Thực thi nền dân chủ ở miền Nam Việt
Nam giữa dòng cuộc chiến là hành động nguy hiểm, như người biên tập báo
Từ Chung đã trả giá cho tự do bằng mạng sống.
Ảnh ngày 1/4/1975: Người Sài Gòn tìm cách ra đi |
Ông
Chung biên tập báo Chính Luận, một tờ báo ở Sài Gòn có thiên hướng
chống cộng và rơi vào tầm ngắm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tổ chức
nổi dậy cộng sản do Hà Nội kiểm soát ở miền Nam.
Tháng Sáu 1965, Võ Công Minh gửi thư cho Chung tố cáo ông là "phụng sự ông chủ Mỹ" và đe dọa ám sát.
Chung
và chủ báo, Đặng Văn Sung, phản hồi bằng xã luận khẳng định cam kết
tường thuật cân bằng, ghi nhận rằng Chính Luận cũng đã đăng bài chỉ
trích chính quyền Sài Gòn và can thiệp Mỹ.
Sáu
tháng sau, Mặt trận Giải phóng gửi thêm lá thư cho Chung, lần này là
"lời cảnh cáo cuối cùng" hứa hẹn sẽ diệt bỏ bọn "cừu ghẻ" đang nắm tờ
báo.
Không
e ngại, ông Chung và Sung đăng lá thư đó cùng phản hồi của họ, một lần
nữa tuyên bố sứ mệnh của Chính Luận là cho người đọc biết về những gì
đang xảy ra ở miền Nam. Trong đó có việc lên án hành động của Mặt trận,
chính quyền miền Nam và Mỹ nếu có nguyên do.
Mặt
trận không dọa chơi. Ngày 30/12/1965, các cán bộ bắn ông Chung bốn phát
khi ông vừa bước ra khỏi xe về tới nhà. Ông Chung chết ngay tại chỗ,
trong lúc nhóm ám sát tẩu thoát bằng xe máy.
Diễn
ngôn chủ đạo về chiến tranh Việt Nam ở Mỹ và Việt Nam thường mô tả xung
đột này là giữa người Mỹ và Việt, nhưng nó không xét tới sự đa dạng
trong bình luận giữa công dân Việt Nam về tương lai hậu thuộc địa.
Ở
Việt Nam Cộng Hòa, tức Nam Việt Nam, các phe chống cộng, trung lập và
cộng sản đánh lẫn nhau bằng từ ngữ và bằng súng để đòi đại diện cho Việt
Nam độc lập.
Là
người chống cộng ở Nam Việt Nam có nghĩa là chống viễn kiến của Hà Nội
cho một Việt Nam thống nhất dưới sự chỉ huy của Đảng Lao Động Việt Nam
theo cộng sản. Nó không nhất thiết là ủng hộ chính thể Sài Gòn hay sự
can dự của Mỹ vào Việt Nam.
Các
nhà hoạt động chính trị, sinh viên, giới tu hành Công giáo, Phật giáo,
chính trị gia, và dân thường đều hy vọng có tiếng nói để ảnh hưởng các
định chế chính trị thay vì chấp nhận hệ thống cai trị áp đặt bởi lãnh
đạo tại Hà Nội, Washington hay nơi nào khác.
Trong chiến tranh, Sài Gòn là thành phố năng động thể hiện tiềm năng dân chủ của Nam Việt Nam trong đời sống hàng ngày.
Nhiều
tờ báo đăng xã luận, bình phẩm dân chúng, các góc nhìn thân và chống
chính phủ. Bầu cử giúp đưa nghị sĩ đối lập vào quốc hội. Các nhà hoạt
động bày tỏ mình qua biểu tình ở Sài Gòn và các thành phố khác.
Nam
Việt Nam có nền dân chủ hoạt động ở thập niên 1960 và đầu 70. Nó thất
bại vì đàn áp chính trị của các chính quyền miền Nam, chứ không phải vì
nhân dân Việt Nam đa số chống cộng.
Nam
Việt Nam cho công dân nếm mùi tự do, rồi lại giật đi khi tự do ngôn
luận có vẻ quá nguy hiểm cho ổn định chính quyền. Đàn áp của cảnh sát và
nhà nước lên các nhóm đối lập vào cuối thập niên 1960 đã cực đoan hóa
một số người Công giáo, sinh viên và các nhà hoạt động, đẩy họ đi sâu
hơn vào nhóm ủng hộ hòa giải và kết thúc chiến tranh, ngay cả nếu nó có
nghĩa là trả quyền kiểm soát miền Nam, và Việt Nam thống nhất, cho người
cộng sản.
