nguyễn Thái Học, mà những đồng chí can trường của ông cũng chưa bao giờ là người quen cầm súng hay ném bom. Hầu hết là tuổi trẻ trí thức nhưng sẳn sàng hy sinh để bảo vệ lý tưởng và chống lại cường quyền, đứng về phía nhân dân. Phó Đức Chính, người vẫn mỉm cười, bước lên cùng chịu chém đầu vào ngày 17-6, đã dũng liệt lặp lại lời của Nguyễn Thái Học “Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu. Hoa tự do phải tưới bằng máu. Không thành công thì thành nhân”. (tài liệu của đảng viên VNQDĐ Hoàng Văn Đào ghi, 1970, một phần đăng trên tuần báo Tân Dân).
Đất nước hiện đang bị lâm nguy trước họa xâm lăng của giặc bành trướng Trung Cộng phương Bắc với đảng Cộng Sản Việt Nam là tay sai, tinh thần bất khuất Yên Báy cần được toàn đảng, toàn dân gìn giữ trân trọng tiếp nối để Tổ Quốc vĩnh viễn được Độc Lập, Dân Quyền thật sự được Tự Do, Dân Sinh thật sự được Hạnh Phúc.
Tài liệu tham khảo:
https://vietquoc.org/vu-an-yen-bai-khong-thanh-cong-thi-thanh-nhan-2/#more-29826
http://www.tvvn.org/vu-an-yen-bai-khong-thanh-cong-thi-thanh-nhan-tran-gia-phung/
https://nhacsituankhanh.wordpress.com/
http://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/tai-lieu-moi-phat-hien-co-lien-quan-den-cuoc-khoi-nghia-yen-bai-nam-1930.htm
http://www.archives.org.vn/gioi-thieu-tai-lieu-nghiep-vu/viet-nam-quoc-dan-dang-qua-tai-lieu-luu-tru-hai-ngoai-phap-ky-ii-quoc-dan-dang-nhung-nam-1928-1929.htm
http://www.trantrungdao.com/?p=5259
Không có nhận xét nào