Vị trí đảo Koh Kong (Ảnh Google Map) |
Những
năm gần đây sự việc Trung Quốc chiếm đảo, vét cát dưới đáy biển xây
dựng căn cứ quân sự, xây sân bay, đặt tên lửa tại biển Đông khiến người
ta vô tâm quên mất rằng cánh tay dài của Đại Hán đã vươn qua biển thò
đến tận Phnom Penh tự thuở nào. Dưới mắt nhiều quan sát viên quốc tế thì
Campuchia ngày nay là một tỉnh của Trung Quốc, và Thủ tướng Hun Sen là
một bí thư tỉnh ủy của Đảng Cộng sản Trung Quốc, không hơn không kém.
Trung
Quốc thiết lập căn cứ quân sự trên đất Campuchia là mối đe dọa nghiêm
trọng cho các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á, và Hoa Kỳ chắc chắn
không thể không nhận ra hiểm họa to lớn đó. Trong buổi tường trình lên
Ủy ban Tình báo Thượng viện Hoa Kỳ hôm tháng Giêng năm 2019, Giám đốc Sở
Tình báo Quốc gia, lúc đó là ông Dan Coats, đã cảnh báo rằng “Campuchia
đang có nguy cơ biến thành một quốc gia độc tài, và điều đó sẽ mở đường
cho Trung Quốc thiết lập các căn cứ quân sự trên miền đất ấy.”
Campuchia
ngày nay sống nhờ Trung Quốc; chế độ thối nát, tham nhũng, cực quyền do
Thủ tướng Hun Sen cai trị với những thủ đoạn bất lương của một băng
đảng, hoàn toàn khống chế, bằng những biện pháp đàn áp thô bạo nhất, mọi
tiếng nói đối lập, phản biện từ quần chúng. Hiến pháp Campuchia, cũng
như Hiệp định Paris 1991, thỏa thuận chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài
nhiều năm, và trên nguyên tắc, không cho phép bất cứ một thế lực ngoại
bang nào thiết lập lực lượng quân sự trên đất nhà, thế nhưng những gì
thực sự đã và đang xảy ra ngày nay phơi bày cho thế giới thấy một thực
trạng hoàn toàn khác biệt.
Bắc
Kinh từ nhiều năm là nguồn tài trợ to lớn đổ vào Campuchia, chính quyền
Hun Sen tùy thuộc phần nhiều vào sự trợ giúp đó để tồn tại. Nhưng theo
các phân tích viên quốc tế thì Hun Sen sẽ giẫm qua “lằn ranh đỏ,” ít
nhất là trên mặt nổi, đối nội cũng như đối ngoại, nếu ông ta cho phép
Trung Quốc thiết lập các căn cứ quân sự trú phòng. Lẽ đương nhiên, quan
chức Campuchia và chính bản thân Hun Sen cực lực bác bỏ lời cáo buộc của
tình báo Hoa Kỳ, họ gọi đó là “fake-news.” Nhưng theo nhiều tài liệu và
văn kiện báo chí thế giới phanh phui được thì Trung Quốc và Campuchia
đã ký kết một điều ước mật cho phép Trung Quốc đặt căn cứ hải quân tại
Ream, một văn kiện khác tiết lộ một toán chuyên gia Trung Quốc đã xuống
khảo sát hình thế, thi hành các công tác trắc địa tại đây.
Để
trả lời câu hỏi của báo chí về các biến chuyển này, chính quyền Bắc
Kinh và Phnom Penh lặp đi lặp lại luận điệu cố hữu: những dự án ấy nằm
trong chương trình đầu tư và xây dựng hạ tầng cơ sở nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế thời bình. Với tham vọng bành trướng bá quyền càng ngày
càng lộ rõ, không ai tin Trung Quốc bỏ cả tỉ bạc giúp Campuchia xây khu
du lịch, đường sá, trường học cho trẻ em nghèo, v.v. Bằng chứng sáng tỏ
như ban ngày là Trung Quốc đang xây căn cứ quân sự chứ không phải nhà
nghỉ mát. Đường băng và hải cảng nước sâu ở tỉnh Koh Kong là bằng chứng
hiển nhiên, rồi mô hình thiết kế khu du lịch nằm trên đảo Koh Rong cho
thấy đây là một căn cứ quân sự chứ không phải khách sạn và sân chơi cho
khách du lịch.
