*Trích từ : Kiểm duyệt ở Việt Nam: Một Thế Giới Can Đảm Mới của Thomas A. Bass
Ngày 5 tháng 1 năm 2021, ba trong số những phóng viên giỏi nhất của Việt Nam – những người làm việc cho BBC và các hãng truyền thông nước ngoài khác – đã bị kết án lên đến 15 năm tù, sau đó là 3 năm quản thúc. Tội của họ là đưa tin về côn đồ đường phố và côn đồ cấp cao, điều mà ở Việt Nam sẽ bị kết án theo Điều 117 là ‘tuyên truyền chống nhà nước’.
Phạm Chí Dũng, người sáng lập và chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN) nhận bản án dài nhất. Hai đồng sự của anh là Lê Hữu Minh Tuấn và Nguyễn Tường Thụy lãnh án 11 năm tù. Theo Ủy ban Bảo vệ Nhà báo, đến giờ có 15 nhà báo Việt Nam hiện đang bị bỏ tù.
Tôi gặp Dũng tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2015, khi anh cho là mình ‘như cá nằm trên thớt’. Tôi đã viết về chuyện này trong cuốn sách, Kiểm duyệt ở Việt Nam, được xuất bản hai năm sau đó — phần bài viết ở dưới được trích từ đó.
Dũng đứng đầu cuộc chiến đấu vì tự do báo chí ở Việt Nam – một vị trí mà anh đảm nhận một cách miễn cưỡng, từ hồi anh còn là một quan chức của Đảng. Vào ngày 4 tháng 7 năm 2014, một ngày không phải do được chủ ý chọn chứ không phải ngẫu nhiên (Ngày Độc lập ở Hoa Kỳ), Dũng thành lập IJAVN, hiện có 81 người can đảm là thành viên.
Dũng mặc chiếc quần tây nhàu màu xanh lá và chiếc áo sơ mi dài tay cùng màu được xắn lên tới khuỷu tay khi chúng tôi gặp nhau vào năm 2015 trong sân nhà hàng xóm của anh — nơi mà buổi sáng có phục vụ cà phê và các đồ uống khác. Cùng với một em bé đang khóc và một chú chó đang ngáp, quán chật kín những người ăn mặc chỉnh tề trên đường đi làm. Phong cách trang trí nửa sang trọng, chắp vá. Dây điện chạy ra từ các hộp nối, trong khi chỗ trống khác được trang trí bằng những chậu hoa treo tường gạch trắng xám.
Dũng gầy, với đôi tay gầy guộc và dáng vẻ cương nghị của cựu quân nhân. Anh có một khuôn mặt ốm với bộ ria mép, mái tóc cắt bát, và mái ngố trên trán khiến anh trông trẻ hơn một người sắp bước sang tuổi ngũ tuần. Khi chúng tôi ngồi vào chiếc bàn kê giữa tượng Phật và chiếc Honda Dream đang đậu, Dũng châm điếu thuốc Fine và nhấp một ly cà phê đá.
Anh nói với tôi rằng con hẻm vào quán cà phê thường bị cảnh sát mặc thường phục chặn lại. “Các thành viên của Hội Nhà báo đã bị đánh đập, và tôi thường bị ngăn cản khi gặp gỡ người nước ngoài,” anh nói.
Một vài tuần trước đó, khi Dũng đưa con trai ở trường đến mẫu giáo, hai mươi công an ập đến. “Họ còng tay tôi sau lưng, như một tên tội phạm thông thường, và đưa tôi đến đồn công an để thẩm vấn. Đây là lần thứ hai tôi bị bắt trên đường phố, hàng tuần tôi bị triệu tập đến đồn công an. Họ yêu cầu tôi giải tán Hội Nhà báo Độc lập và ngừng viết cho BBC.”
Dũng nói tiếp: “Hội nhà báo chính thức của Việt Nam do chính phủ quản lý. ‘Nhà báo là viên chức nhà nước. Công việc của họ là tôn vinh Đảng và tuyên truyền cho nhà nước. Hàng tuần họ nhận được đơn đặt hàng những câu chuyện nào họ được phép đăng và cách tường thuật. Nhà báo nào không tuân theo sẽ bị sa thải hoặc đi tù. Tất cả các tờ báo đều thuộc sở hữu nhà nước và không có phương tiện truyền thông độc lập nào được phép hoạt động. Trong hệ thống này, không có chỗ cho cái gọi là hội nhà báo “độc lập”. Những thứ như vậy chỉ có thể là một hội của những tên tội phạm, những kẻ phản bội và những kẻ sẽ phá hoại sự ổn định của xã hội.”
Tôi hỏi Dũng những gì anh và các nhà báo của mình đang cố gắng thực hiện. Anh nói: “Chúng tôi phản đối tham nhũng và bất bình đẳng xã hội. “Chúng tôi muốn một nhà nước có đa đảng, nhân quyền và xã hội dân sự.”
