Một giàn khoan của tập đoàn Repsol (hình chỉ có tính minh họa) |
BBC
có xác nhận rằng liên doanh Rosneft Việt Nam đã hủy một hợp đồng khoan
với Noble Corporation, xuất phát từ sức ép của Trung Quốc.
Noble Corporation và công ty điều hành dầu khí Rosneft Việt Nam hủy hợp đồng khoan đã ký giữa 2 bên.
Rosneft
Việt Nam là liên doanh giữa tập đoàn Rosneft của Nga (35%), ONGC (45%)
của Ấn Độ, và PetroVietnam - PVN (20%) của phía chủ nhà Việt Nam. Trong
liên doanh này, Rosneft làm nhà điều hành và đây là công ty có 50% vốn
của chính phủ Nga.
"Việt
Nam - Noble Clyde Boudre: Hợp đồng trước đó đã bị hủy." Đó là dòng
thông báo vỏn vẹn trên webiste riêng của Noble hôm 9/7. Không có thông
tin về nguyên nhân cũng như số tiền Việt Nam phải đền bù.
Noble
Clyde Boudreaux là giàn khoan treo cờ Liberia, thuộc sở hữu của công ty
Noble Corporation, một công ty đăng ký ở Anh, hoạt động ở Cayman
Islands.
Dàn
khoan này tới Vũng Tàu vào tháng 4/2020. Đến tháng Năm, Chính phủ Việt
Nam họp cân nhắc triển khai Noble Clyde Boudreaux tại Lô 06-01, nơi tập
đoàn Rosneft của Nga đã hoạt động được vài năm.
Nhưng mới nhất, Tập đoàn Noble thông tin rằng hợp đồng giàn khoan Noble Clyde Boudreaux đã bị hủy bỏ.
Lô
06-01 nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Bãi Tư Chính,
tuy nhiên cũng nằm trong khu vực Đường Chín Đoạn do Trung Quốc tự vẽ ra.
'Sức ép từ Trung Quốc'
Nguồn
tin thân cận với các lãnh đạo ngành dầu khí Việt Nam, ông Nguyễn Lê
Minh, thuộc Hội đồng Biên tập và Phản biện Tạp chí Năng lượng Việt Nam,
tiết lộ với BBC rằng vụ hủy hợp đồng khoan của Tập đoàn Noble là 'do sức
ép từ Trung Quốc'.
Trả lời BBC News Tiếng Việt, ông Nguyễn Lê Minh nói:
"Không phủ nhận việc Trung Quốc gây sức ép."
"Đây
là giếng khoan thẩm lượng (appraisal well) phía ngoài mỏ Phong Lan Dại,
nên nếu để căng thẳng leo thang sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động khai
thác của mỏ này và các mỏ lân cận trong Lô 06-01 như Lan Tây và Lan Đỏ.
"Chưa kể, còn ảnh hưởng đến tình hình khu vực bể Nam Côn Sơn, nơi có tàu cá và tàu bè quốc tế qua lại.
"Vì
vậy, sau khi cân nhắc kỹ, Chính phủ thông qua PetroVietnam đã thông báo
nhà điều hành Rosneft Việt Nam cho dừng chiến dịch khoan (của Noble
Corporation), và dời sang năm sau."
Việt - Trung
Đối đầu giữa tàu cảnh sát biển Việt Nam và tàu tuần duyên Trung Quốc trên Biển Đông năm 2014 |
Về chi phí bồi thường, ông Lê Minh nói ước tính chỉ khoảng 'mấy triệu đô la'.
"Thứ
nhất, về chi phí thuê giàn khoan, đương nhiên, phía chủ nhà và Rosneft
Việt Nam có ảnh hưởng song không nhiều vì chỉ phải trả cho Noble
Corporation chi phí hủy hợp đồng mà thôi, ước tính khoảng mấy triệu đô
la.
"Thứ
hai, về sản lượng khai thác như kế hoạch năm nay, việc dừng giếng khoan
thẩm lượng này sẽ không ảnh hưởng gì đến sản lượng khí của Lô 06-01 khi
các mỏ hiện hữu như Lan Tây, Lan Đỏ đang khai thác ổn định. Cần biết,
khí từ Lô 06-01 cung cấp 9% điện năng của Việt Nam và việc bảo đảm các
hoạt động xuyên suốt là ưu tiên hàng đầu.