Đi
ngược thời gian ít năm, chính xác là năm 2013, Chủ tịch Nhà nước Tập
Cận Bình công bố một dự án khổng lồ lấy tên là Nhất Đới Nhất Lộ (Tây
phương gọi là Belt and Road Initiative) – một dự án lên đến cả ngàn tỉ
Mỹ kim. Sáng kiến Nhất Đới Nhất Lộ của Trung Quốc – một vành đai, một
con đường – là dự án lấy danh nghĩa phát triển kinh tế đa quốc gia thông
qua hai kế hoạch Con Đường Tơ Lụa và Đường Hàng Hải. Tuy nhiên, học
viện Brookings của Hoa Kỳ, trong một bản tường trình hôm tháng 9 năm
2019 ghi nhận là, “Những dự án hạ tầng cơ sở này được xây dựng mau chóng
và hoạt động dễ dàng hơn là các căn cứ quân sự. Để thiết lập và bảo trì
ít tốn kém kinh phí hơn, và trên thực tế, chúng thuộc quyền sở hữu của
Trung Quốc.”
Hơn
nữa, hiệp thương kinh tế bao giờ cũng đi đôi với hiệp ước hỗ tương quân
sự, mà cán cân thường ngả về phía quân sự nhiều hơn, như có lần bị
Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng Cấp cao của Hoa Kỳ phanh phui năm 2017.
Đòn
phép che mắt thế giới của Tập Cận Bình là tạo sự nhập nhằng giữa quân
sự và dân sự. Bằng nghị quyết trung ương, Tập dần dà xóa bỏ lằn ranh
giữa dân chính và quân chính. Đây là âm mưu thâm độc nhằm biến tiềm năng
cả nước thành một lực lượng vũ trang kinh khiếp khi cần thiết. Điển
hình là với những nghị quyết trung ương trong hai năm 2015 và 2016,
thương thuyền của Trung Quốc từ nay trở đi phải đạt tiêu chuẩn quân sự.
Có nghĩa là một chiếc thương thuyền chở hàng hóa có thể biến ngay thành
một chiến thuyền trong trường hợp chiến tranh hay xung đột xảy ra. Tại
biển Nam Trung Hoa, ngư thuyền Việt Nam và Philippines thường là những
miếng mồi ngon cho khinh hạm bọc sắt ngụy trang tàu đánh cá của Trung
Quốc.
Xuyên
qua dự án Nhất Đới Nhất Lộ, nhất là tại các hải cảng và vùng duyên hải,
chính quyền Trung Quốc hiện đang xây dựng cơ sở và căn cứ vững chãi tại
các địa điểm chiến lược. Tay làm nhưng miệng vẫn chối bai bải: Chúng
tôi nào có tham vọng quân sự, chúng tôi làm vì nhân đạo và hòa bình thế
giới!
Quyền
lợi kinh tế của Trung Quốc hiện nay nằm rải rác khắp nơi trên thế giới,
và để bảo vệ, Trung Quốc sẽ phải đổ tiền vào xây dựng căn cứ quân sự.
Các căn cứ này, từ khả năng phòng ngự lúc ban đầu sẽ nhanh chóng biến
thành cứ điểm mạnh mẽ dùng cho tiềm lực tấn công chiến lược một khi
chiến tranh xảy ra. Đây là chính sách Trung Quốc đã và đang áp dụng trên
toàn vùng Đông Á.