Hoạt
động chính trị, đa dạng báo chí, và đa dạng thái độ về tương lai Việt
Nam đã tạo nên một văn hóa quốc gia gần với dân chủ tuy hỗn loạn, mà
chính phủ không biết cách kiểm soát.
Việc
đàn áp các giọng nói phản kháng, bỏ tù lãnh đạo đối lập chỉ củng cố
hình ảnh mà nhiều người ở Tây phương nghĩ về chính phủ Sài Gòn như là
phe độc đoán và không chính danh. Không thể hòa đồng với các công dân đi
theo truyền thống hoạt động chính trị Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, các
lãnh đạo và cảnh sát miền Nam đã bóp nghẹt sự phát triển của quá trình
chính trị hiện đại. Chính trong bối cảnh đó mà Mặt trận Giải phóng có
thể tự nhận chính danh đạo đức trước khán giả quốc tế.
Trong
lúc thế giới đang nhìn, nhờ vào phóng viên và mạng lưới quốc tế, danh
tiếng chính phủ Sài Gòn lung lay khi báo chí đăng hình công dân phẫn nộ
biểu tình vì việc bỏ tù sinh viên, hay khi cựu tù chính trị nói với một
linh mục chống chính phủ về việc bị an ninh tra tấn.
Những
cốt lõi của cơ cấu dân chủ có ở đó: bầu cử vào quốc hội, bầu tổng
thống, báo chí năng động ở Sài Gòn, biểu tình đường phố có hàng trăm,
thậm chí hàng ngàn tham gia. Nhưng thật khó cho người Việt hay người
nước ngoài hiểu được bộ xương dân chủ ẩn trong làn da độc đoán.
Thay
vì giao thiệp với các nhà hoạt động và tổ chức phi cộng sản, các cố vấn
Mỹ chỉ tập trung vào ủng hộ chính phủ Sài Gòn ngay cả khi giới chức
dùng tới đàn áp, bỏ tù.
Việc
Mỹ không hiểu gốc rễ và tính chất của hoạt động chính trị công dân ở
Nam Việt Nam chính là thể hiện xã hội tự do, đã khiến người Mỹ bỏ lỡ cơ
hội giúp xây dựng một đất nước ổn định ở Nam Việt Nam.
Trong
mắt một số trí thức miền Nam, có vẻ họ phải chọn giữa hai lựa chọn
chính trị không hay ho gì. Họ có thể chấp nhận một chính phủ sống bằng
trợ giúp tài chính và quân sự Mỵ, hay họ có thể đầu hàng trước phong
trào chuyên chế do Đảng Cộng sản kiểm soát từ Hà Nội.
Giới chức sứ quán Mỹ và cố vấn Mỹ thường nghĩ rằng ai không ủng hộ chính phủ Sài Gòn thì đều là cộng sản.
Đóng
góp vào hỗn loạn ở Sài Gòn và miền Nam là chính sách khủng bố của Mặt
trận Giải phóng (NLF terrorism). Gây khiếp sợ là yếu tố trung tâm của
chiến lược Mặt trận. Douglas Pike, từ U.S. Information Agency, vạch trần
điều này trong nghiên cứu về Mặt trận.
Pike,
một cựu binh Thế chiến Hai, ghi chép việc Mặt trận dùng chính sách
khủng bố, gồm cả việc tàn sát hàng ngàn dân thường ở Huế trong trận Mậu
Thân. Sự ngẫu nhiên của thả bom xe chỗ này, nổ chợ nơi kia thực ra là có
tính toán, là chiến thuật chính của Mặt trận trong chiến lược chiến
tranh.
Năm
1959, các lãnh đạo Hà Nội quyết định đã tới lúc hướng vào "giải phóng
miền Nam". Thông qua chính sách khủng bố, Mặt trận muốn reo rắc sợ hãi
trong công dân, gây bất ổn cho hệ thống chính trị Sài Gòn, phá nỗ lực
xây dựng xã hội dân chủ.
Giới
chức Sài Gòn đáp trả tấn công khủng bố bằng việc bắt giam đối kháng
chính trị, nghĩ rằng bất kỳ ai phản đối chính phủ đều là cộng sản.
Việc
bóp nghẹt tự do dân sự lại củng cố cáo buộc của Mặt trận và các nhóm
chống chính phủ rằng lãnh đạo Sài Gòn chỉ độc đoán. Sứ mệnh của chính
sách khủng bố thế là hoàn thành.
