Phần 1
Trích dịch từ hồi ký của Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, A Bantam Book: New York, November 1982, các trang 194-211, 254-259 rải rác.
…Ngoài chuyện giải quyết vấn đề các quan hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc, tôi đã phải quyết định về phương cách đối xử với các sự mở đường thân thiện được đưa ra với chúng tôi bởi phía Việt Nam. Trong khoảng đầu năm 1978, phía Trung Quốc có nhắn lời với tôi rằng họ sẽ hoan nghênh sự chuyển động của chúng tôi đối với Việt Nam ngỏ hầu điều tiết các chính sách của nước đó và giữ nó nằm ngoài phe Sô Viết. Bộ Ngoại Giao nghiêng về sự thương thảo của chúng ta với cả Việt Nam lẫn Trung Quốc cùng một lúc, nhưng nhân viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và một số các thân hữu của chúng tôi tại Quốc Hội lại nghĩ rằng sẽ có một cơn bão lửa bất kỳ khi nào chúng tôi phải đối phó với vấn đề Trung Quốc – Đài Loan, và rằng vấn đề này tự bản thân sẽ là một nghị trình bận rộn. Sự chuyển động về Trung Quốc đã có một tầm quan trọng tối thượng, vì thế sau một vài tuần lễ lượng định, tôi đã quyết định đình hoãn nỗ lực về Việt Nam cho đến sau khi chúng tôi ký kết xong thỏa ước của chúng tôi tại Bắc Kinh. Sau này, khi chính phủ tại Hà Nội đã quyết định xâm lăng Kampuchea (Căm Bốt) và cũng bắt đầu khoác lên mình các trang sức của một bù nhìn của Sô Viết, chúng tôi đã không muốn theo đuổi ý tưởng này nữa.
Liệu với một sự đáp ứng tích cực hơn trước sự ngỏ lời trước đó của Việt Nam, chúng tôi đã có thể ngăn chặn hai hành động sau cùng này hay không, theo ý tôi, là điều rất đáng ngờ vực – nhưng tôi sẽ không bao giờ đoan chắc được. Đây là một câu hỏi cứ quay trở lại: liệu có nên hay không nên thừa nhận một chế độ đã lật đổ một chính phủ mà chúng tôi vốn đã từng có các quan hệ tốt đẹp. Để giải quyết vấn đề này dứt khoát một lần cho xong, tôi đã bị lôi cuốn trong vài dịp để thay đổi chính sách của Hoa Kỳ thành một chính sách chấp thuận sự thừa nhận ngoại giao tự động cho bất kỳ một chính phủ được thiết lập đầy đủ nào và trao đổi các đại sứ ngay sau khi các sự dàn xếp thỏa đáng có thể được hoàn tất. Nếu có một sự tranh chấp chưa được giải quyết trong nước giữa hai chính phủ tranh luận, chúng tôi dĩ nhiên sẽ phải đưa ra một phán quyết về ngoại giao. Sự thừa nhận tự động một chế độ không bị tranh chấp sẽ mang lại cho chúng ta một lợi thế khởi đầu tại nước không thân thiện và một cơ hội làm nhẹ bớt các sự căng thẳng, gia tăng ảnh hưởng của Mỹ, và phát huy hòa bình. Một số các nước, kể cả Pháp, theo đuổi một chính sách như thế, và xem ra nó phục vụ tốt cho họ. …
… Cuộc viếng thăm của Đặng Tiểu Bình đã là một trong những kinh nghiệm tuyệt diệu trong nhiệm kỳ Tổng Thống của tôi. Đối với tôi, mọi việc đã diễn tiến đúng đắn, và nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như cũng hài lòng không kém.
Tôi có ấn tượng tốt về họ Đặng. Ông ta thì nhỏ con, cứng rắn, thông minh, thẳng thắn, can đảm, đáng mến, tự tin, thân thiện, và thương thảo với ông ta là một điều thú vị. Trích Nhật Ký Ngày Thứ Hai, 29 Tháng Một,
Chúng tôi đã trù định ba phiên họp công tác cùng với nhau, và đã khởi đầu với một sự phân tích về thái độ của mỗi nước đối với các sự vụ trên thế giới. Họ Đặng đã yêu cầu tôi trình bày trước….
… Họ Đặng đã hình dung Việt Nam như một Cuba tại Phương Đông, với năm mươi triệu dân và một lực lượng quân sự hùng mạnh. Ông ta đã ghi nhận rằng cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều đã có các sự tiếp xúc lâu dài và khó chịu với người Việt Nam. Việt Nam và Liên Bang Sô Viết giờ đây đề xướng một hệ thống an ninh tập thể Á Châu, điều sẽ rất nguy hiểm cho phần đất đó của thế giới.
Ông nói ông không chống đối thỏa ước SALT II; rằng nó có thể cần thiết. Nhưng ông cảm thấy rằng cuộc thương thảo thứ tư này nhất định sẽ có cùng kết quả như ba lần thương thảo kia – có nghĩa, không kiềm chế được một sự tăng cường quân sự chiến lược của Sô Viết. Họ Đặng đã vạch ra rằng CHNDTQ không mong muốn chiến tranh. Phía Trung Quốc cần một thời kỳ hòa bình kéo dài để thực hiện đầy đủ các chương trình hiện đại hóa của họ. Phía Sô Viết sau rốt sẽ phóng ra chiến tranh, nhưng chúng tôi có khả năng để trì hoãn chiến tranh trong 22 năm [cho đến cuối thế kỷ]. Ông ta không nghĩ rằng chúng ta phải có một liên minh chính thức giữa Hoa Kỳ, CHNDTQ và Ấn Độ, nhưng chúng ta phải phối hợp các hoạt động của mình để kiềm chế Sô Viết. Trích Nhật Ký ngày 29, Tháng Một, 1979….
