Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch để theo đuổi các mục tiêu chính sách đối ngoại như thế nào?
Suyash Desai
Nguồn: Suyash Desai, “Flashpoints on the Periphery: Understanding China’s Neighborhood Opportunism”, The Diplomat, 28/05/2020.
Biên dịch: Nguyễn Vũ Thắng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Giải mã chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc đối với các nước láng giềng |
Căng
thẳng ở vùng ngoại vi xung quanh Trung Quốc trong vài tháng gần đây đã
gia tăng đáng kể khi Bắc Kinh tăng cường sử dụng các công cụ quân sự và
ngoại giao trong khu vực lân cận. Tần suất các sự kiện có liên quan các
tác nhân Trung Quốc, đặc biệt vào nửa cuối tháng Ba, đã tăng lên khi
tình trạng bình thường quay lại đại lục sau sự bùng phát COVID-19.
Điều
này làm dấy lên một vài câu hỏi. Thứ nhất, phải chăng đây là bằng chứng
về chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc khi Hoa Kỳ đang lúng túng duy trì sự
hiện diện của mình tại các khu vực Đông và Đông Nam Á? Thứ hai, có phải
Bắc Kinh đã theo đuổi một cách tiếp cận hung hăng hơn cho giai đoạn hậu
đại dịch? Thứ ba, sự gia tăng đột biến các hoạt động gần đây có ảnh
hưởng đến trật tự khu vực hay không?
Trước
khi trả lời những câu hỏi trên, quan trọng là phải hiểu được thứ tự
thời gian của các sự kiện đã dẫn đến những căng thẳng hiện nay tại các
vùng ngoại vi Trung Quốc. Indonesia là quốc gia đầu tiên đối mặt với sự o
ép của Trung Quốc sau khi virus bùng phát. Vào tháng 12/2019, Hàng chục
tàu cá Trung Quốc cùng tàu cảnh sát biển hộ tống đã tiến vào vùng biển
gần quần đảo Natuna, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Jakarta.
Đây cũng là vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố yêu sách, do đó dẫn đến
một cuộc đối đầu kéo dài cả tháng trời giữa hai nước. Trong khi đó, các
lực lượng vũ trang Trung Quốc cũng tham gia vào nhiều cuộc tập trận xung
quanh Đài Loan từ tháng 01/2020. Lực lượng Không quân Giải phóng Nhân
dân cũng triển khai một nhiệm vụ ban đêm bất thường tại vùng biển phía
tây nam Đài Loan vào ngày 16/3/2020. Sự gia tăng hoạt động quân sự chiến
thuật này đi kèm với những luận điệu cứng rắn, đặc biệt kể từ sau khi
Tổng thống Thái Anh Văn tái đắc cử ngày 11/01/2020.
Hơn
nữa, vào tuần cuối tháng Ba, một tàu đánh cá Trung Quốc đã va chạm và
gây thiệt hại cho một tàu khu trục Nhật Bản tại biển Hoa Đông. Cũng
trong tuần đó, một tàu Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá Việt Nam tại
Biển Đông. Đây là những diễn biến bên lề các hoạt động “nghiên cứu và
khảo sát” của tàu thăm dò Haiyang Dizhi 8 tại vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam và Malaysia. Con tàu thăm dò này, tiến vào vùng EEZ của
Malaysia với sự hộ tống của các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc, đã đối đầu
với một tàu thăm dò thăm dò dầu khí được thuê bởi Petronas, công ty
năng lượng nhà nước của Malaysia.
Ngoài
ra, Bộ Dân chính Trung Quốc trong một động thái gần đây đã phê duyệt
việc thành lập các quận Tây Sa (Xisha) và Nam Sa (Nansha), là các phân
khu của thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam. Tây Sa sẽ quản lý quần đảo
Hoàng Sa và vùng biển xung quanh, trong khi Nam Sa sẽ phụ trách quần đảo
Trường Sa và vùng biển lân cận. Trung Quốc sau đó đặt tên lại cho hơn
80 thực thể ở Biển Đông, một động thái nhằm khẳng định chủ quyền của
Trung Quốc đối với khu vực tranh chấp. Trước kia, Bắc Kinh đã có nước đi
tương tự vào năm 1983 khi xác định 287 thực thể tại khu vực Biển Đông.
