Phát triển là một nhu cầu khách quan và tất yếu của xã hội loài người. Nhu cầu đó càng cấp bách tại các nước đang phát triển như Việt Nam. Sau khi đổi mới “vòng một”, Việt Nam phát triển với tốc độ cao vào loại “nhất nhì khu vực”. Theo báo chí tuyên truyền, Việt Nam có nhiều thành tích đứng đầu, làm thế giới khâm phục. Phải chăng đó là bệnh thành tích?
Việt Nam càng phát triển nhanh thì đất nước càng tụt hậu, mà vẫn chưa công nghiệp hóa. Trong khi tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt và môi trường bị xâm hại nặng nề thì Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”. Trong khi một số đại gia đã trở thành tỷ phú thì đa số người dân nghèo đi. Phải chăng đó là nghịch lý phát triển?
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, Việt Nam theo “mô hình không chịu phát triển”. Nói cách khác, phát triển ở Việt Nam không theo đúng quy luật. Đây là một vấn đề cần đặt ra không chỉ cho các chuyên gia kinh tế hay các quan chức chính phủ, mà còn cho toàn xã hội. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam phải đổi mới thể chế. Trong khi chờ các chuyên gia kinh tế lý giải về nghịch lý phát triển của Việt Nam, hãy điểm qua vài vấn đề nổi cộm.
Đà Nẵng là “thành phố đáng sống”?
Công bằng mà nói, ông Nguyễn Bá Thanh có công phát triển Đà Nẵng nhưng chủ yếu là “hạ tầng cứng”, chứ chưa phải là “hạ tầng mềm”. Ông ấy có ý tưởng biến Đà Nẵng thành “nơi đáng sống”. Nhưng dự án định biến Làng Vân thành một “Little Ma Cao” không thành. Ông ấy có kế hoạch định kết nghĩa với thành phố Yokohama của Nhật để xây dựng Đà Nẵng theo mô hình “thành phố xanh” (green city) như thành phố Cebu của Philippines.
Đó là những “giấc mơ ”, nhưng Đà Nẵng chưa trở thành “nơi đáng sống” thì ông Nguyễn Bá Thanh đã chết. Sau khi lãnh chúa Bá Thanh qua đời thì Đà Nẵng biến thành chiến địa vì các phe phái đấu đá quyết liệt để tranh giành quyền lực. Kết cục là cậu ấm Nguyễn Xuân Anh mất chức bí thư và bị kỷ luật, trong khi người hùng Vũ Nhôm phải vào lò.
Như “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, người dân Đà Nẵng chưa thoát họa sứ quân do tranh giành quyền lực thì nay thành phố lại biến thành tử địa vì Covid-19 bùng phát. Nhưng tại sao lại là Đà Nẵng? Phải chăng “phong thủy” Đà Nẵng có vấn đề, làm chính trị bất ổn và kinh doanh đổ bể? Du lịch Đà Nẵng vừa mở cửa lại thì bị Covid-19 đóng sập cửa.
Theo thống kê, Hà Nội có gần mười vạn người vào Đà Nẵng, chủ yếu đi du lịch (vì giá rẻ), nay đang phải truy tìm để làm xét nghiệm và khoanh vùng. Đà Nẵng vừa nổi lên như “ngọn cờ đầu” của ngành du lịch, thì nay chìm xuống như tội đồ của ngành y tế. Tuy Trung ương kịp thời chi viện để cứu Đà Nẵng, nhưng nguy cơ khó lường nếu không dập được dịch.
Nhiều người chủ quan và nôn nóng muốn mở cửa nhanh để phục hồi du lịch, mà không đề phòng nguy cơ Covid-19 bùng phát “vòng hai” như “thập diện mai phục”. Đó là bài học đắt giá vì để “mất bò mới lo làm chuồng”. Trong khi người Việt cần thận trọng mở cửa từng bước để tránh nguy cơ khó lường, họ đã quên “chống dịch như chống giặc”. Nguyên nhân lây nhiễm cộng đồng có thể từ những người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp.
Sài Gòn là “hòn ngọc Viễn Đông”?