Ở
biển Nam Trung Hoa, Trung Quốc từ năm 1974 đã “thái dồi” xong quần đảo
Hoàng Sa trong tay Việt Nam và ngang nhiên kéo những giàn khoan dầu nổi
có cả hạm đội tàu chiến yểm trợ vào vùng biển mà Hà Nội vẫn xem là thuộc
Việt Nam. Cùng một nước cờ, Trung Quốc cưỡng chiếm bãi đá ngầm
Macclesfield Bank (Trung Quốc gọi là Trung Sa) và bãi cạn Scarborough
Shoal (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham Đảo) của Philippines. Trung Quốc
cũng tiến chiếm một số các hòn đảo ám tiêu san hô thuộc quần đảo Trường
Sa từ Việt Nam và các quốc gia khác trong vùng. Từ năm 2013, tại đây,
Trung Quốc bất chấp công pháp quốc tế, thực hiện các công trình quy mô
vét cát dưới lòng biển, đổ bê-tông, biến rạn san hô thành đảo nhân tạo
rồi xây đường băng, đặt giàn tên lửa, v.v. Sau khi Tòa án Trọng tài
Thường trực đưa ra phán quyết bác bỏ tính hợp pháp của tuyên bố chủ
quyền “đường lưỡi bò chín đoạn” của Trung Quốc – đòi chủ quyền 90% lãnh
hải biển Nam Trung Hoa, một vùng biển rộng cả triệu dặm vuông, hải sản
và tài nguyên phong phú, và cũng là một hải tuyến giao thương quan yếu
năm nghìn tỉ Mỹ kim hàng hóa qua lại mỗi năm – Trung Quốc vẫn tiếp tục
xem thường công luận quốc tế, duy trì thái độ hung hăng cố hữu, không
ngừng tập diễn quân sự tại các hòn đảo nhân tạo này, đồng thời tích cực
vận động ngoại giao để lôi kéo đồng minh về phe mình.
Thoạt
đầu họ tuyên bố mục đích chỉ để bảo vệ san hô đang bị môi trường hủy
diệt, và trợ giúp tàu bè lâm nạn trên biển, nhưng khi hành vi trở nên
quá lộ liễu thì họ thú nhận là có quân sự hóa nhưng chỉ nhằm vào mục
tiêu thuần túy phòng ngự. Ngay cả khi đặt giàn tên lửa hành trình và
chuyển đến một lực lượng chiến đấu cơ khá hùng hậu trên các hòn đảo ấy,
Bắc Kinh vẫn trơ trẽn tuyên bố với thế giới rằng họ không hề có bất cứ
một tham vọng quân sự nào!
Cùng
một luận điệu, Bắc Kinh cũng đang biến Djibouti thành một căn cứ quân
sự trọng yếu. Djibouti tọa lạc tại vùng đất thường được mệnh danh là
Sừng Châu Phi. Nó canh gác hệ thống các hải cảng bên bờ biển Châu Phi,
từ vịnh Ba Tư, góp phần hình thành nên hải tuyến thương mại quan trọng
từ thời cổ đại trải dọc Ấn Độ Dương. Trung Quốc đã đầu tư vào đây từ năm
2000, họ lấy lòng chính quyền địa phương bằng cách cho vay nợ mà không
cần trả. Năm 2016 chính quyền Djibouti tuyên bố thiết lập đặc khu và ký
kết một điều ước 10 năm với Trung Quốc. Dĩ nhiên, Trung Quốc trấn an thế
giới bảo đây chỉ là một căn cứ hậu cần sử dụng trong những công tác trợ
giúp nhân đạo và chống hải tặc. Nhưng sự thật thì khác hẳn, không ảnh
vệ tinh gần đây cho thấy những công trình xây dựng hiện rõ là một căn cứ
hải quân khổng lồ có khả năng đón nhận tàu chiến và tàu ngầm nguyên tử.