Sau
chiến tranh, tin tức về các trại cải tạo, hành quyết, lấy tài sản và
các vi phạm nhân quyền của chính phủ Hà Nội dần dần lan ra khỏi Việt
Nam.
Ngày
30/5/1959, ca sĩ Joan Baez và 80 người khác ký Thư ngỏ gửi Cộng hòa
XHCN Việt Nam, được các báo như New York Times, Washington Post, Los
Angeles Times, đăng thành trang quảng cáo. Lá thư bày tỏ lo ngại về trại
cải tạo, việc biến mất của các "kẻ thù nhà nước", và việc ép người dân
gỡ mìn mà không có đào tạo hay thiết bị.
Từ
góc nhìn những người trải qua đàn áp chính trị ở Nam Việt Nam, có vẻ
người Việt chỉ đổi một chính phủ chuyên chế này sang chính phủ khác.
Hậu
quả lâu dài của chiến thắng của Hà Nội vẫn hiển hiện trong thế kỷ 21,
khi blogger và những người khác sẵn sàng nói ra chống chính phủ Việt Nam
thì đối mặt theo dõi, bắt giữ, cầm tù.
45 năm sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, tự do chính trị vẫn chưa tới với công dân Việt Nam.
Có
nhiều nguyên do vì sao Nam Việt Nam vẫn chỉ ở bên lề của diễn ngôn chủ
đạo, mặc dù nhiều sử gia, nhà báo đã viết về chiến tranh.
Tại
Việt Nam, người chiến thắng viết lịch sử chính thức. Các bảo tàng,
tượng đài mô tả xung đột là chiến đấu giữa người Việt và người Mỹ, không
đếm xỉa tới các góc nhìn người Việt, hay thừa nhận những người Việt đã
ủng hộ, chiến đấu cho chính phủ Sài Gòn.
Nhiều
cây bút Mỹ tập trung vào góc nhìn Mỹ để hiểu cách ra chính sách, cách
chiến tranh ảnh hưởng người lính và dân Mỹ, và chính trị Mỹ.
Một số học giả Mỹ dùng Chiến tranh Việt Nam làm bằng chứng chính để lên án chính sách đối ngoại chung của Mỹ.
Việc
đưa tiếng nói người miền Nam ủng hộ Sài Gòn thách thức sự đồng thuận
rằng, trong Chiến tranh Lạnh, can thiệp toàn cầu của Mỹ chỉ phục vụ các
chính quyền con rối mà không có dân ủng hộ. Tuy vậy tại Việt Nam, một
chiến thắng của Hà Nội không phải là định mệnh, và đảng Lao Động và Mặt
Trận không đại diện cho toàn bộ quan điểm của người Việt.
Chiến
tranh Việt Nam vẫn là điểm mốc để các nhà phân tích chính sách nhìn về,
khi cố hiểu sự can thiệp của Mỹ tại Afghanistan và Iraq trong thế kỷ
21.
Vì
thế không đủ khi chỉ nhai lại diễn ngôn cũ mà không mở rộng để bao hàm
người Nam Việt Nam như nhân tố hợp pháp trong xung đột.
Không
đủ khi chỉ hỏi Hoa Kỳ lẽ ra có nên vào Việt Nam hay không. Hoa Kỳ đã
đến, dính líu cuộc chiến lâu dài, tàn khốc - chúng ta đã biết điều này.
Để
hiểu đầy đủ hậu quả của sự can thiệp Mỹ, chúng ta cũng phải hỏi người
Mỹ hiểu gì về Việt Nam, đặc biệt các đồng minh, vì sao nhân viên sứ quán
Mỹ và những người khác ở hiện trường Việt Nam đã tương tác với người
Nam Việt Nam như thế. Những góc nhìn chính trị khác nhau nào đã tồn tại ở
Nam Việt Nam trong cuộc chiến. Điều gì ảnh hưởng tới dư luận quốc tế và
khu vực về vấn đề Việt Nam.
Chính
trong lúc đi tìm trả lời cho các câu hỏi này mà chúng ta mới có thể
hiểu sâu hơn vì sao việc xây dựng quốc gia mà Mỹ dẫn dắt lại bế tắc và
thất bại.
Tiến sĩ Heather Marie Stur
*
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bà Heather Marie Stur,
là giáo sư lịch sử, có bằng tiến sĩ, đang dạy ở Đại học Southern
Mississippi, Hoa Kỳ.
(BBC)
Không có nhận xét nào