Sau khi Singapore tách khỏi liên bang Malaysia (8/1965) và trở thành độc lập, ông Lý Quang Diệu từng mong Singapore được như Sài Gòn (lúc đó là “hòn ngọc Viễn Đông”). Nhưng chỉ sau 2-3 thập kỷ phát triển thần kỳ, Singapore đã vượt xa Sài Gòn. Theo số liệu năm 2020, GDP PPP của Singapore nay là 103.000 USD (chỉ thua Qartar và Luxembourg).
Khi Phú Quốc muốn trở thành “đặc khu kinh tế”, nhiều người ảo tưởng Phú Quốc sẽ phát triển như Singapore. Tuy diện tích và dân số hai hòn đảo không khác nhau mấy, Phú Quốc cũng có cơ hội phát triển, nhưng thể chế và bối cảnh khác xa nhau. Khi ông Lý Quang Diệu được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời làm “cố vấn”, ông ấy đã chia sẻ kinh nghiệm và góp ý, nhưng thất vọng vì chẳng ai thực sự lắng nghe, nên ông ấy muốn quên đi chuyện đó.
Tuy Sài Gòn phát triển nhanh, nhưng chủ yếu là bất động sản (hạ tầng cứng) theo “mô hình Thủ Thiêm”, gây ra hệ lụy tham nhũng và mâu thuẫn xã hội. Vụ Thủ Thiêm làm dư luận bức xúc, nhưng cách xử lý Nguyễn Thành Cang chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Trong khi Nguyễn Thành Cang chỉ bị “phê bình”, thì Lê Thanh Hải vẫn “bình an vô sự”.
Về hạ tầng, Sài Gòn càng xây dựng nhiều (về phía Đông) thì nạn ngập lụt ngày càng tăng mỗi khi mưa lớn, vì quy hoạch thoát nước kém. Trong khi các kênh rạch ở Bangkok vẫn giao thông được, thì kênh rạch ở Sài Gòn hoặc bị biến mất hoặc bị ô nhiễm và tắc nghẽn nên không giao thông được. Báo Pháp luật thành phố (9/8) có bài “Cách lái ô tô thoát hiểm vượt qua đường ngập nước”. Dư luận chỉ chú ý đến đối phó với hậu quả (là cái ngọn).
Muốn tháo gỡ ách tắc để phát triển bền vững, dư luận cần chú ý đến nguyên nhân (là cái gốc). Ngập lụt không chỉ do thiên tai (như biến đổi khí hậu), mà còn do nhân họa (như quy hoạch đô thị ). Trước đây, chỉ có Hà Nội thường xuyên bị ngập lụt khi mưa to, nhưng nay Sài Gòn cũng thường xuyên bị ngập lụt khi đổi mùa, như chuyện “bình thường mới”.
Trong khi đại dịch vẫn đang bủa vây, thành phố phải vừa chống dịch, vừa làm kinh tế để sống. Trong bối cảnh đó, “kinh tế ngầm” có vai trò như “phao cứu sinh” (safety net) cho người dân. Thủ Tướng khuyến khích “kinh tế ban đêm” là một ví dụ. Hành động “dẹp vỉa hè” của ông Đoàn Ngọc Hải (Quận I) trước đây là một bài học về tư duy và hành xử ấu trĩ.
“Hà Nội không vội được đâu”?
Hệ thống tuyên truyền của Hà Nội thường tự hào rằng trong gần 100 ngày Việt Nam không có trường hợp nào mắc Covid-19 mà bị chêt, và không có ai lây nhiễm cộng đồng. Đó là một thành tích rất ấn tượng, nhưng “cái gì phải đến sẽ đến”, nếu chủ quan và tự sướng với thành tích mà nhà báo David Hutt gọi là “quá tốt để thành sự thật” (too good to be true).
Khi dịch lại bùng phát ở Đà Nẵng (vào cuối tháng bảy), nó lan nhanh ra cả nước (bao gồm Hà Nội và Sài Gòn), với tốc độ chóng mặt. Theo lãnh đạo Bộ Y tế, đó là chủng virus mới có thể lây lan nhanh gấp ba lần so với trước đây. Với tâm thức chủ quan, hàng vạn người Hà Nội đã hồn nhiên đi Đà Nẵng du lịch, mà quên rằng “Hà Nội không vội được đâu”.