Dũng sinh năm 1966 tại Hà Nội, nơi cha anh làm thư ký cho Võ Văn Kiệt, người sau này là thủ tướng Việt Nam. Năm 1975, chiến tranh kết thúc, gia đình Dũng chuyển vào Nam sống ở Sài Gòn, nơi Dũng theo học tại trường Lê Quý Đôn – ‘ngôi trường đắt nhất dành cho con nhà giàu’. Khi tốt nghiệp, anh đăng ký vào Học viện Công nghệ Quân sự, Một trường West Point của Việt Nam.
“Tôi chủ yếu được dạy bằng tiếng Nga”, anh nói. “Ngày nay đã khác, khi hệ thống giáo dục của chúng tôi đã nhường chỗ cho cái mà người Pháp gọi là” chủ nghĩa tư bản man rợ “, nhưng hồi đó việc học ở trường của chúng tôi rất khắt khe. Tôi khá nhất về hóa học và toán học. Tôi thích đọc sách, nhưng rất tệ về văn học. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng mình sẽ trở thành một nhà báo. Văn học Việt Nam đương đại có hai giai đoạn. Từ năm 1975 đến 1990, chúng tôi bị thống trị bởi người Nga. Sau năm 1990, văn học phương Tây bắt đầu du nhập vào Việt Nam và các nhà văn trong nước bắt đầu áp dụng phong cách phương Tây.’
Sau 5 năm theo học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự, nơi có nhiều giáo sư của anh đến từ Liên Xô, năm 1989, Dũng tốt nghiệp với hàm thiếu úy, chuyên ngành hậu cần và quân nhu. “Tổng cộng, tôi đã trải qua tám năm trong quân đội, bao gồm cả năm năm ở Học viện,” anh nói. Như là kỷ niệm từ thời đó, tôi để ý thấy Dũng bị khuyết một phần ngón giữa bàn tay trái.
“Năm 1992, tôi quyết định rời quân ngũ và chuyển sang dân sự,” anh nói. “Tôi làm việc cho Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó vào năm 1994, tôi bắt đầu làm trợ lý cho ông Trương Tấn Sang, người hiện là chủ tịch nước.”
“Ông ấy có giúp gì cho anh nếu anh gặp khó khăn không?” Tôi hỏi.
“Không, ông ấy sẽ không làm gì để bênh vực tôi,” Dũng nói, với một nụ cười gượng gạo. “Ông ấy sẽ tố cáo tôi.”
‘Trong mười lăm năm, từ 1997 đến 2012, tôi làm nhà phân tích an ninh quốc gia cho Đảng Cộng sản. Tôi cũng làm phóng viên tự do cho nhiều tờ báo.” Dũng đưa cho tôi xem thẻ báo chí do Cục Thông tin Văn hóa cấp. Tôi hỏi những lợi ích mà thẻ này cho anh ta. “Bạn có thể tránh được cảnh sát giao thông,” anh nói. “Đó là lợi ích duy nhất.”
Anh nói: “Đến năm 2011, tôi cảm thấy rằng tham nhũng ở Việt Nam đã đến mức không thể chấp nhận được. ‘Tôi đã viết các bài báo về nạn tham nhũng, nhưng không ai chịu đăng. Khi đó tôi bắt đầu viết cho Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, Đài phát thanh Pháp và BBC. Tôi đã viết về Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng và tham nhũng.”
‘Một năm sau thì bị công an TP.HCM bắt tôi. Tôi đã bị giam giữ trong năm tháng. Đảng vẫn coi tôi là “đồng chí”. Họ đã cố gắng thuyết phục tôi. Tôi được trả tự do vào cuối năm 2012. Đây là lúc quan điểm của tôi thay đổi đáng kể. Tôi nhận ra hệ thống độc đảng không còn phù hợp với Việt Nam.”
‘Tôi quyết định đi theo phong trào dân chủ. Tôi viết nhiều bài hơn, và sau đó, vào năm 2014, tôi thành lập Hội Nhà báo Độc lập. Đối với chính phủ, tôi trở thành một người bất đồng chính kiến. Họ không còn coi tôi là đồng chí nữa.’
Năm 2013, ông Dũng từ bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam. ‘Tôi đã đăng một bức thư trên internet giải thích những gì tôi đang làm. Chính phủ yêu cầu rút lại bức thư đó. Nó vẫn còn trên internet.”
Anh nói: “Đảng ngày nay không hơn gì một cái khung bảo vệ cho những lợi ích tham nhũng. Đảng không còn bảo vệ lợi ích của người dân nữa.”