… Đối với các khu vực xáo trộn khác, tôi [Carter] đã nói ngắn gọn về những gì chúng tôi đang làm tại Iran, và nói với ông ta rằng chúng tôi muốn có một chính quyền ổn định, hòa bình ở đó, được thành lập đúng theo hiến pháp Iran. Tôi nói chúng ta tin tưởng cách hay nhất để đối xử với Việt Nam như một nước xâm lược là cô lập nó với phần còn lại của thế giới; bởi lần đầu tiên, các nước đang phát triển tại Liên Hiệp Quốc mới đây đã kết án Việt Nam cùng với Liên Bang Sô Viết và Cuba. Tôi đã cố gắng để cổ vũ Trung Quốc sử dụng ảnh hưởng của họ tại Bắc Hàn hầu trợ lực cho việc dàn xếp các cuộc đối thoại trực tiếp giữa các nhà chức trách chính phủ của Bắc và Nam Hàn. Tôi không chắc tôi đã làm được nhiều sự tiến bộ về điểm đó, nhưng ít nhất họ Đặng đã hiểu được lập trường của tôi….
… Đã gần đên giờ để chuẩn bị cho bữa tiệc buổi tối, nhưng họ Đặng yêu cầu rằng chúng tôi tách rời khỏi nhóm các cố vấn đông người của chúng tôi, sao cho ông ta có thể thảo luận một vấn đề bí mật hơn với tôi. [Phó Tổng Thống] Fritz, [Ngoại Trưởng] Cy, [Cố Vấn An Ninh Quốc Gia] Zbig, và tôi đã đi cùng với họ Đặng và các thông dịch viên từ Phòng Họp Nội Các sang Văn Phòng Bầu Dục, và lắng nghe cẩn thận khi nhà lãnh đạo Trung Quốc phác họa các kế hoạch dự liệu của ông cho Trung Quốc để thực hiện một cuộc công kích trừng phạt ngang qua biên giới của nó vào Việt Nam. Khi ông ta hỏi lời khuyến cáo của tôi, tôi đã cố gắng để can ngăn ông, vạch ra rằng Việt Nam ngày càng bị cô lập hơn trong cộng đồng thế giới và đang bị kết án bởi họ là các kẻ xâm lăng, đã vượt qua biên giới vào Kampuchea. Điều có thể khơi dậy cảm tình cho họ và khiến cho một số quốc gia quy buộc Trung Quốc như một kẻ có tội nếu các lực lượng Trung Quốc tiến tới Hà Nội. Hơn nữa, tôi có nói, bước tiến quân sự khả dĩ của ông sẽ góp phần vào việc bác bỏ một trong các luận cứ hay nhất của chúng ta cho mối quan hệ mới giữa Trung Quốc – Hoa Kỳ: rằng nó sẽ trợ lực cho hòa bình và ổn định hơn nữa tại Á Châu. Viên Phó Thủ Tướng đã cám ơn tôi về các ý kiến của tôi, và nói thêm rằng điều đáng ước ao cho Trung Quốc rằng các lân bang ngạo mạn của nó nhận biết rằng chúng không thể quấy rầy Trung Quốc và các nước khác trong vùng mà không bị trừng phạt.
Khi đã khá trễ, tôi đề nghị ông ta rằng chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc đàm thoại vào buổi sáng hôm sau. Họ Đặng đồng ý, và khoảng một giờ sau đó, chúng tôi đã tụ họp cho buổi quốc yến -- sẽ trở thành phần mở đầu cho một buổi tối rất thú vị. Ông ta là một bạn cùng mâm gây thích thú, hoàn toàn không kiềm chế trong các ý kiến của ông ta. Trong suốt bữa ăn, ông ta ưa thích nói về đời sống tại đất nước của chính ông, và ông đã nghĩ nó đang được thay đổi tốt hơn như thế nào. Chúng tôi đã có một cuộc tranh luận khá khôi hài về chương trình truyền đạo Thiên Chúa mà tôi đã quan tâm đến khi còn là một đứa trẻ, và ông đã miễn cưỡng nhìn nhận rằng một số nhà truyền giáo tốt lành đã đến Trung Quốc. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng nhiều người trong họ đã có mặt ở đó chỉ nhằm thay đổi lối sống Đông Phương theo một khuôn mẫu Tây Phương. Tôi đã nhắc nhở ông ta về tất cả các nhà thương và trường học đã được thiết lập, và ông nói rằng nhiều cơ sở như thế vẫn còn hiện hữu. Ông đã mạnh mẽ chống đối bất kỳ sự tái lập một chương trình truyền giáo ngoại quốc nào và nói rằng các người Trung Hoa theo Thiên Chúa Giáo đồng ý với ông, nhưng ông đã chăm chú lắng nghe khi tôi nêu ý kiến rằng ông nên cho phép sự phân phát không hạn chế các Thánh Kinh và hãy để dân chúng có quyền tự do thờ phụng. Ông đã hứa hẹn cứu xét đến việc đó. (Sau này, ông đã hành động một cách thuận lợi đối với cả hai đề xướng này).