"Về
dài hạn, quyền lợi của các đối tác trong liên doanh Rosneft Việt Nam sẽ
không ảnh hưởng gì vì hàng năm, có tính đến trượt giá 2%, điều chỉnh
tăng trong thời hạn hợp đồng dầu khí còn gần 10 năm nữa."
Cũng theo ông Nguyễn Lê Minh, về mặt chính trị, ngoại giao và an ninh lãnh hải, Việt Nam "hoàn toàn chủ động".
"Tôi
muốn nhấn mạnh từ chủ động này là vì ngoài Viện hàn lâm khoa học xã hội
chuyên tư vấn về chính sách, đường lối đối ngoại cho Chính phủ thì còn
Ủy ban biên giới (Bộ Ngoại giao), Tổng cục 2 (Bộ Quốc phòng) và Cục Tình
báo Bộ Công an, cập nhật tình hình, đánh giá rủi ro rất sát sao để tư
vấn cho chính phủ đưa ra các quyết sách phù hợp với tình hình. Vì vậy,
các lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư, hải quân, chưa cần phải huy động
khi tình hình đang trong tầm kiểm soát.
"Việc
gây sức ép lên chiến dịch khoan ở Lô dầu khí 06-01, diễn ra trước thềm
đại hội Trung ương Đảng XIII, cũng đã được nhận diện và tính đến. Nghĩa
là, họ muốn gây sức ép để làm một phép thử về bản lĩnh của các lãnh đạo
Việt Nam. Theo đó, họ muốn kéo Việt Nam vào tranh chấp để đi đến đàm
phán song phương về các quyền lợi trên biển, mà nếu sa vào, Việt Nam sẽ
bất lợi và sa lầy về mặt chính trị.
"Cụ
thể là nếu căng thẳng leo thang, hai bên sẽ có các cuộc gặp cấp cao và
trước Đại hội Đảng, sẽ ảnh hưởng đến công tác cán bộ và đường lối đối
ngoại.
"Trong
khi, khu vực Nam Côn Sơn nói riêng và thềm lục địa Việt Nam nói chung,
thông qua các hợp đồng dầu khí, không chỉ có quyền lợi của phía chủ nhà
mà còn có quyền lợi của các đối tác quốc tế.
"Ngoài
ra, ở Biển Đông, ngoài các hoạt động dầu khí, còn có các hoạt động đánh
bắt thủy hải sản của các nước trong các vùng đặc quyền kinh tế kinh tế
EEZ của mình. Nhìn rộng hơn, nơi đây có nhiều tuyến giao thương, lưu
thông hàng hải quan trọng kết nối Châu Âu, Châu Á, Đông Nam Á và Ấn Độ
Dương."
Hậu quả nghiêm trọng?
Áp
lực từ Trung Quốc đã khiến Việt Nam phải xuống nước ít nhất là ba lần,
Bill Hayton, nhà báo của BBC News, đồng thời là nhà nghiên cứu Biển
Đông, nói với BBC News Tiếng Việt.
Việt
Nam đã phải bồi thường cho Repsol của Tây Ban Nha và Mubadala của Các
Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, số tiền 1 tỷ đô la, theo nguồn tin của
Bill Hayton.
Và bây giờ cho tập đoàn Noble.
Bill
Hayton nói với BBC News Tiếng Việt rằng sẽ chẳng có công ty dầu khí nào
ngờ rằng Việt Nam sẽ lại không tiếp tục xuống nước như vậy trước Trung
Quốc.
Ngoài
mất tiền, hành động này còn gây ra các hậu quả nghiêm trọng khác về
quyền lợi hợp pháp trên Biển Đông và niềm tin với các nhà đầu tư nước
ngoài.
Việt
Nam đã tạo ra "một tiền lệ tồi tệ" từ vụ Repsol. Và nay vụ hủy hợp đồng
với Noble đã "đóng thêm một chiếc đinh lên cỗ quan tài trong nỗ lực
phát triển nguồn trữ lượng khí ở khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam", GS
Carl Thayer, nhà nghiên cứu Đông Nam Á kỳ cựu nói với BBC News Tiếng
Việt từ Úc.