Ở Trung Quốc, một người như Dũng sẽ bị giam giữ như là kẻ thù của nhà nước. Ông nói: “Khi Việt Nam hội nhập vào thế giới rộng lớn hơn, Chính quyền không thể hành động giống như chính phủ Trung Quốc. ‘Họ không thể chặn Internet. Họ không thể ngăn chặn các liên kết, làm chậm quá trình truy cập và tạo ra các bức tường lửa. Điều này gây ảnh hưởng quá lớn đến nền kinh tế. Làm lợi nhuận giảm sút nhiều. Quan chức Việt Nam có cổ phần trong các nhà cung cấp dịch vụ internet. Google bị chặn ở Trung Quốc, nhưng ở Việt Nam thì rất dễ vào. Ở đây chúng ta có những cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các quan chức, các phe phái khác nhau khai thác phương tiện truyền thông cho mục đích của riêng họ.’
Dũng giải thích rằng Việt Nam có hai khối cạnh tranh nhau là Đảng và nhà nước. Tùy thuộc vào phía nào nắm ưu thế, các nhà báo có thể gắn mình với bên này hoặc bên kia và được bảo vệ. “Nói chung, Đảng muốn chặn internet, trong khi nhà nước muốn mở rộng, miễn là nó phục vụ lợi ích của họ.”
Tại sao Việt Nam không làm được những gì Trung Quốc đã làm – xây dựng một mạng internet song song, nhân rộng các dịch vụ của phương Tây, dưới sự kiểm soát của nhà nước?
Ông Dũng nói: “Các quan chức Trung Quốc suy nghĩ có chiến lược hơn, dài hạn hơn. ‘Năm 1989 Việt Nam đã mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Việt Nam không có kế hoạch về cách quản lý khoản đầu tư này. Trọng tâm là địa phương. Mỗi tỉnh hoặc khu vực đã có kế hoạch riêng của mình. Mười năm sau, các quan chức Việt Nam bắt đầu suy nghĩ ở tầm quốc gia, nhưng lúc đó internet đã phát triển. Đây là một ví dụ khác về sự thiếu hiểu biết của cộng sản. Họ đã đánh giá thấp sức mạnh của internet.
‘Năm 2005, Internet bắt đầu mở rộng nhanh chóng ở Việt Nam và bắt đầu phục vụ các lợi ích dân chủ. Khi đó giới chức mới hoảng sợ, nhưng đã quá muộn. Họ không thể làm gì mà không ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư nước ngoài. Từ năm 2005 đến 2015, chính phủ chỉ có thể chặn một phần internet. Trung Quốc đã có chiến lược của họ. Họ đã có mạng trong nước ngay từ đầu, nhưng nếu Việt Nam chặn Google và Facebook thì internet sẽ sập. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ kiện Việt Nam ra tòa án quốc tế.
“Người Việt Nam thật thông minh”, Dũng kết luận. “Chính phủ thì không.”
Tôi hỏi anh về những email từ những người bất đồng chính kiến, thậm chí cả những người bị quản thúc tại gia, những người dường như được truy cập internet miễn phí. Ông nói: “Đây là may mắn của các nhà dân chủ Việt Nam, so với các đồng nghiệp của chúng tôi ở Trung Quốc. Nhờ có internet mà chúng tôi có một phong trào dân chủ ở Việt Nam. Đó là phương tiện hiệu quả nhất để tổ chức. Điện thoại không an toàn. Ông nói: Email và Skype an toàn hơn.
“Chúng tôi ở vào tình thế tốt hơn nhiều so với các đồng nghiệp ở Trung Quốc. Tình hình hiện tại ở Trung Quốc giống như ở Việt Nam năm 2005. Họ đang bắt người, và tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn dưới thời thủ tướng đương nhiệm. Ở Trung Quốc, quyền lực tập trung vào một người, trong khi ở Việt Nam, chúng tôi có nhiều trung tâm quyền lực, hoặc ít nhất là hai, Đảng và nhà nước. Việt Nam có các nhóm lợi ích khác nhau. Chúng tôi đã ở trong tình trạng phân quyền trong suốt lịch sử của mình, thậm chí một nghìn năm trước, và lịch sử đó đang lặp lại ở Việt Nam.’
Dũng viết bài trên hai blog, một blog có tên chandungquyenluc (‘Chân dung quyền lực’), tập trung vào các cuộc tranh giành quyền lực giữa các quan chức Đảng, và một blog khác, ra mắt vào đầu năm, tập trung vào tham nhũng chính trị. Không cần phải nói, các đồng đội cũ của Dũng không hài lòng với những bức chân dung của anh.
“Tôi không được phép đi ra khỏi thành phố,” anh nói. “Tôi không thể đi quá hai mươi km từ nhà mình và tôi luôn có bốn hoặc năm người đi theo.”
‘Anh chuẩn bị đi tù chưa?” Dũng gật đầu lia lịa. “Mỗi người trong chúng tôi đều chuẩn bị vào tù,” anh nói. ‘Chúng tôi như cá nằm trên thớt, luôn sẵn sàng bị bắt giữ.”