Trước khi dịch Covid-19 bùng phát (đầu năm nay), dư luận Hà Nội lo ngại ô nhiễm không khí vượt mức cảnh báo. Nhiều người đã phải bán nhà mặt đất để chuyển lên ở căn hộ tại các chung cư cao tầng, để tránh ô nhiễm. Nhưng mỗi khi mở cửa sổ thì chỉ mấy phút sau đèn hiệu máy lọc không khí chuyển từ màu xanh sang da cam và đỏ (mức cảnh báo).
Cách đây 5 năm, Hà Nội định chặt hạ 7,600 cây xanh như một quyết định điên rồ, làm dư luận trong nước và quốc tế phản ứng mạnh, nên phải dừng lại, tuy hàng trăm cây to đã bị chặt hạ trên mấy tuyến đường (như Nguyễn Chí Thanh). Một số cán bộ các sở có liên quan đã bị kỷ luật để xoa dịu dư luận, nhưng vụ bê bối này đã để lại một vết đen cho Hà Nội.
Trong khi đó, Hà Nội nổi tiếng thế giới vì tắc đường và tai nạn giao thông, trong khi hệ thống các cột điện với dây điện cuốn nhằng nhịt như mạng nhện làm Bill Gates phải kinh ngạc. Tại Hà Nội, người ta vẫn đào đường phố và lát lại vỉa hè vô tội vạ, như chuyện “bình thường mới”, làm thành phố lúc nào cũng ngổn ngang như một công trường thời chiến.
Trước đây, khi dự án “Thủy cung Thăng Long” bị dư luận thủ đô phản đối, đã phải dừng lại. Nhưng sau này, khi các nhóm lợi ích muốn mở rộng Hà Nội thì không ai có thể cản được. Tuy thành phố có quy định không cho xây nhà cao tầng xung quanh Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Tây, nhưng một tòa chung cư cao tầng đã mọc lên sừng sững giữa Hồ Tây tại Quảng An. Chỉ có thể lý giải thời thế đã thay đổi khi chủ nghĩa thân hữu trở thành trụ cột.
Sau khi các tập đoàn thân hữu chiếm hết đất vàng, đất bạc ở thành phố, họ đang vươn tới các rừng quốc gia (như Tam Đảo) và các khu sinh thái (như Cần Giờ) để làm khu nghỉ dưỡng. Lịch sử phát triển Việt Nam thời kỳ quá độ (hoang dã) của kinh tế thị trường sẽ ghi nhận công lao của họ về “phát triển bất động sản bằng mọi giá”. Nhưng kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy “bong bóng bất động sản” và các “đô thị ma” là một quả bom nổ chậm.
Thay lời kết
Chính phủ “kiến tạo và liêm chính” cũng như Thủ đô Hà Nội “văn minh và thanh lịch” không thể để hệ thống loa phường và các cột điện như mạng nhện vẫn tồn tại như biểu tượng của thế kỷ trước, không thể để người ta chặt hạ cây xanh, đào bới đường phố và lát lại vỉa hè vô tội vạ, không thể để ô nhiễm không khí vượt mức báo động vì quá nhiều xe cơ giới, không thể để tắc đường và tai nạn giao thông làm chết nhiều người như thời chiến.
Những câu chuyện đó không chỉ về hạ tầng đô thị của một đất nước “không chịu phát triển” mà còn về dân trí của một xã hội “không chịu đổi mới”. Nếu hệ thống lô cốt của Pháp từ thập niên 1950 vẫn tồn tại như một di tích của “chủ nghĩa thực dân cũ”, thì đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông là một biểu tượng của “chủ nghĩa thực dân mới”. Dư luận đang tranh cãi xem có nên lấy các trạm thu phí BOT làm biểu tượng của “chủ nghĩa thân hữu”.