Cùng
một sách lược ấy, Trung Quốc đang dần dà biến Campuchia thành một phiên
thuộc. Với nguồn tài trợ khổng lồ từ Bắc Kinh đổ vào, chính quyền Phnom
Penh càng lúc càng trở nên độc tài, vi phạm nhân quyền một cách thô bạo
để thỏa mãn những yêu sách của Bắc Kinh. Thủ tướng Hun Sen chỉ là kẻ
thừa hành những chương trình do Trung Quốc đặt ra. Trận đại dịch
Covid-19 cho thế giới thấy rõ Hun Sen là người như thế nào. Ngay sau khi
Trung Quốc tuyên bố mở cửa, Hun Sen là nguyên thủ quốc gia đầu tiên bay
lên Bắc Kinh chúc mừng Tập Cận Bình. Và, trong khi đại dịch vẫn đang
hoành hành dữ dội, nhà nước Campuchia vẫn không ra lệnh đình chỉ các
chuyến bay giữa hai quốc gia. Điều này chứng tỏ ông ta coi trọng đồng
tiền của Bắc Kinh hơn sinh mạng người dân. Hun Sen còn giúp Trung Quốc
tránh thuế thương chính của Hoa Kỳ trong trận thương chiến giữa hai quốc
gia bằng cách cho phép Trung Quốc sử dụng đặc khu kinh tế do Trung Quốc
làm chủ ở Sihanoukville để vận chuyển hàng hóa.
Có
lẽ Hun Sen không có chọn lựa nào khác. Ngày nay Campuchia gần như bị cô
lập trên chính trường quốc tế; dân chúng trong nước, nhất là giới trẻ,
hoàn toàn mất tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của con người nhiều thủ
đoạn và hèn kém ấy. Nhưng với sự hỗ trợ tích cực từ Trung Quốc, chính
quyền Phnom Penh không từ bỏ bất cứ một biện pháp thô bạo nào nhằm bóp
nghẹt tiếng nói của phe đối lập và báo chí. Tình trạng tham nhũng trong
chính quyền và các thiết chế xã hội tràn lan khủng khiếp; sắc luật
“Chống Tham nhũng” ban hành năm 2010 chỉ là một văn kiện khôi hài, thí
dụ, kẻ thổi còi báo động tham nhũng (whistle-blower), nếu không trưng ra
được bằng chứng cụ thể, sẽ bị sáu tháng tù! Không cần nói nhiều, những
vi phạm nhân quyền như giết chóc, tra tấn những kẻ bị xem là nguy hiểm
cho chế độ, kể cả trí thức và báo chí đối lập, xảy ra thường xuyên, đến
nỗi năm 2018 Liên Hiệp Quốc đã phải lên tiếng cảnh báo. Đáng buồn nhất
là ở Campuchia ngày nay tình trạng nô lệ vẫn còn tồn tại. Theo Chỉ số Nô
lệ Toàn cầu (văn phòng chính ở Paris) công bố năm 2016 thì Campuchia có
256.800 người (tức 1,65% dân số) là nô lệ!
Trung
Quốc đổ nguồn đầu tư vào Campuchia với danh nghĩa phát triển kinh tế,
nhưng sự thật là những lợi ích chỉ dồn vào Hun Sen và tập đoàn thống trị
của ông ta. Tại tỉnh Koh Kong (xem bản đồ) phía tây nam Campuchia, sân
bay và hải cảng nước sâu không phải để giúp ngành du lịch quốc gia có
thêm lợi nhuận, dân chúng có công ăn việc làm, mà được sử dụng như một
căn cứ vĩ đại của hải quân Trung Quốc. Nhà nước Campuchia đã dâng cho
Tập đoàn Liên hợp Phát triển Thiên Tân ít nhất 20% chiều dài toàn thể bờ
biển quốc gia, gấp ba lần con số luật đất đai cho phép, để xây dựng căn
cứ này. Theo điều ước 99-năm-nhượng-địa với cái giá rẻ hơn bèo 30 Mỹ
kim một héc-ta, Trung Quốc sẽ làm chủ dải đất chiến lược này trong một
thời gian rất dài. Không người Campuchia nào được phép làm bất cứ điều
gì trên dải đất đó. Cả ngàn gia đình bị cướp đất, không một đồng xu bồi
thường, và khi dân oan lên Phnom Penh khiếu kiện nhà nước thì bị cảnh
sát bắt giam vào nhà tù.