GS
Carl Thayer lo ngại rằng ngành dầu khí Việt Nam không có đủ nguồn lực
tài chính để tự mình phát triển tại vùng biển quanh Bãi Tư Chính, trong
khi các nhà đầu tư tiềm năng không cảm thấy được khuyến khích bởi các
hành động của Việt Nam. "Họ không được đảm bảo sẽ gặt hái được gì nếu
đầu tư dài hạn ở Việt Nam".
BBC
"Việt Nam cũng tổn thất vì để mất cơ hội tìm kiếm và phát triển các mỏ khí carbon," GS Carl Thayer nói.
Nhà
báo Bill Hayton thì cho rằng tập đoàn Noble là 'đòn nghiêm trọng' giáng
vào không chỉ ngành dầu khí Việt Nam mà cả nền kinh tế và cả hệ thống
chính phủ Việt Nam.
"Khí
đốt từ các hợp đồng khai thác với Repsol và Rosneft sẽ được sử dụng để
tạo ra điện cho đất nước. Doanh thu thuế từ các dự án này đóng góp vào
ngân sách nhà nước. Nhưng giờ thì Việt Nam sẽ phải tìm nguồn năng lượng
mới, phải trả tiền để mua chúng, và chính phủ sẽ mất nguồn thu ngân
sách," Bill Hayton nói.
"Với
những diễn biến gần đây, rất khó để các công ty năng lượng khí sẵn sàng
mạo hiểm đầu tư vào các khu vực ngoài khơi nơi Trung Quốc có thể phản
đối.
Bóng dáng TQ trong mọi quyết định dầu khí của VN ở Biển Đông
GS Carl Thayer cung cấp cho BBC News Tiếng Việt lịch sử can thiệp của Trung Quốc vào các dự án dầu khí của Việt Nam như sau:
2012:
Việt Nam ban hành Luật Biển. Đáp trả, Công ty Dầu khí Quốc gia Trung
Quốc (CNOOC) cho thăm dò dầu khí trong Vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam (EEZ), trong đó có vùng biển gần Bãi Tư Chính, và kêu gọi các công
ty nước ngoài đấu thầu hợp đồng thăm dò.
2017:
Việt Nam phải tạm ngưng hoạt động thăm dò khai tác dầu của Repsol (Tây
Ban Nha) tại vùng biển gần Bãi Tư Chính sau khi Trung Quốc được cho là
đe dọa.
2018: Việt Nam chính thức chấm dứt hợp đồng với Repsol.
2019:
Trung Quốc đã đưa giàn khoan Hải Dương 8 tới khảo sát bên trong EEZ của
Việt Nam, đồng thời quấy rối giàn khoan dầu Hakuryu-5 (Nhật Bản) và
quấy rối các tàu đang tiến hành thăm dò Lô 06- 01 theo hợp đồng của Việt
Nam với Rosneft (Nga).
2020: Tàu
thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc quay lại EEZ của Việt Nam vào tháng
Sáu. Tiếp đó vào tháng Bảy, tàu 5402 của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Trung
Quốc (CCG) đã vào khu vực mỏ khí Lan Đỏ thuộc Lô 06-01 để theo dõi hoạt
động của nhà giàn tại mỏ khí Lan Tây. Bốn ngày sau, có thông báo rằng
hợp đồng của Noble Clyde Boudreaux với Việt Nam đã bị hủy bỏ.
Những
hành động này của Trung Quốc là nhằm củng cố quan điểm: Bắc Kinh luôn
phản đối hoạt động của các công ty nước ngoài tại vùng biển tranh chấp ở
Biển Đông, GS Carl Thayer cho hay.
BBC
Trong
Văn bản Đàm phán Dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông ASEAN-Trung Quốc
tháng 8/2018, Trung Quốc nêu rõ, việc thăm dò và phát triển dầu khí tại
vùng biển tranh chấp phải được thực hiện thông qua sự hợp tác giữa các
quốc gia có quyền lợi trên Biển Đông, và sẽ không được chấp nhận nếu hợp
tác với các công ty từ các quốc gia ngoài khu vực.
