Tranh đấu cho linh hồn sông Mekong |
Hàng năm, nhịp lũ nầy đẩy nước từ Mekong qua một nhánh ở Phnom Penh, nối với hồ Tonle Sap ở Cambodia và làm cho hồ nầy phình ra trên 5 lần diện tích trong mùa khô. Tonle Sap là đặc tính cá biệt nhất của Mekong và là nền tảng cho thủy sản lớn lao của sông. Hồ phình ra rồi thu hẹp lại trong mùa khô giống như nhịp tim tạo nên 500.000 tấn cá mỗi năm ở trong hồ và đưa cá đi khắp lưu vực Mekong. Nhịp lũ trong mùa mưa của Mekong cũng cần thiết cho việc canh tác ven sông, hỗ trợ cho cuộc sống của hàng triệu người sống ven sông và các phụ lưu. Trên một tầm mức rộng lớn hơn, nước lũ lắng đọng phù sa giàu chất dinh dưỡng trên các đồng lụt Mekong kéo dài từ tây bắc Cambodia đến Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (ĐBSCL). Tuy nhiên, lưu lượng tự nhiên của Mekong và nhịp tim của Tonle Sap đang bị hủy hoại bởi việc hạn chế nước trong mùa mưa của các đập ở Trung Hoa và ở hạ lưu trong các quốc gia Mekong. [Lời người dịch: Biết thế, tại sao các tác giả lại không đá động đến ảnh hưởng của các đập ở hạ lưu Mekong? Hỏi tức là trả lời!] Khi lượng mưa trong mùa mưa thấp, như hiện nay, việc hạn chế nước ở thượng lưu làm yếu thêm nhịp đập của Mekong. Năm nay, lũ lụt hàng năm của Mekong một lần nữa lại đến trễ.
Đầu tháng nầy, các nhà nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu và học thuật nổi tiếng của Trung Hoa, gồm có Đại học Tsinghua (Thanh Hoa), công bố một nghiên cứu (được gọi là nghiên cứu của Tsinghua) cho rằng, trong mùa mưa, việc hạn chế của các đập Trung Hoa ở thượng lưu có ảnh hưởng tích cực đối với Mekong. Nghiên cứu nầy và các kết luận của nó đóng góp rất nhiều đến nhận thức của quần chúng; tuy nhiên, các tác giả bỏ qua tầm quan trọng của dòng chảy tự nhiên của Mekong và những gì được tạo nên từ dòng chảy tự nhiên đó.
Nghiên cứu của Tsinghua được thực hiện để đáp lại nghiên cứu của Eyes on Earth (EoE) công bố vào tháng 4 năm 2020, được hỗ trợ bởi Hợp tác Hạ tầng Cơ sở Khả chấp (Sustainable Infrastructure Partnership), là một phần của Sáng kiến Hạ lưu Mekong (Lower Mekong Initiative (LMI)) của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Nghiên cứu của EoE so sánh dữ kiện đo đạc của Ủy hội Sông Mekong (Mekong River Commission (MRC)) ở trạm thủy học Chiang Saen, Thái Lan (trạm gần Trung Hoa nhất) với mô hình dòng chảy tự nhiên ước tính từ chỉ số độ ẩm (wetness index) sử dụng ảnh vệ tinh để đo tất cả các dạng của độ ẩm bao gồm lượng mưa, tuyết tan, nước ngầm, độ bốc hơi, và sương. Nghiên cứu của EoE thấy rằng việc điều tiết các đập của Trung Hoa ở thượng lưu thay đổi mạnh mẽ dòng chảy tự nhiên của sông và cho thấy một sự hạn chế nước lớn lao trong mùa mưa 2019 vào lúc các quốc gia ở hạ lưu trải qua đợt hạn hán vì thời tiết. Trong điều kiện tự nhiên, nhịp lũ Mekong phải được quan sát ở Chiang Saen, tuy nhiên, việc hạn chế của các đập ở thượng lưu đã triệt tiêu nhịp lũ đó. [Lời người dịch: Điều nầy không đúng với dữ kiện mực nước đo đạc ở Chiang Saen.] Nghiên cứu kết luận rằng việc điều hành 11 đập của Trung Hoa ở thượng lưu làm cho tình hình hạn hán ở hạ lưu thêm nghiêm trọng bằng cách giới hạn dòng chảy tự nhiên từ Trung Hoa trong mùa mưa. [Lời người dịch: Lập luận nầy không có cơ sở khoa học vì các đập thủy điện ở Trung Hoa xả nước xuống hạ lưu nhiều hơn lưu lượng tự nhiên trong mùa khô.] Việc điều tra tiếp theo của chúng tôi cho thấy rằng 2 đập lớn nhất ở Trung Hoa, Xiaowan (Tiểu Loan) và Nuozhadu (Nọa Trát Độ), hạn chế khoảng 20 tỉ m3 nước từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2019. Ảnh vệ tinh cho thấy các đập nầy nay đã sẳn sàng để lặp lại việc hạn chế của năm rồi.
Nghiên cứu của Tsinghua có kết quả và kết luận phù hợp với nghiên cứu của EoE. Cả 2 nghiên cứu mô phỏng dòng chảy của sông trong 10 năm từ 2010 đến 2019, cho thấy việc xả nước quan trọng từ các đập của Trung Hoa trong mùa khô và hạn chế nước đáng kể (so với dòng chảy tự nhiên) trong mùa mưa. Nghiên cứu của Tsinghua cũng công nhận rằng việc đo đạc lượng mưa bằng viễn thám là phương pháp đáng tin cậy để ước tính dòng chảy của sông, nhất là khi không có cái mà các tác giả gọi là một hệ thống quan trắc trên mặt đất đầy đủ ở TrungHoa để theo dõi các điều kiện ở thượng
lưu trong thập niên vừa qua. Mặc dù thừa nhận các thiếu sót, các tác giả sử dụng hệ thống dữ kiện mặt đất hạn chế nầy để xác định rằng khu vực trải qua đợt hạn hán từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2019. Ngược lại, nghiên cứu của EoE khẳng định rằng có đủ nước trong thượng lưu Mekong ở Trung Hoa từ tháng 6 đến cuối năm 2019 để tạo thành nhịp lũ ở Chiang Saen. Các kết quả nầy được chứng thực bởi dữ kiện viễn thám từ Google’s Earth.