Nắm
giữ hải cảng nước sâu Koh Kong, Trung Quốc kiểm soát cửa ngõ biển Nam
Trung Hoa ra Ấn Độ Dương, đi luồn qua eo biển Malacca nhỏ hẹp và trắc
trở. Từ lâu các chiến lược gia thế giới đều đồng ý rằng ai kiểm soát eo
biển đó sẽ kiểm soát luôn Đông Nam Á, và có lẽ cả Đông Á, bởi đa phần
dầu khí dùng thắp đèn và chế tạo xăng nhớt cho ô-tô chạy ở Nhật Bản và
Nam Hàn đều phải đi qua vùng biển này.
Đặt
căn cứ quân sự tại Koh Kong, cùng với Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc
tạo thành thế tam giác bao vây các quốc gia Đông Nam Á vào giữa, trong
đó Việt Nam là cái đích dễ ngắm bắn nhất. Nếu chiến tranh toàn diện giữa
hai quốc gia xảy ra (một điều không ai mong muốn, kể cả Trung Quốc),
với tên lửa hành trình và một lực lượng phóng pháo / chiến đấu cơ tàng
hình thế-hệ-thứ-năm J-20 tiên tiến, trong vòng 72 giờ, cả nước Việt Nam
sẽ biến thành biển lửa, và “bài học” năm 1979 chỉ là cái “búng tai” thật
nhẹ.
Chiến
tranh có thể không xảy ra, nhưng trong lúc ngồi đàm phán, bạn chẳng thể
nào ở thế thượng phong nếu khẩu súng to đùng của phe địch lúc nào cũng
lăm lăm chĩa vào đầu bạn.
Ngoài
Campuchia, các quốc gia khác trong vùng cho tới giờ phút này vẫn chưa
bị Trung Quốc áp đặt một chế độ cho phép họ đem quân đội và vũ khí vào.
Nhưng nếu cộng đồng thế giới làm ngơ vì quyền lợi nhỏ trước mắt để Trung
Quốc tiếp tục sách lược “nói một đàng, làm một nẻo” thì sớm muộn
Campuchia sẽ biến thành trạm gác của Trung Quốc. Sách lược ấy, họ không
cần tìm kiếm đâu xa, mà chỉ cần giở lại thiên Kế sách trong binh pháp
Tôn Tử. Cách đây hai nghìn năm trăm năm, Tôn Tử nói: “Binh giả, ngụy đạo
dã.” Có nghĩa là: Dụng binh tác chiến là một hành vi ngụy tạo, giả trá,
tấn công trong lúc đối phương không đề phòng, hành động ở chỗ đối
phương không ngờ tới, mà mục đích cuối cùng vẫn luôn luôn là đánh thắng
quân thù. Kỳ thực, xảo trá là tư tưởng chiến lược rất quan trọng xuyên
suốt binh pháp Tôn Tử mà Tập Cận Bình cùng ban tham mưu của ông ta ngày
nay áp dụng một cách triệt để trên chính trường thế giới.
Các
nhà nắm chính sách của Hoa Kỳ chắc chắn biết như thế, và Hoa Kỳ vừa
ngấm ngầm vừa công khai giúp các quốc gia nhỏ trong vùng như Indonesia,
Malaysia, Philippines, Thái Lan, và Việt Nam những phương tiện kỹ thuật
để rà soát mạng lưới an ninh hàng hải, bao gồm cả công tác dò thám hành
động quân sự mật của Trung Quốc, và chia sẻ những thông tin này với
Washington. Điều này trở nên cấp bách hơn bao giờ, và cần triển khai cho
rộng lớn hơn. Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh nếu không kịp thời ngăn
chặn Trung Quốc biến Campuchia thành một pháo đài tiền tuyến thì đó sẽ
là gót chân của Achilles trong sách lược ngăn chặn hiểm họa làn sóng bá
quyền của Trung Quốc đang ồ ạt bành trướng phủ trùm lên toàn cõi Đông Á.