Họ Đặng xem ra hoàn toàn quan tâm đến các quan hệ tốt đẹp hơn với Saudi Arabia, và một lần nữa nhấn mạnh đến khía cạnh tôn giáo của vấn đề. Có lẽ đã có đến bảy triệu tín đồ Hồi Giáo tại Trung Hoa, ông ta cho hay, và chính phủ của ông đã không can thiệp vào sự thờ phụng của họ. Khi tôi hỏi là liệu các tín đồ này có được phép để du hành tới Mecca [thánh địa Hồi Giáo, chú của người dịch], ông ta trả lời là không, nhưng cũng nói rằng nêu sự du hành như thế là quan trọng, chính sách này có thể được thay đổi. Chúng tôi sau đó có chuyển tin tức này đến các nhà lãnh đạo Saudi.
Liên quan đến nhân quyền, họ Đặng nói người Trung Quốc từng đấu tranh để thực hiện các sự thay đổi trong hệ thống tư pháp của của họ bởi đã không có sự đồng nhất của sự trừng phạt đối với các tội ác nghiêm trọng. Trung Quốc có ít luật sư, và ông ta đang ở vào một tình thế lung túng rằng liệu đất nước sẽ khá hơn nếu có thêm nhiều luật sư hay không. Ông đã quan sát sự tranh tụng thường trực, các sự trì hoãn, và sự kỳ thị giai cấp rõ ràng tại các tòa án ở các nước khác, và không chắc là liệu có muốn du nhập các vấn đề này vào nước của ông hay không. Ông rõ ràng đã quyết định cho phép giải quyết các vụ án hình sự và dân sự địa phương trong khuôn khổ các cộng đồng nhỏ và thân thuộc nơi mà các sự tranh chấp hay các tội ác diễn ra, và giới hạn sự gia tăng các luật sư vào nhân số cần thiết dành cho việc thương thảo các thỏa thuận và các khế ước liên can đến các nước khác. Ông ta nói Trung Quốc tán thành sự hợp nhất của bất kỳ gia đình bị phân tán nào, đã không kiểm duyệt báo chí, và gần đây đã cho phép tự do đáng kể trong sự phát ngôn và bày tỏ. Trong hệ thống Trung Quốc, ông ta nói thêm, các quyền tự do này đã phải được giải quyết một cách rất thận trọng.
Chúng tôi có mời cả hai vị cựu Tổng Thống Mỹ đến dự bữa quốc yến chính thức, và, như có thể tiên đoán được, báo chí Hoa Thịnh Đốn đã say đắm với sự hiện diện của Tổng Thống Nixon tại Tòa Bạch Ốc. Mặc dù ông không quen biết với các nhà lãnh đạo hiện thời của Trung Quốc, ông đã thích thú nói chuyện với họ trong buổi tiếp tân ngắn về chuyến thăm viếng trước đây của chính ông. Điều hiển nhiên từ các ý kiến riêng tư của họ rằng đối với phía Trung Quốc, ông luôn luôn là một người bạn được kính trọng, và rằng họ xem các sự cáo buộc liên can đến vụ Watergate là vớ vẩn.
Trong các lời chúc tụng chính thức và trong các cuộc đàm thoại kín đáo, mọi người đều ở vào một tâm trạng vui vẻ và hân hoan, như thể ý định khai thông vỏ bọc ngoại giao chính thức đã thường bóp chết các cơ hội như thế. Tôi đặc biệt thích thú nhìn thấy các chuyên viên về Trung Quốc từ Bộ Ngoại Giao hăng hái tìm kiếm tin tức trực tiếp về lịch sử và các phong tục hiện đại của nước ngoài mà họ đã dành cả đời để học hỏi.
Tại Trung Tâm Kennedy, chúng tôi đã có một buổi trình diễn tuyệt diệu. Sau đó, họ Đặng và tôi, vợ của ông ta, bà Zhoulin, Rosalyn, và Amy [vợ và con gái Tổng Thống Carter, chú của người dịch] đã đi lên sân khấu với các người trình diễn, và đã có một cảm giác chân thật của sự xúc động khi ông ta vòng tay ôm các nghệ sĩ trình diễn Mỹ, đặc biệt các trẻ em đã hát một bài hát tiếng Trung Hoa. Ông ôm hôn nhiều đứa trẻ trong đó, và báo chí sau này có nói rằng nhiều người trong khán thính giả đã khóc.
Thượng Nghị Sĩ Laxalt, kẻ từng là một người chống đối mạnh mẽ sự bình thường hóa, sau đó có nói rằng cuộc trình diễn mà chúng tôi đã làm đã đánh bại họ: đã không có cách nào để bỏ phiếu chống lại các trẻ nhỏ hát các bài ca Trung Hoa.
Họ Đặng và vợ của ông xem ra thực lòng ưa thích quần chúng, và ông đã thực sự thành công với khối khán thính giả hiện diện cũng như với các khán giả truyền hình. Trich Nhật Ký ngày 29 Tháng 1, 1979.
Có lẽ bởi ông ta quá niềm nở và quá nhỏ bé, họ Đặng đã là một người được ưa mến bởi Amy và các đứa đứa trẻ khác vào buổi tối hôm đó. Cảm nhận dường như có tính cách hỗ tương.
Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.