Nếu Việt Nam “chống dịch như chống giặc” thì phải kiểm soát chặt biên giới, và không để tụ tập đông người như hàng chục vạn học sinh thi tốt nghiệp (đầy rủi ro). Nếu Việt Nam kiểm soát được đại dịch thì không có lý do gì không chịu đổi mới thể chế để phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền tại Biển Đông. Trước bước ngoặt mới khó lường, Việt Nam phải phát triển theo đúng quy luật và thoát Trung để ứng phó với thách thức và cơ hội mới.
http://www.viet-studies.net/
Nguyễn Quang Dy - Nghịch lý phát triển của Việt Nam |
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, Việt Nam theo “mô hình không chịu phát triển”. Nói cách khác, phát triển ở Việt Nam không theo đúng quy luật. Đây là một vấn đề cần đặt ra không chỉ cho các chuyên gia kinh tế hay các quan chức chính phủ, mà còn cho toàn xã hội. Muốn phát triển bền vững, Việt Nam phải đổi mới thể chế. Trong khi chờ các chuyên gia kinh tế lý giải về nghịch lý phát triển của Việt Nam, hãy điểm qua vài vấn đề nổi cộm.
Đà Nẵng là “thành phố đáng sống”?
Công bằng mà nói, ông Nguyễn Bá Thanh có công phát triển Đà Nẵng nhưng chủ yếu là “hạ tầng cứng”, chứ chưa phải là “hạ tầng mềm”. Ông ấy có ý tưởng biến Đà Nẵng thành “nơi đáng sống”. Nhưng dự án định biến Làng Vân thành một “Little Ma Cao” không thành. Ông ấy có kế hoạch định kết nghĩa với thành phố Yokohama của Nhật để xây dựng Đà Nẵng theo mô hình “thành phố xanh” (green city) như thành phố Cebu của Philippines.
Đó là những “giấc mơ ”, nhưng Đà Nẵng chưa trở thành “nơi đáng sống” thì ông Nguyễn Bá Thanh đã chết. Sau khi lãnh chúa Bá Thanh qua đời thì Đà Nẵng biến thành chiến địa vì các phe phái đấu đá quyết liệt để tranh giành quyền lực. Kết cục là cậu ấm Nguyễn Xuân Anh mất chức bí thư và bị kỷ luật, trong khi người hùng Vũ Nhôm phải vào lò.
Như “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, người dân Đà Nẵng chưa thoát họa sứ quân do tranh giành quyền lực thì nay thành phố lại biến thành tử địa vì Covid-19 bùng phát. Nhưng tại sao lại là Đà Nẵng? Phải chăng “phong thủy” Đà Nẵng có vấn đề, làm chính trị bất ổn và kinh doanh đổ bể? Du lịch Đà Nẵng vừa mở cửa lại thì bị Covid-19 đóng sập cửa.
Theo thống kê, Hà Nội có gần mười vạn người vào Đà Nẵng, chủ yếu đi du lịch (vì giá rẻ), nay đang phải truy tìm để làm xét nghiệm và khoanh vùng. Đà Nẵng vừa nổi lên như “ngọn cờ đầu” của ngành du lịch, thì nay chìm xuống như tội đồ của ngành y tế. Tuy Trung ương kịp thời chi viện để cứu Đà Nẵng, nhưng nguy cơ khó lường nếu không dập được dịch.
Nhiều người chủ quan và nôn nóng muốn mở cửa nhanh để phục hồi du lịch, mà không đề phòng nguy cơ Covid-19 bùng phát “vòng hai” như “thập diện mai phục”. Đó là bài học đắt giá vì để “mất bò mới lo làm chuồng”. Trong khi người Việt cần thận trọng mở cửa từng bước để tránh nguy cơ khó lường, họ đã quên “chống dịch như chống giặc”. Nguyên nhân lây nhiễm cộng đồng có thể từ những người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp.
Sài Gòn là “hòn ngọc Viễn Đông”?
Sau khi Singapore tách khỏi liên bang Malaysia (8/1965) và trở thành độc lập, ông Lý Quang Diệu từng mong Singapore được như Sài Gòn (lúc đó là “hòn ngọc Viễn Đông”). Nhưng chỉ sau 2-3 thập kỷ phát triển thần kỳ, Singapore đã vượt xa Sài Gòn. Theo số liệu năm 2020, GDP PPP của Singapore nay là 103.000 USD (chỉ thua Qartar và Luxembourg).