Nghiên cứu của Tsinghua kết luận rằng lưu vực Mekong “đang trải qua một tần suất hạn hán cao và tỉ lệ hạn hán xảy ra trong mùa khô cao hon nhiều so với mùa mưa”. Giả thuyết chánh của nghiên cứu là “việc điều tiết các hồ chứa trong lưu vực Mekong có thể đóng một vai trò thiết thực trong việc đối phó với hạn hán” và nhấn mạnh vai trò tích cực của các đập của Trung Hoa ở thượng lưu bằng cách hạn chế một số lượng nước to lớn trong mùa mưa và xả nhiều nước trong mùa khô. [Lời người dịch: Đây là nguyên tắc thủy học của một đập thủy điện.]
Kinh nghiệm lịch sử của Trung Hoa với sông ngòi được tô vẽ bởi sự cần thiết để khai thác và thuần hóa các sông của Trung Hoa để tránh lũ lụt gây thảm họa. Thí dụ, trận lụt trong sông Yangtze năm 1931 giết chết 3,7 triệu người và tài liệu cho thấy nhiều lần trong quá khứ ở Trung Hoa lũ lụt làm thiệt mạng trên 1 triệu người. Các thiên tai nầy đã thúc đẩy Trung Hoa phải chỉnh trị và kiểm soát gần như tất cả các sông chảy tự do. Trong suốt lịch sữ lâu dài của Trung Hoa, sông được xem như hệ thống hoang dã tự nhiên và nguy hiểm cần phải chế ngự hay thuần hóa cho lợi ích của nhân loại. Ngày nay Trung Hoa đang xuất cảng kinh nghiệm lịch sử nầy đến Mekong qua Cơ chế Hợp tác Lancang-Mekong (Lancang-Mekong Cooperation (LMC)) và nghiên cứu như nghiên cứu của Tsinghua. Khẩu hiệu của LMC là đập và việc điều tiết sông rất cần thiết để kiểm soát lũ lụt và giảm bớt hạn hán có hiệu quả.
Đây là một khái niệm nguy hiểm cho hệ thống sông trong đó chu kỳ dòng chảy tự nhiên là trụ cột của an ninh lương thực và kinh tế của Cambodia, Lào, Việt Nam và Thái Lan. Mekong là một hệ thống sông rất khác biệt. Tài liệu lịch sử trong lưu vực Mekong cho thấy không có trường hợp lũ lụt nghiêm trọng giết chết hàng ngàn người, chứ đừng nói hàng triệu. [Lời người dịch: Đúng là sông Mekong không có lũ lụt giết chết hàng ngàn người, nhưng có nhiều trận lũ lụt giết chết hàng trăm người.] Thay vào đó, một ngàn năm trước, Vương quốc Khmer trỗi dậy trên chu kỳ lũ lụt hàng năm của Mekong và thực phẩm phong phú mà nó tạo nên ở Tonle Sap. Mức sản xuất của ĐBSCL, một trong những vùng sản xuất lúa và nông phẩm quan trọng trên thế giới, tùy thuộc vào lũ Mekong. Lũ lụt cực đoan xảy ra như trong tháng 8 năm 2019 ở đông bắc Thái Lan và hạ Lào, nhưng các cộng đồng ở Mekong thích ứng để được lợi từ lũ lụt. Một nghiên cứu của MRC năm 2017 ước tính rằng lũ lụt trong mùa mưa cung cấp một lợi tức hàng năm từ 8 đến 10 tỉ USD, trong khi gây thiệt hại ít hơn 70 triệu USD. Lợi ích của lũ lụt tự nhiên vượt quá thiệt hại trên 100 lần!
Kết luận của nghiên cứu của Tsinghua, biện minh cho việc chuyển sự đóng góp của Trung Hoa trong dòng chảy Mekong từ mùa mưa sang mùa khô, dựa trên một tiền đề sai (và ích kỷ). Thực tế là đời sống ở Mekong tùy thuộc vào nhịp lũ. [Lời người dịch: Không ai phủ nhận lũ nhỏ, thường được gọi là mùa nước nổi ở ĐBSCL, mang lại lợi ích nhiều hơn thiệt hại. Nhưng lũ ở châu thổ sông Mekong bị chi phối bởi dòng chảy từ các phụ lưu ở Lào và Việt Nam chứ không phải do dòng chảy từ thượng lưu ở Trung Hoa.] Các nỗ lực để hạn chế nhịp lũ trên danh nghĩa “ngừa lụt” đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu nông dân và ngư dân ở hạ lưu. Người được lợi duy nhất của việc hạn chế như vậy là các nhà điều hành đập và thị trường điện ở thượng lưu ở Trung Hoa.
Brian Eyler là giám đốc và Courtney Waetherby là phân tích viên nghiên cứu của chương trình ĐNA thuộc Trung tâm Stimson. Alan Basist lá Chủ tịch của Eyes on Earth. Claude Williams là Chủ tịch của Global Environmental Satellite Applications.
Bình Yên Đông lược dịch
Không có nhận xét nào