Sau đó họ Đặng và tôi nhập vào nhóm đông hơn, và thái độ của ông lại thay đổi một lần nữa. Công việc nghiêm trọng nhất của ông ta đã hoàn tất. Phiên họp này, với các phụ tá của chúng tôi, thị nhẹ nhàng và thoải mái hơn nhiều so với các buổi thảo luận của ngày hôm trước. Chúng tôi đã thảo luận các vấn đề về các xác quyền hỗ tương của hai nước (phát sinh từ sự tịch thu tài sản của nhau vào lúc có cuộc cách mạng Trung Quốc năm 1949), và hứa hẹn làm việc một cách mau chóng để giải quyết vấn đề này và các vấn đế khác còn tồn đọng. Họ Đặng hiểu biết khá rõ về các chi tiết cụ thể của các vấn đề phức tạp này.
Tôi đã phác họa khó khăn với pháp chế tối huệ quốc – điều đó sẽ tạo ra một sự bất thăng bằng nếu chúng tôi kể gồm xứ sở của ông ta mà không có Liên Bang Sô Viết. Họ Đặng cho tôi hay rằng đã không có sự quân bình giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết về vấn đề xuất cảnh, và nói thêm rằng, “Nếu quý ông muốn tôi thả mười triệu người Trung Quốc để đến Hoa Kỳ, tôi sẽ vui lòng để làm như thế”. Và, dĩ nhiên, mọi người đều phá lên cười.
Tôi đã nêu lên một vấn đề về chương trình trao đổi sinh viên. Tôi đã không thích quyết định của ông ta rằng các người Mỹ sẽ phải sống trong một nhóm khá biệt lập, và không ở chung với các sinh viên và gia đình Trung Quốc. Ông ta đã giải thích rằng đã không có đủ nơi cư trú tại Trung Quốc hội đủ các tiêu chuẩn tối thiểu mà người Mỹ vốn quen thuộc. Tôi xem lời giải thích của ông ta là không đầy đủ, và đã nêu lên một điểm khác. “Một khi ông đồng ý về phương cách cho nhiều sinh viên có thể đến Trung Quốc, chúng tôi không muốn ông kiểm soát xem những ai là kẻ có thể đến”. Ông ta mỉm cười và nói rằng Trung Quốc thì đủ mạnh để kháng cự một ít sinh viên, và rằng Trung Quốc sẽ không tìm cách loại bỏ các sinh viên trên căn bản ý thức hệ. Sẽ có một số giới hạn về sự di chuyển đối với các thông tín viên Mỹ tại Trung Quốc, ông ta nói, nhưng sẽ không có bất kỳ sự kiểm duyệt nào. Tôi có nói với ông ta rằng bởi ông đề nghị cho tôi mười triệu người Trung Hoa, tôi đã đề nghị gửi đến ông mười nghìn ký giả. Ông ta cười to và tức thời khước từ.
Tôi yêu cầu ông đề cập [trong các lời tuyên bố công khai của ông khi ở tại Hoa Kỳ] về vấn đề Đài Loan và sử dụng các từ ngữ “hòa bình” và “kiên nhẫn”. Ông ta nói ông muốn Hoa Kỳ và Nhật Bản thúc giục Đài Loan thương thuyết, và rằng chỉ có hai tình huống trong đó họ sẽ không giải quyết một cách hòa bình và sẽ kiên nhẫn nếu có một thời khoảng kéo dài mà không có thương thuyết, hay nếu Liên Bang Sô Viết tiến vào Đài Loan. Ông ta yêu cầu tôi hãy thận trọng trong việc bán bất kỳ vũ khí nào cho Đài Loan sau năm nay, và ông ta để cho mọi người biết rằng họ không tán thành bất kỳ sự bán vũ khí nào. Trích NHẬT KÝ, Ngày 30 Tháng Một, 1979.
Tôi có nói với họ Đặng về sự đáp ứng của chúng ta với Brezhnev liên quan đến các vụ bán vũ khí: rằng chính sách của chúng ta là không bán vũ khí cho Trung Quốc cũng như Liên Bang Sô Viết, nhưng chúng ta sẽ không tìm cách để anh hưởng các đồng minh có chủ quyền độc lập của chúng ta trên các chính sách của riêng họ. Ông ta đã trả lời, “Vâng, tôi biết rằng đó là lập trường của các ông. Lập trường đó thì tốt”.
Chúng tôi bao hàm một vài vấn đề khác nữa, một ít trong chúng có tính chất bí mật cao độ, trong các cuộc thảo luận vừa vui vẻ lẫn có hiệu quả. Họ Đặng cũng tạo ra một ấn tượng rất tốt đẹp trong cuộc thăm viếng của ông ta tại Quốc Hội, với các lời bình luận sống động và hài hước. Phía Trung Quốc xem ra biết cách để biểu lộ sự tự tin trầm tĩnh và hãnh diện về xứ sở của họ mà không mang vẻ kiêu căng. Trong một bữa cơm tối riêng tư tại nhà của mình, Zbig bình luận rằng người Trung Hoa và người Pháp có một điểm chung: mỗi nền văn minh tự nghĩ mình ưu việt hơn tất cả các nền văn minh khác. Họ Đặng suy nghĩ trong chốc lát, và sau đó có nói, “Hãy để chúng tôi nói điều đó như thế này: tại Đông Á, thức ăn Trung Quốc ngon nhất; tại Âu Châu, thức ăn Pháp thì ngon nhất’”.