Khi Phú Quốc muốn trở thành “đặc khu kinh tế”, nhiều người ảo tưởng Phú Quốc sẽ phát triển như Singapore. Tuy diện tích và dân số hai hòn đảo không khác nhau mấy, Phú Quốc cũng có cơ hội phát triển, nhưng thể chế và bối cảnh khác xa nhau. Khi ông Lý Quang Diệu được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời làm “cố vấn”, ông ấy đã chia sẻ kinh nghiệm và góp ý, nhưng thất vọng vì chẳng ai thực sự lắng nghe, nên ông ấy muốn quên đi chuyện đó.
Tuy Sài Gòn phát triển nhanh, nhưng chủ yếu là bất động sản (hạ tầng cứng) theo “mô hình Thủ Thiêm”, gây ra hệ lụy tham nhũng và mâu thuẫn xã hội. Vụ Thủ Thiêm làm dư luận bức xúc, nhưng cách xử lý Nguyễn Thành Cang chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Trong khi Nguyễn Thành Cang chỉ bị “phê bình”, thì Lê Thanh Hải vẫn “bình an vô sự”.
Về hạ tầng, Sài Gòn càng xây dựng nhiều (về phía Đông) thì nạn ngập lụt ngày càng tăng mỗi khi mưa lớn, vì quy hoạch thoát nước kém. Trong khi các kênh rạch ở Bangkok vẫn giao thông được, thì kênh rạch ở Sài Gòn hoặc bị biến mất hoặc bị ô nhiễm và tắc nghẽn nên không giao thông được. Báo Pháp luật thành phố (9/8) có bài “Cách lái ô tô thoát hiểm vượt qua đường ngập nước”. Dư luận chỉ chú ý đến đối phó với hậu quả (là cái ngọn).
Muốn tháo gỡ ách tắc để phát triển bền vững, dư luận cần chú ý đến nguyên nhân (là cái gốc). Ngập lụt không chỉ do thiên tai (như biến đổi khí hậu), mà còn do nhân họa (như quy hoạch đô thị ). Trước đây, chỉ có Hà Nội thường xuyên bị ngập lụt khi mưa to, nhưng nay Sài Gòn cũng thường xuyên bị ngập lụt khi đổi mùa, như chuyện “bình thường mới”.
Trong khi đại dịch vẫn đang bủa vây, thành phố phải vừa chống dịch, vừa làm kinh tế để sống. Trong bối cảnh đó, “kinh tế ngầm” có vai trò như “phao cứu sinh” (safety net) cho người dân. Thủ Tướng khuyến khích “kinh tế ban đêm” là một ví dụ. Hành động “dẹp vỉa hè” của ông Đoàn Ngọc Hải (Quận I) trước đây là một bài học về tư duy và hành xử ấu trĩ.
“Hà Nội không vội được đâu”?
Hệ thống tuyên truyền của Hà Nội thường tự hào rằng trong gần 100 ngày Việt Nam không có trường hợp nào mắc Covid-19 mà bị chêt, và không có ai lây nhiễm cộng đồng. Đó là một thành tích rất ấn tượng, nhưng “cái gì phải đến sẽ đến”, nếu chủ quan và tự sướng với thành tích mà nhà báo David Hutt gọi là “quá tốt để thành sự thật” (too good to be true).
Khi dịch lại bùng phát ở Đà Nẵng (vào cuối tháng bảy), nó lan nhanh ra cả nước (bao gồm Hà Nội và Sài Gòn), với tốc độ chóng mặt. Theo lãnh đạo Bộ Y tế, đó là chủng virus mới có thể lây lan nhanh gấp ba lần so với trước đây. Với tâm thức chủ quan, hàng vạn người Hà Nội đã hồn nhiên đi Đà Nẵng du lịch, mà quên rằng “Hà Nội không vội được đâu”.
Trước khi dịch Covid-19 bùng phát (đầu năm nay), dư luận Hà Nội lo ngại ô nhiễm không khí vượt mức cảnh báo. Nhiều người đã phải bán nhà mặt đất để chuyển lên ở căn hộ tại các chung cư cao tầng, để tránh ô nhiễm. Nhưng mỗi khi mở cửa sổ thì chỉ mấy phút sau đèn hiệu máy lọc không khí chuyển từ màu xanh sang da cam và đỏ (mức cảnh báo).