Trong khi đó, nhóm đặc nhiệm tàu sân bay Liêu Ninh cũng đi qua các Biển
Hoa Đông và Biển Đông, thực hiện các cuộc tập trận kéo dài một tháng
trước khi trở về cảng Thanh Đảo ở tỉnh Sơn Đông.
Gần
đây, Trung Quốc đã tham gia vào một vài cuộc xô xát với Ấn Độ tại nhiều
điểm dọc Đường Kiểm soát Thực tế (Line of Actual Control – LAC). Điều
này đã dẫn đến một cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai quốc gia tại 3 điểm
trên LAC: khu vực Thung lũng Galwan, hồ Pangong, và Demchok. Tình hình
vẫn đang căng thẳng. Có lẽ, không chỉ là chủ nghĩa cơ hội hậu đại dịch,
những sự kiện trên tuyến LAC liên quan nhiều hơn đến sự bất an gia tăng
của Trung Quốc trước cơ sở hạ tầng biên giới được cải thiện của Ấn Độ
tại những khu vực này. Một báo cáo gần đây trên một tờ báo Ấn Độ đã chỉ
ra sự tăng đột biến số lần vi phạm của Trung Quốc dọc tuyến LAC so với
cùng kỳ năm 2019.
Phần
lớn các vi phạm này, đặc biệt kể từ khi COVID-19 bùng phát, cho thấy
một mẫu hình rõ ràng về thái độ ngày một cứng rắn của Trung Quốc trong
khu vực lân cận. Trung Quốc nhận thấy một thời cơ để khẳng định yêu sách
của mình tại các khu vực tranh chấp tại vùng ngoại vi, đặc biệt là ở
Biển Đông, khi Mỹ đang phải tập trung chống chọi với COVID-19 ở trong
nước. Bên cạnh đó, tầm đảm bảo an ninh tại Châu Á – Thái Bình Dương của
Mỹ, vốn là biện pháp trấn an cho nhiều nước Đông và Đông Nam Á, đã tạm
thời bị suy yếu vì một loạt các ca nhiễm COVID-19 tại các căn cứ quân sự
và tàu hải quân tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Ví dụ, USS Theodore
Roosevelt và USS Ronald Reagan, hai tàu sân bay Mỹ hiện đang ở Tây Thái
Bình Dương, đã phải ngừng hoạt động vì các trường hợp nhiễm COVID-19 của
thủy thủ đoàn. Trước một nước Mỹ suy yếu và mất tập trung, Trung Quốc
tìm cách khai thác một cơ hội hiếm có để ép các quốc gia trong khu vực
tuân theo mình thông qua các công cụ quân sự và dân sự trong khu vực.
Tư
thế cứng rắn cũng giúp Trung Quốc củng cố tuyên truyền trong nước và
khẳng định quan niệm rằng dịch COVID-19 đã được kiểm soát. Ngoài ra, an
ninh chế độ là tối quan trọng đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)
và thường xuyên được biểu hiện qua các chính sách đối ngoại và an ninh
của đại lục. Những hành động gần đây trong khu vực lân cận cũng giúp
Trung Quốc tạo một cảm nhận giả tạo về chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc nhằm
kiểu soát tốt hơn làn sóng phản đối thất bại của ĐCSTQ trong xử lý dịch
COVID-19 giai đoạn ban đầu.
Nhưng,
như Abraham Denmark, Charles Edel và Siddharth Mohandas lập luận trên
trang War on the Rock, hành vi hung hăng hậu đại dịch của Bắc Kinh không
có gì mới. “Điều này nhất quán với phương châm của Tổng Bí thư Tập Cận
Bình: linh hoạt, quyết đoán và quyết tâm khai thác điểm yếu của kẻ
địch”. Tuy nhiên, khác với thời gian gần đây, Trung Quốc lần này đã đối
đầu với toàn bộ các nước trong và ngoài khu vực cùng lúc ở Biển Hoa Đông
và lẫn BiểnĐông. Bắc Kinh, trong bối cảnh bình thường, hay sử dụng công
cụ dân sự như tàu cá vũ trang ở Biển Đông; các công cụ quân sự và ngoại
giao với trường hợp Đài Loan để khẳng định các yêu sách chủ quyền.