Trong cuộc gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, khi chúng tôi ký kết các thỏa ước liên quan đến các phòng lãnh sự, mậu dịch, khoa học và kỹ thuật, trao đổi văn hóa, v.v…, ông ta được hỏi, “Ông đã có sự chống đối chính trị tại Trung Quốc hay không khi chúng ta quyết định bình thường hóa các quan hệ?” Mọi người chăm chú lắng nghe khi họ Đặng nói, “Có chứ!” Sau đó ông ngừng lại trong khoảnh khắc và nói thêm, “Tôi đã gặp sự chống đối nghiêm trọng tại một tỉnh của Trung Quốc – Đài Loan”.
Các buổi lễ thích thú đã qua. Giờ đây chúng ta có công việc khó khăn để thông qua pháp chế tại Quốc Hội hầu thi hành các thỏa ước. Chúng ta đã có sự ủng hộ tốt nhưng phải đối diện với một nhóm thuộc nhóm hoạt động chính trị cánh hữu được thúc đẩy một cách tích cực, vốn vẫn còn nài nỉ rằng cách nào đó Hoa Kỳ nên giúp đỡ các hậu duệ của Tưởng Giới Thạch quang phục lại lục đia. Đối với họ, Đài Loan là Trung Hoa, và không có cách nào để thuyết phục họ ngược lại. Họ muốn có một đạo luật sẽ làm đảo ngược hành động mà tôi đã lấy trong sự thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nếu không bao gồm các điều khoản không thể chấp nhận được sao cho Trung Quốc sẽ bác bỏ toàn thể sự thỏa thuận. May mắn, chúng tôi ở vào thế chủ động.
[Tôi] đã chỉ thị ông Vance cương quyết về pháp chế Đài Loan. Nếu nó bị sửa đổi vi phạm đến các cam kết của tôi với CHNDTQ hay nếu ngôn ngữ cụ thể về Đài Loan vượt quá ngôn ngữ trong bản thân bản hiệp ước, tôi sẽ phải phủ quyết pháp chế, do đó khiến trở thành bất hợp pháp để thương thảo với Đài Loan trong bất kỳ phương thức hữu hiệu nào. Trích NHẬT KÝ Ngày 7 Tháng Ba, 1979.
Mặc dù sự phủ quyết của tôi là một đe dọa thực sự, chúng ta đã muốn hành động một cách có trách nhiệm với Đài Loan, và như thế chúng tôi đã phải làm việc gần hết cả năm trong việc định hình đạo luật sau cùng với Quốc Hội. Một số thành viên đã có một ngày thỏa thích với sự mị dân, đứng nơi khán đài chính đối với giới truyền thông và cử tri tại đơn vị nhà, nhưng chúng tôi cuối cùng đã thắng thế, chỉ còn dư vài ngày trước khi hiệp ước với Đài Loan bị chấm dứt và sự thỏa thuận đầy đủ của chúng ta với Trung Quốc được thi hành.
Trung Quốc đã là một trong ít các công tác chính sách ngoại giao của chúng ta chứng tỏ nhiều thú vị và hài lòng hơn những gì tôi đã ước định vào lúc bắt đầu nhiệm kỳ của tôi. Khi đó tôi đã nghĩ rằng chúng ta đang tiến hành một dự án có thể bị thất bại bởi sự cố chấp của Trung Quốc trên một hay nhiều nguyên tắc sinh tử của chúng ta liên quan đến Đài Loan, các sự phức tạp không tiên đoán được tại các phần đất khác của Á Châu, một số sự đối đầu với Trung Quốc sẽ có ý nghĩa phủ quyết, hay sự chống đối chính trị không thể vượt qua được trong dân chúng và tại Quốc Hội của chúng ta.
Thay vào đó, mọi việc đã diễn tiến một cách tốt đẹp. Cả trước và sau khi bình thường hóa, phía Trung Quốc đã biểu lộ một sự nhạy cảm tinh tế về các bổn phận khác của tôi, và cũng như về các thực tế chính trị nội bộ của chúng ta. Họ cũng rất trợ lực trong các lời tuyên bố của họ về Thỏa Ước SALT II, quyết nghị về vấn đề Đài Loan, ảnh hưởng ổn định hóa tại miền tây Thái Bình Dương của các quan hệ ngoại giao mới của chung ta, nhu cầu hợp tác mạnh mẽ giữa chúng ta và Nhật Bản – và đã kiềm chế xuyên qua tất cả tiền trình này trong việc không phóng chiếu mối quan hệ mới của chúng ta với họ trong một giọng điệu chống Sô Viết. Trong tiến trình, tôi hiểu được tại sao một số người nói rằng người Trung Hoa là dân tộc văn minh nhất trên thế giới….
___
[Ngày 17Tháng Sáu, 1979, tại Hội Nghị Thượng Đỉnh ở Vienna, Áo Quốc, giữa Carter và Brezhnev]
Trích lời tuyên bố của Tổng Thống Carter trong phiên họp với Brezhnev vào chiều ngày 17 Tháng Sáu, các trang 254-256:
[Carter]
… Chúng tôi có một số khu vực thuộc quyền lợi sinh tử, và Liên Bang Sô Viết phải nhìn nhận các quyền lợi này. Một trong những khu vực như thế tại Vịnh Ba Tư (Persian Gulf) và Bán Đảo Ả Rập. Sự kiềm chế thì thiết yếu về phía các ông [Liên Sô] để không vi phạm các quyền lợi an ninh quốc gia của chúng tôi.