"Nguy
cơ cao là Trung Quốc sẽ không buông tha cho Việt Nam và Việt Nam sẽ bị
tước nguồn dự trữ năng lượng tiềm năng để thúc đẩy quá trình phục hồi
sau COVID-19," GS Carl Thayer nhận định.
Nhà
báo Bill Hayton cũng cho rằng khu vực mà Việt Nam hợp đồng với Noble để
khoan thăm dò là khu vực rất rộng lớn, nằm gần các đường ống dẫn khí đã
khai thác từ lâu và là vị trí thuận lợi để kéo nguồn đầu tư thương mại.
Việt Nam cần nguồn khí ở đây để cung cấp cho nhu cầu năng lượng ngày
càng lớn của đất nước.
"Do
đó, hẳn phải có lý do nào ghê gớm lắm chính phủ Việt Nam mới bỏ dự án ở
đây. Trung Quốc hẳn đã gây 'áp lực nghiêm trọng' lên các lãnh đạo Việt
Nam, theo Bill Hayton.
Lô 07/03 nằm cạnh Lô 136-03 mà VN phải ngưng khai thác hồi 7/2017
Giải pháp nào?
Mỹ
mới đây lần đầu tiên chính thức bác bỏ gần như toàn bộ các yêu sách của
Trung Quốc trên Biển Đông, và sát cánh cùng các quốc gia có quyền lợi ở
khu vực này, như Việt Nam.
Nhưng
liệu Mỹ có giúp gì được cụ thể cho Việt Nam không, ví dụ như giúp trong
các vụ việc dầu khí với Noble hay Repsol, vẫn còn là câu hỏi lớn.
GS
Carl Thayer nhận định rằng cả Mỹ và Việt Nam đều có cùng quan điểm rằng
Việt Nam có quyền chủ quyền đối với tài nguyên biển, bao gồm các mỏ khí
ở vùng biển gần Bãi Tư Chính thuộc EEZ của Việt Nam. Cả Việt Nam và Mỹ
đều phản đối yêu sách của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính.
Thế
nhưng, "bài phát biểu ủng hộ Việt Nam của ông Pompeo lại đến quá muộn
vì Việt Nam đã đưa ra quyết định của mình rồi," GS từ Úc nói với BBC
News Tiếng Việt.
Thay vì trông chờ Mỹ, GS Carl Thayer chỉ ra rằng Việt Nam cần bắt đầu các cuộc thảo luận ở hai cấp độ.
Thứ
nhất, Việt Nam cần thảo luận với các quốc gia có quyền lợi ở Biển Đông
về một quan điểm chung trước Trung Quốc. Liên minh này sẽ hỗ trợ quan
điểm mới của Mỹ.
Việt
Nam cũng cần lên tiếng xem Hoa Kỳ đã chuẩn bị đưa ra hành động cụ thể
nào, đơn phương, hay hợp tác với Việt Nam, hay trong một liên minh các
cường quốc hàng hải có cùng chí hướng.
Thứ
hai, Việt Nam cần thảo luận với Nga để xác định xem Rosneft Việt Nam có
sẵn sàng tiếp tục hoạt động ở Việt Nam hay không và nếu có thì Nga có
gây áp lực ngoại giao lên Trung Quốc để ngăn chặn hành vi quấy rối của
họ trong Lô 06-01 hay không?
Nhưng nhà báo Bill Hayton thì nhận định rằng "Trung Quốc đã thắng và Việt Nam đã thua". Ông nói:
"Bắc
Kinh hiện có quyền phủ quyết đối với sự phát triển dầu khí bên trong
Đường Chữ U (Đường Chín Đoạn). Nếu Việt Nam muốn sử dụng các nguồn tài
nguyên ngoài khơi này, họ cần có khả năng ngăn chặn Bắc Kinh sử dụng lực
lượng quân sự."
"Nói
cách khác, Việt Nam cần xây dựng khả năng quân sự và thuyết phục Trung
Quốc rằng họ sẵn sàng chiến đấu và có thể giành chiến thắng nếu đối đầu
trên biển. Nếu không, trò chơi này đã kết thúc rồi."