Nhưng lần này, Trung Quốc dùng đến cả ba công cụ – quân sự, dân sự và
ngoại giao – để thúc đẩy yêu sách chủ quyền của mình tại các khu vực
tranh chấp ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, khiến tư thế của họ trông hung
hăng hơn hẳn.
Trong
khi Trung Quốc đang cố tận dụng cơ hội để khẳng định chủ quyền ở khu
vực lân cận, thì Mỹ, mặc dù đã bị yếu đi do các ca nhiễm tại các căn cứ
và tàu quân sự, cũng tìm cách khai thác sự phẫn nộ trước tham vọng của
Bắc Kinh. Nước này đã đáp trả sự hung hăng của Trung Quốc bằng cách
triển khai bốn chiến dịch tự do hàng hải (FONOPs) xung quanh quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa từ tháng 01/2020. Đáp trả các hành động gần đây
của Trung Quốc, Mỹ cho triển khai một tàu đổ bộ tấn công, tàu USS
America, cùng một tàu tuần dương tên lửa, tàu Bunker Hill, tại các vùng
biển tranh chấp của Malaysia. Một tàu khu trục Úc, HMAS Parramatta, và
một tàu thứ ba của Mỹ, USS Barry, cũng tham gia cùng hai tàu chiến nói
trên của Mỹ tại Biển Đông. Như M. Taylor Fravel lập luận trong bài viết
mới nhất cho tờ Washington Post, cách tiếp cận này phản ánh tính liên
tục trong hoạt động của Mỹ tại khu vực bất chấp đại dịch.
Ứng
xử hậu đại dịch của Bắc Kinh cũng làm “xù lông” một vài chủ thể trong
và ngoài khu vực Đông và Đông Nam Á. Trong một chỉ trích hiếm hoi,
Philippines của Rodrigo Duterte đã lên án Trung Quốc đâm chìm tàu cá
Việt Nam. Bộ Ngoại giao Philippines cho rằng những sự cố như vậy làm suy
yếu tiềm năng xây dựng một mối quan hệ thật sự sâu sắc và đáng tin cậy
giữa ASEAN và Trung Quốc. Cả Việt Nam và Malaysia, hai quốc gia bị ảnh
hưởng bởi các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, đã nhấn mạnh hành vi
hung hăng của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Ngoại
trưởng Mỹ Mike Pompeo cũng đã cố gắng thuyết phục các nước ASEAN cùng
lên án sự hung hăng của Trung Quốc. Nhưng sẽ khó tưởng tượng các quốc
gia này sẽ công khai chống lại Trung Quốc và theo đó cố gắng thay đổi
trật tự khu vực.
Chỉ
những nước đi leo thang căng thẳng từ Bắc Kinh – ví dụ như những hành
động cố thay đổi nguyên trạng bằng cách chiếm các đảo mà Việt Nam hay
Philippines đang nắm giữ, thiết lập các năng lực đổ bộ tại Biển Đông,
hay tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) tại Biển Đông – mới có
thể đẩy các quốc gia khu vực công khai cân bằng lạiTrung Quốc trong
tương lai. Còn không, khả năng những sự kiện hiện tại tác động đến hiện
trạng trật tự khu vực là rất thấp.
Vì
vậy, Mỹ và các đồng minh cần hiểu rằng chủ nghĩa cơ hội của Trung Quốc
trong khu vực không phải là một cách tiếp cận mới mà là sự tiếp tục
chính sách cứng rắn của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình với sự bổ sung
một vài yếu tố mới. Trật tự khu vực chỉ bị ảnh hưởng khi Bắc Kinh có
bước đi leo thang, điều có vẻ ít khả năng xảy ra trong tương lai gần.
Nguồn: Suyash Desai, “Flashpoints on the Periphery: Understanding China’s Neighborhood Opportunism”, The Diplomat, 28/05/2020.
Biên dịch: Nguyễn Vũ Thắng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
* Suyash Desai là nhà phân tích về chính sách ngoại giao và quốc phòng Trung Quốc tại Viện Takshashila, Bangalore, Ấn Độ.
(Nghiên cứu Quốc tế)
Không có nhận xét nào