Khi các sự khó khăn phát triển, chính sách của Hoa Kỳ là giải quyết chúng một cách hòa bình, nhưng đây không phải là chính sách của Sô Viết. Tại Mũi Phi Châu (Horn of Africa) thuộc Nam Phi Châu, tại Trung Đông, và tại Đông Nam Á, tôi [Carter] đã cố gắng để đạt tới hòa bình, nhưng các nhà lãnh đạo Sô Viết chỉ làm ngược lại. …Liên Bang Sô Viết cũng đã cổ vũ và ủng hộ Việt Nam trong sự xâm lăng của họ tại Căm Bốt…
Brezhnev đã trả lời như sau:
… Brezhnev đã tiếp tục nói rằng Trung Quốc đã đe dọa xâm phạm lãnh thổ các lân bang của nó, và đã muốn xô đẩy đến một cuộc thế chiến trong đó nó ngồi ở bên lề. Liên Bang Sô Viết có các nghĩa vụ theo hiệp ước với Việt Nam, và hành động của Trung Quốc có thể đã trở nên quá khiêu khích. Ông tuyên bố rằng tại Kampuchea, các công dân đã cám ơn phía Việt Nam về việc lật đổ chế độ đáng ghê tởm của Pol Pot, và rằng đó chỉ là điều tự nhiên đối với Sô Viết để trợ lực cho một nỗ lực như thế….
… Ông ta mỉm cười [nói tiếp]:
Liên quan đến các lời bình luận của Tổng Thống Carter về một sự hiện diện của Sô Viết tại Việt Nam, chúng tôi hiện giờ không có các căn cứ ở đó, hay chúng tôi sẽ không có căn ứ nào trong tương lai. Các tàu Sô Viết đã thực hiện các cuộc cập biến kinh doanh thông thường và các máy bay Sô Viết đáp xuống đúng theo tập tục quốc tế. Mặt khác, các căn cứ của Hoa Kỳ đã được thiết lập tại ngưỡng cửa của Liên Bang Sô Viết ở Nam Hàn, Nhật Bản và Phi Luật Tân…
…Tôi [Tổng Thống Carter] bắt đầu trả lời, nhưng ông ta [Brezhnev] yêu cầu tôi cho phép ông ta hoàn tất toàn thể lời tuyên bố của ông trước. Vì thế tôi đã ghi chú cẩn thận và chờ đợi ông tiếp tục nói. Ông ta xem ra rất hăng hái để đi đến phần kế tiếp, hóa thành một sự thỏa hiệp đến 90 phần trăm toàn thể công chuyện. Tôi đã tóm tắt các ý kiến của ông trong các sự ghi chép của tôi.
Tôi [Brezhnev] muốn nói về Trung Quốc. Chúng ta không phản đối các quan hệ bình thường giữa hai nước các ông, nhưng nó sẽ là một sai lầm cho bất kỳ ai muốn sử dụng các thái độ chống Sô Viết của Bắc Kinh để làm phương hại đến Liên Bang Sô Viết. Chúng tôi đã quan sát với sự quan ngại lớn lao rằng hành động đầu tiên của Trung Quốc theo sau sự thừa nhận bởi Hoa Kỳ là một cuộc tấn công vào Việt Nam. Các nụ cười và cúi chào của họ chắc chắn không phù hợp với sự vi phạm này vào sự ổn định tại Á Châu. Họ xem ra muốn Hoa Kỳ che chở cho hậu phương chính trị của họ. Điều được hay biết rất rõ rằng Trung Quốc có các tuyên nhận lãnh thổ chống lại Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ, và Phi Luật Tân, và họ muốn các phần tử Tây Phương sẽ được sử dụng trong các vấn đề này. Bởi vì phía Trung Quốc không bị ràng buộc bởi bất kỳ hiệp định quốc tế nào liên quan đến các vũ khí hạt nhân, sự đe dọa này có sự quan ngại gấp đôi.
Liên Bang Sô Viết tán thành các quan hệ chính thức với Trung Quốc và chúng tôi giờ đây đang tìm kiếm các cơ hội cho nhiều cuộc nói chuyện hơn. Chúng tôi muốn sự tôn trọng hỗ tương, một sự hứa hẹn không sử dụng vũ lực, không can thiệp vào các công việc nội bộ của các nước khác và một sự giảm bớt mối căng thẳng. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cứu xét bất kỳ điều gì vượt quá lằn tranh hiện tại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ với sự quan ngại nghiêm trọng, và các quan hệ Sô Viết – Mỹ sẽ bị tổn hại. Hãy để tôi nhấn mạnh rằng sẽ không có sự mạo hiểm chống lại Hoa Kỳ bởi chúng tôi dưới bất kỳ tình huống nào….
…Ông ta đã kết thúc bằng cách cổ vũ các các phiên họp bổ túc, nhưng lại không cố gắng ấn định một thời biểu thường lệ. Ông ta đặc biệt hắng hái mời tôi sang thăm viếng Liên Bang Sô Viết Tôi hỏi ông ta một cách thẳng thắn rằng liệu ông ta có đủ sức khỏe để sang thăm Hoa Kỳ hay không, bởi đã đến lượt Sô Viết đáp trả trong lịch trình thăm viếng lẫn nhau. Ông ta cười lớn, và nói, “Có chứ! Mọi điều tôi phải làm là nhảy lên một máy bay khi đến giờ, và tôi sẽ có mặt ở đó không chút chậm trễ”.