Còn ông Nguyễn Lê Minh nêu quan điểm:
"Trong
hai vụ Việt Nam hủy hợp đồng với Repsol và Rosneft, về lý thuyết là
giống nhưng bản chất khác nhau. Điểm giống nhau là Trung Quốc luôn gây
sức ép bằng việc gửi công hàm ngoại giao đến các nhà điều hành là các
tập đoàn, công ty mẹ trước (Repsol và Rosneft). Sau đó, mới leo thang,
hạ đặt giàn khoan hoặc gây hấn ở Biển Đông để gây sức ép lên phía Việt
Nam.
"Điểm
khác nhau là, Repsol là công ty đại chúng và không có vốn của Chính phủ
Tây Ban Nha, trong khi Rosneft (công ty có 35% vốn góp ở Rosneft Việt
Nam), cũng đã lên sàn giao dịch chứng khoán nhưng có 50% vốn của Chính
phủ Nga.
"Vì
vậy, đối với lô dầu khí 07/03 (mỏ Cá Rồng Đỏ), sau khi nhận được công
hàm phía Trung Quốc, Repsol đã có sự chuẩn bị và ngay khi họ nhận được
đề nghị tạm dừng dự án của phía Việt Nam, họ chìa ra các yêu cầu quá khó
(Bảo lãnh Chính phủ về bảo đảm khai thác, bảo toàn vốn đầu tư), và rủi
ro về trữ lượng trong kế hoạch phát triển mỏ (FDP) đã phê duyệt, trong
quá trình phát triển mỏ đã nhận diện nên dẫn đến các đàm phán kéo dài,
và chuyển nhượng lại cho PVN.
"Còn
đối với Lô 06-01, như đã diễn giải ở trên, Rosneft là nhà điều hành và
các hoạt động khai thác vẫn diễn ra bình thường. Lô 06-01 đóng vai trò
quan trọng, cung cấp hàng năm khoảng 35% sản lượng khí cho Việt Nam.
Rosneft Việt Nam đang là một trong những nhà điều hành dầu khí hiệu quả
nhất ở Việt Nam, nên trong trường hợp Trung Quốc gây căng thẳng leo
thang, Chính phủ Nga sẽ can thiệp vì họ có quyền lợi trực tiếp ở lô
này."
Về chiến lược của Việt Nam, ông Lê Minh phân tích:
"Về
phía chủ nhà, Việt Nam vẫn luôn chủ động và làm hết mình trên tinh thần
hòa bình và ổn định để phát triển dầu khí và kinh tế biển. Có thể thấy,
ngày 11/6/2020 trước khi chính thức dừng chiến dịch khoan Lô 06-01, các
lãnh đạo Việt Nam đã điện đàm với ExxonMobil và Nga. Tổng bí thư Chủ
tịch nước Nguyễn Phú Trọng điện đàm Tổng thống Nga và theo được hiểu,
trong nghị trình chuyến thăm sắp tới của Tổng thống Nga đến Việt Nam,
ngoài việc làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác chiến lược về an ninh, quốc
phòng, sẽ đi sâu về hợp tác dầu khí ở bể Nam Côn Sơn và khu vực lân cận.
"Cùng
ngày, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã điện đàm với chủ tịch toàn cầu
của ExxonMobil, để tái khẳng định "hợp tác với ExxonMobil là rất quan
trọng, đóng góp vào hợp tác chung giữa Việt Nam và Hoa Kỳ". Hiện
ExxonMobil vẫn đang tiếp tục đàm phán với PetroVietnam để thúc đẩy dự án
Cá Voi Xanh ngoài khơi tỉnh Quảng Nam đi vào triển khai vào năm sau.
Ngoài dự án trên, ExxonMobil đang có kế hoạch đầu tư vào các dự án khí
hóa lỏng (LNG), lọc hóa dầu và sản xuất điện từ LNG.
"Từ
những diễn giải và trích dẫn trên đây, nói lên rằng, hợp tác dầu khí và
hoạt động thăm dò khai thác ngoài khơi vẫn được Đảng và Chính phủ quan
tâm kịp thời, đúng mức và tạo điều kiện để kiến tạo một môi trường đầu
tư bền vững và hiệu quả."
(BBC)
Không có nhận xét nào