Cách đây 5 năm, Hà Nội định chặt hạ 7,600 cây xanh như một quyết định điên rồ, làm dư luận trong nước và quốc tế phản ứng mạnh, nên phải dừng lại, tuy hàng trăm cây to đã bị chặt hạ trên mấy tuyến đường (như Nguyễn Chí Thanh). Một số cán bộ các sở có liên quan đã bị kỷ luật để xoa dịu dư luận, nhưng vụ bê bối này đã để lại một vết đen cho Hà Nội.
Trong khi đó, Hà Nội nổi tiếng thế giới vì tắc đường và tai nạn giao thông, trong khi hệ thống các cột điện với dây điện cuốn nhằng nhịt như mạng nhện làm Bill Gates phải kinh ngạc. Tại Hà Nội, người ta vẫn đào đường phố và lát lại vỉa hè vô tội vạ, như chuyện “bình thường mới”, làm thành phố lúc nào cũng ngổn ngang như một công trường thời chiến.
Trước đây, khi dự án “Thủy cung Thăng Long” bị dư luận thủ đô phản đối, đã phải dừng lại. Nhưng sau này, khi các nhóm lợi ích muốn mở rộng Hà Nội thì không ai có thể cản được. Tuy thành phố có quy định không cho xây nhà cao tầng xung quanh Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Tây, nhưng một tòa chung cư cao tầng đã mọc lên sừng sững giữa Hồ Tây tại Quảng An. Chỉ có thể lý giải thời thế đã thay đổi khi chủ nghĩa thân hữu trở thành trụ cột.
Sau khi các tập đoàn thân hữu chiếm hết đất vàng, đất bạc ở thành phố, họ đang vươn tới các rừng quốc gia (như Tam Đảo) và các khu sinh thái (như Cần Giờ) để làm khu nghỉ dưỡng. Lịch sử phát triển Việt Nam thời kỳ quá độ (hoang dã) của kinh tế thị trường sẽ ghi nhận công lao của họ về “phát triển bất động sản bằng mọi giá”. Nhưng kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy “bong bóng bất động sản” và các “đô thị ma” là một quả bom nổ chậm.
Thay lời kết
Chính phủ “kiến tạo và liêm chính” cũng như Thủ đô Hà Nội “văn minh và thanh lịch” không thể để hệ thống loa phường và các cột điện như mạng nhện vẫn tồn tại như biểu tượng của thế kỷ trước, không thể để người ta chặt hạ cây xanh, đào bới đường phố và lát lại vỉa hè vô tội vạ, không thể để ô nhiễm không khí vượt mức báo động vì quá nhiều xe cơ giới, không thể để tắc đường và tai nạn giao thông làm chết nhiều người như thời chiến.
Những câu chuyện đó không chỉ về hạ tầng đô thị của một đất nước “không chịu phát triển” mà còn về dân trí của một xã hội “không chịu đổi mới”. Nếu hệ thống lô cốt của Pháp từ thập niên 1950 vẫn tồn tại như một di tích của “chủ nghĩa thực dân cũ”, thì đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông là một biểu tượng của “chủ nghĩa thực dân mới”. Dư luận đang tranh cãi xem có nên lấy các trạm thu phí BOT làm biểu tượng của “chủ nghĩa thân hữu”.
Nếu Việt Nam “chống dịch như chống giặc” thì phải kiểm soát chặt biên giới, và không để tụ tập đông người như hàng chục vạn học sinh thi tốt nghiệp (đầy rủi ro). Nếu Việt Nam kiểm soát được đại dịch thì không có lý do gì không chịu đổi mới thể chế để phát triển bền vững và bảo vệ chủ quyền tại Biển Đông. Trước bước ngoặt mới khó lường, Việt Nam phải phát triển theo đúng quy luật và thoát Trung để ứng phó với thách thức và cơ hội mới.
http://www.viet-studies.net/
Không có nhận xét nào