Tôi nói với ông ta chúng ta đã xem mối quan hệ mới Trung Quốc – Mỹ là tốt cho chúng ta, cho Liên Bang Sô Viết, và cho thế giới. Ông ta la lớn, một cách khá thú vị, “Chắc chắn không tốt cho Liên Bang Sô Viết”….
_____
Phần 2
GHI NHỚ VỀCHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TRUNG-VIỆTNĂM 1979
Trích dịch từ Jimmy Carter, White House Diary, New York: Farrar, Straus and Giroux, 2010, các trang 281-296, rải rác.
Ngày 12 Tháng Một, [1979]
…Vào nửa đêm, Ông Hoàng Sihanouk của Căm Bốt đã đến văn phòng phái bộ [Liên Hiệp Quốc] của chúng ta tại New York và xin tỵ nạn. Ông đã làm một công việc cực kỳ hữu hiệu trong việc trình bày lập trường chống Việt Nam/Sô Viết/Cuba tại Liên Hiệp Quốc, khiếu nại cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Căm Bốt, cũng như các sự lạm quyền của chế độ Pol Pot. Ông đã quy trách mọi vấn đề tại Căm Bốt lên [cựu Tổng Thống] Nixon và [cựu Ngoại Trưởng] Kissinger. Ông xem ra mà một con người rất sâu sắc.
Ngày 24 Tháng Một
Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) cung cấp cho chúng tôi một bản lượng định về Đặng Tiể u Bình, phân tích tâm lý, lý lịch của ông ta, sự tiên đoán về những gì ông ta sắp thảo luận với tôi khi ông đến thăm vào tuần tới….
Cuộc thăm viếng này, và nguyên do của nó, thực sự có tính chất lịch sử: cho đến thời điểm này, quốc gia chúng ta chưa hề có các quan hệ ngoại giao với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ). Kể từ khi có sự thành lập CHNDTQ vào ngày 1 Tháng Mười 1949, Hoa Kỳ đã duy trì các quan hệ ngoại giao riêng biệt với tàn dư chính trị của các lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa bị đánh đuổi khỏi lục địa sang hòn đảo Đài Loan. Mối quan hệ này đã dần được khắc sâu vào trong các cơ sở thương mại, truyền thông, chính trị và quân sự của đất nước chúng ta. Trong thời gian này, CHNDTQ bị đề cập tới gần như bất biến trong các cuộc tranh luận chính trị là “Trung Hoa Đỏ” và “Cộng Sản”, vốn có một ý nghĩa tiêu cực tương tự như từ ngữ “khủng bố’ ngày nay. Sự đón tiếp Đặng Tiểu Bình tại Hoa Thịnh Đốn đã là một chỉ dấu ban đầu của sự chấp thuận dành cho quyết định mà tôi đã lấy để chuyển đổi các quan hệ ngoại giao đến Trung Hoa lục địa….
Ngày Thứ Hai, 29 Tháng Một
…Tôi có ấn tượng tốt về họ Đặng. Ông ta thì nhỏ con, cứng rắn, thông minh, thẳng thắn, can đảm, đáng mến, tự tin, thân thiện, và thương thảo với ông ta là một điều thú vị.
Tôi đã phác họa năm yếu tố căn bản đã định hình công luận Hoa Kỳ và đời sống người dân chúng ta: (a): nâng cao sức mạnh và ảnh hưởng của Hoa Kỳ để làm lợi cho người dân chúng ta và những dân tộc thuộc phần còn lại của thế giới; (b) nhận thức một ước muốn gia tăng khắp nơi trên thế giới về một phẩm chất tốt đẹp hơn của cuộc sống, với nhiều sự tham gia chính trị hơn, sự độc lập hay giải phóng đối với quần chúng, và một ước muốn tự do thoát ra khỏi sự thống trị của các ảnh hưởng bên ngoài; (c) quyền lực chuyển đổi từ một ít quốc gia như chính chúng ta và Sô Viết để đem chia sẻ giữa nhiều quốc gia, với các nước lãnh đạo cấp vùng chẳng hạn như Mexico, Venezzuela, Brazil, Nigeria, Ấn Độ, Nam Dương và Trung Quốc; (d) an ninh tương lai của Hoa Kỳ được nối buộc với các quan hệ tốt với những nước đang phát triển này, và (e) sự gia tăng mau chóng trong sức mạnh quân sự của Sô Viết. Chúng ta đã duy trì sự đồng đẳng quân sự của Hoa Kỳ, và Sô Viết thì yêu về mặt chính trị, kinh tế, ý thức hệ, và mặc cảm thua kém của họ đã gây ra một thái độ có tiềm năng tạo bất ổn đối với phần còn lại của thế giới. Chúng tôi đã muốn liên kết với Trung Quốc để sử dụng các phần tử tích cực trên thế giới hầu đối phó với các phần tử tiêu cực.
Họ Đặng tuyên bố rằng thế giới “không yên tĩnh”, và Hoa Kỳ cùng CHNDTQ đã có nhiều sự quan tâm chung. Mao (Trạch Đông) và Chu [Ân Lai] trước đây từ lâu có mô tả cùng với ông về ba thế giới: Thế Giới Thứ Nhất gồm Sô Viết và Hoa Kỳ, và Liên Bang Sô Viết đã là mối nguy hiểm chính. Ông ta nghĩ Hoa Kỳ nên gia nhập cùng với Thế Giới Thứ Nhì và Thứ Ba để chống lại Liên Bang Sô Viết.