“Anh có thấy bất kỳ dấu hiệu tiến bộ nào không?”
‘Cho đến năm 2012, nếu bị bắt, thì sẽ phải ngồi tù từ mười đến mười lăm năm. Bây giờ, nhờ áp lực quốc tế về nhân quyền, thì chỉ ngồi tù từ hai đến ba năm. Tất nhiên, thật lãng phí nếu phải ngồi tù, nhưng chúng tôi không có lựa chọn nào khác.
“Tôi có hai con trai, ba tuổi và chín tuổi. Các con tôi đã chứng kiến tôi bị quấy rối và bị chặn lại trên đường phố và bị công an đe dọa. Tổ chức của tôi là tổ chức dân sự có ảnh hưởng nhất ở Việt Nam. Tên tôi nằm trong danh sách đen của chính phủ. “
Dũng xác nhận những gì tôi đã được nghe về tham nhũng ở Việt Nam, trong đó có những người đứng đầu chính phủ và các thành viên trong gia đình và dòng tộc của họ. Anh nói với tôi rằng không có hồ sơ công khai các thông tin đăng ký của các doanh nghiệp ở Việt Nam, không có sự minh bạch về các giao dịch tài chính hoặc quyền sở hữu.
“Chúng tôi biết thủ tướng và gia đình ông ấy có liên quan đến nhiều vụ mua bán tài sản khác nhau, nơi đó chính phủ đã buộc nông dân phải rời bỏ đất đai của họ. Đây là một vấn đề lớn ở Việt Nam, những chủ đất bị tước đoạt – dân oan – hiện lên đến hàng triệu người. Nhưng chúng tôi không có bằng chứng về điều này. Họ che giấu bằng chứng. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là mô tả tình huống dựa trên quan sát của chúng tôi. Chúng tôi viết các bài báo chống tham nhũng và bị chỉ trích…
Dũng nói: “Có bằng chứng trong các bài báo của tôi sẽ làm cho tình hình của tôi tồi tệ hơn. “Chính phủ sẽ truy tìm các nguồn bằng chứng. Ở Việt Nam, chính quyền không có ý thức về tường thuật điều tra như ở phương Tây. Thay vào đó, chúng tôi sử dụng phương pháp của Pháp để bình luận về tin tức. Đôi khi bằng chứng bị rò rỉ trên mạng xã hội, nhưng tự do báo chí không tồn tại ở đây.”
‘Tôi đã đến một cuộc hội thảo ở Philippines về tường thuật điều tra. Các nhà báo từ Việt Nam đã phải thừa nhận rằng báo chí của chúng tôi yếu kém đến mức chúng tôi không có bằng chứng, ‘ông nói. ‘Sau khi tôi bị bắt, mọi nguồn tin của tôi đều biến mất. Chúng tôi không có luật, không có quy định, cho phép các nhà báo tiếp cận thông tin.’
“Chúng tôi không thể yêu cầu xem xét cấu trúc công ty cho thấy con gái của thủ tướng sở hữu một dự án nhà ở lớn, rất nhiều biệt thự và dinh thự bên ngoài Hà Nội. Các hồ sơ kinh doanh được giấu kín. Đây là lý do tại sao chúng tôi muốn xây dựng pháp luật về xã hội dân sự ở Việt Nam.
‘Kiểm duyệt là nguy hiểm ở Việt Nam, nhưng tự kiểm duyệt báo chí cũng rất nguy hiểm. Mỗi nhà báo ở Việt Nam đều có một bộ máy tự kiểm duyệt của riêng mình. Tôi biết rằng nếu tôi viết một bài báo khác về thủ tướng, tôi sẽ không được phép gặp người nước ngoài nữa. Tôi sẽ bị bắt. Tôi chỉ có thể chỉ trích các chính sách chứ không phải sự tham nhũng của ông ấy.”
Suốt buổi sáng, mọi người nhộn nhịp đi vào con hẻm trên những chiếc xe máy và đậu xe trước quán cà phê. Đám đông thưa dần sau đó, và vào buổi trưa, một hàng rào bắng sắt được chắn ngang lối vào và khóa chặt. Tiệm đóng cửa, ngoại trừ Dũng được phép nán lại bao lâu tùy ý. Cánh cổng được mở cho chúng tôi khi tôi và người phiên dịch đi ra và hướng về phía con phố nơi chúng tôi có thể đón taxi. Tôi nhìn lại thì thấy Dũng đã rút cây bút ra khỏi túi áo sơ mi và bắt đầu ghi nhanh một số công văn hàng ngày của mình.
Nguồn: Mekong Review
https://vietnamthoibao.org/vntb-tieu-diet-bao-chi/
Không có nhận xét nào