Thêm nữa, dân tộc Campuchia cần được hỗ trợ để họ giữ vững chủ quyền
đất đai, đòi hỏi có bầu cử tự do và lương thiện, hầu phục hồi lại thể
chế độc lập và trung lập trên xứ sở vốn trải qua không biết bao nhiêu
tai ương khốc hại suốt gần thế kỷ qua.
Biết
như vậy, Tổng thống Obama của Hoa Kỳ đã sớm “xoay trục” chính sách đối
ngoại với chủ đích nhắm vào Á Châu nhiều hơn. Tuy nhiên, theo ông Pat
Mulloy, cựu thành viên của Ủy ban Xét duyệt Kinh tế và An ninh Mỹ-Trung,
thì sách lược “xoay trục” xem-quân-sự-là-chính của Nhà Trắng đã để lộ
ra sự thiếu hiểu biết cơ bản của Hoa Kỳ về yêu cầu cấp thiết tái dựng
sức mạnh quốc gia tổng hợp. Ông đưa ra nhận định sau: “Tổng thống bảo
chúng ta phải xoay trục sang Á Châu vì Trung Quốc đang vươn lên. Nhưng
Trung Quốc vươn lên chính vì chúng ta đã để cán cân mậu dịch nghiêng hẳn
về phía Trung Quốc. Do đó, phải chăng sẽ hợp lý hơn nhiều nếu chúng ta
quân bằng cán cân ấy bằng cách chấm dứt ngay tình trạng giới tiêu thụ Mỹ
tiếp tục nuôi cho Trung Quốc đi lên? Đấy mới là phương cách xoay trục
sang Á Châu thật sự thông minh.”
Câu
nói của ông Mulloy nghe càng chua xót trong trận đại dịch Covid-19 khi
người dân biết là 90% thuốc men của Hoa Kỳ là do Trung Quốc sản xuất và
cung cấp!
Giáo
sư Tiến sĩ Peter Navarro, hiện đang là cố vấn kinh tế cho Tổng thống
Trump, thì đưa ra suy nghĩ sau về khó khăn này của Hoa Kỳ: “Để chống đỡ
những thách đố khó khăn và các vấn đề kinh tế, an ninh nghiêm trọng gây
nên bởi sự tiến bộ nhanh chóng của Trung Quốc, trước hết chúng ta phải
có đồng thuận chính trị. Tuy vậy, rất khó đạt được sự đồng thuận như thế
trong một thể chế dân chủ mở nơi những phe nhóm lợi ích tranh giành ảnh
hưởng kinh tế chia nhau đặc quyền trong việc buôn bán với Trung Quốc,
những nhóm “chính trị hành lang” sẽ tranh giành lẫn nhau chứ không chịu
ngồi chung bàn để cùng hướng về một mục đích chung. Thêm nữa, trong khi
chính quyền Cộng sản độc tài Trung Quốc có toàn quyền dùng báo chí,
truyền thanh, truyền hình làm cái loa cho luận điểm của mình thì giới
truyển thông Tây phương và các trường đại học Hoa Kỳ đều tự áp đặt một
chế độ kiểm duyệt. Sự thật là “căn nhà chia rẽ” này đã từ lâu giải thích
tại sao các nền dân chủ Tây Phương, nhất là Hoa Kỳ, đã tỏ ra vô cùng
chậm chạp khi phản ứng lại một Trung Quốc hận thù ấp ủ nhất quyết tiến
lên chiếm lĩnh vai trò độc bá thế giới. Tuy nhiên, nếu tình trạng
vùi-đầu-xuống-cát này tiếp diễn mãi thì kết cuộc của câu chuyện, tôi e
là rất tệ.”
Lời lẽ của giáo sư Navarro rất đáng cho chúng ta suy ngẫm.
Trịnh Khải Nguyên Chương
(Bauxite VN)
Không có nhận xét nào