CHNDTQ đã thừa nhận sự hiện hữu của Do Thái, nhưng khi tôi hỏi ông ta là liệu có một khả tính nào để thiết lập sự giao thương với Do Thái hay không, ông ta nói: “Không, vào thời điểm hiện nay, điều này thì không khả dĩ”. Ông ta nói các vấn đề Trung Đông nhiều phần sẽ lan tràn tới Iran, Saudi Arabia, và các nước khác trừ khi chúng bị đẩy lui.
Sự tiên đoán của ông ta thì chính xác. Nhiều phần rằng một yếu tố trong sự thù nghịch của các nước này đối với Do Thái chính là nỗi thống khổ không được giải quyết của người dân Palestine.
Trong suốt ngày, chúng tôi đã thảo luận đén khoảng hai mươi nước, kể cả Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, A Phú Hãn, Iran và Việt Nam. Ông ta đã ủng hộ Thỏa Ước SALT II nhưng nói rằng nó sẽ không kiểm soát được một sự tăng cường của Sô Viết. Trung Quốc cần một thời kỳ hòa bình lâu dài để thực hiện đầy đủ các chương trình hiện đại hóa của nó.
Tôi nói chúng tôi muốn có Sô Viết như một quốc gia có trách nhiệm và không bị cô lập với phần còn lại của thế giới.
Họ Đặng đã yêu cầu rằng chúng tôi gặp mặt một cách riêng tư tại Văn Phòng Bàu Dục về vấn đề Việt Nam. Ông ta đã phác họa mọi lý do và sau đó nói rằng họ đang dự tính một hành động trừng phạt ngang qua biên giới tiến vào Việt Nam. Tôi đã vạch ra tác động bất lợi của hành động này; điều hay nhất là hãy tiếp tục cô lập Việt Nam.
Chúng tôi sau đó đén dự buổi quốc yến, và đó là một kinh nghiệm thú vị. Trong bữa tiệc, tôi đã thảo luận về tôn giáo và nhân quyền với ông ta. Vấn đề bao trùm trong giới báo chí Mỹ là sự tham dự bữa tiệc của [cựu Tổng Thống] Nixon. …
Ngày 30, Tháng Một.
…Buổi sáng hôm sau, tôi đã viết một lá thư liên quan đén sự phản đối của chung ta đối với một cuộc công kích trừng phạt đánh vào V8ệt Nam, và bức thư đã được đọc rất cẩn thận cho họ Đặng. Tôi có đề nghị cung cấp cho ông ta một buổi thuyết trình tình báo về các sự trú đóng binh sĩ bao quanh Trung Quốc, và ông ta đã đáp ứng một cách hăng hái.
Trong buổi họp sau cùng của chúng tôi, tôi đã thảo luận về vấn đề các sự tuyên nhận [tài sản] và các tích sản, với các sự cáo tri chống lại tài sản Trung Quốc lớn hơn nhiều. Ông ta nói, “Ông có muốn giải quyết nó ngay trong ngày hôm nay hay không?”, tôi nói” “Có “. Ông ta đã trình bày các vấn đề một cách thận trọng và chính xác, cho hay [Đại Sứ] Hoàng Hoa sẽ làm việc với [Bộ Trưởnmg Ngân Khố] Blumenthal và sẽ giải quyết vấn đề trước ngày mai.
Tôi đã phác họa khó khăn với pháp chế tối huệ quốc. Ông ta nói không có sự liên hệ nào giữa Trung Quốc và Liên Bang Sô Viết. Ông ta nói, “Nếu ông muốn chúng tôi phóng thích 10 triệu người Trung Quốc đến Hoa Kỳ, tôi sẽ vui lòng làm như thế.” Mọi người phá lên cười. Tôi có nói với ông ta rằng ông đề nghị cung cấp 10 triệu người Trung Quốc, tôi đề nghị lại mười nghìn ký giả; ông ta đã mau chóng không đồng ý với xướng xuất đó….
Ngày 31 Tháng Một.:
… Tôi có buổi gặp gỡ cuối cùng với Đặng Tiểu Bình. Chúng tôi đã ký kết các thỏa ước liên quan đến các văn phòng lãnh sự, mậu dịch, khoa học và kỹ thuật, trao đổi văn hóa và v.v…. Sau khi thảo luận các vấn đề chính trị mà tôi đã gặp phải trong việc bình thường hóa, [Cố Vấn An Ninh Quốc Gia] Zbig đã hỏi ông ta, “Ông có gặp sự chống đối chính trị tại Trung Quốc hay không?” Mọi người chăm chú lắng nghe khi họ Đặng nói, “Có chứ, tôi gặp phải sự chống đối nghiêm trọng từ một tỉnh của Trung Quốc – là Đài Loan”. …
Ngày 27 Tháng Hai: …
… Tôi đã có một buổi gặp gỡ thú vị với [Đại Sứ Liên Sô] Dobrynin, để nhấn mạnh tầm quan trọng nền tảng của mối quan hệ của chúng ta với Liên Bang Sô Viết. Tôi đã nói với ông ta chúng ta đang đòi hỏi rằng Trung Quốc triệt thoái ra khỏi Việt Nam. Và tôi nghĩ Việt Nam cũng phải triệt thoái ra khỏi Căm Bôt….
http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacJCarter1979.htm
Không có nhận xét nào