Mùa Xuân là mùa của hy vọng, của
tương lai. Nhưng đối với người dân miền Nam, mùa Xuân 1975 lại đem tới
tuyệt vọng, nó giống như những đám mây đen dầy đặc hiện lên chân trời
tím.
Hình minh họa |
Cuối
Thu sang Đông năm 1974, giá dầu lửa tăng lên gấp bốn lần. Thế là
xong! Nạn siêu lạm phát đã ập tới vào đúng lúc những chi tiêu lớn lao
của người Mỹ đã biến đi cùng với đoàn quân của họ. Rồi Quốc Hội Mỹ cúp
viện trợ. Người lính miền Nam chịu cảnh khốn cực nhất: với 20,000 đồng
lương mỗi tháng (tương đương $28 năm 1975), họ không đủ tiền mua cả gạo,
cả nước mắm, thức ăn và thuốc men cho gia đình, cũng như đeo súng trên
vai ra chiến trường mà không đủ đạn.
Nhưng
họ vẫn tiếp tục chiến đấu để bảo vệ tự do, xây đắp nền Cộng Hòa. Chỉ
cho tới khi không còn phương tiện để chiến đấu, miền Nam mới sụp đổ.
Nhân chứng tại chỗ, Tướng John Murray, chỉ huy Cơ Quan Viện Trợ Quốc
Phòng Mỹ ở Sài Gòn, bình luận: “Ta nên nhớ Napoleon đã từng nói: ‘Thượng
Đế đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất.’ Và đúng như
vậy, vào thời điểm đó, Thượng Đế đã đứng về phe cộng sản; quân họ đông
hơn, mạnh hơn. Và đó là lý do tại sao sụp đổ.”
Nhưng
dù bại trận, tinh thần dân chủ, cộng hòa đã không sụp đổ: Miền Nam đã
bảo vệ được Hiến Pháp, lướt qua bão tố trong 10 ngày cuối cùng.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Từ chức
Trước
đà tiến quân như vũ báo của quân đội Bắc Việt được Liên Xô yểm trợ tối
đa với xe tăng, thiết giáp tối tân, hỏa tiễn phòng không SAM, ngày 20
Tháng Tư, 1975, Đại Sứ Mỹ Graham Martin gặp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
để thuyết phục ông từ chức, với lý do là vì ông Thiệu đã trở thành một
trở ngại cho hòa bình. Bắc Việt không điều đình với ông và Quốc Hội Mỹ
cũng không ủng hộ ông, cho nên nếu ông không từ chức thì “cơ hội cuối
cùng để cứu vãn miền Nam Việt Nam như một quốc gia còn chút tự do sẽ
không còn nữa.”
Sau một lúc thẩm định tình hình, ông Thiệu hỏi: “Nếu tôi từ chức thì liệu viện trợ Mỹ có đến không?”
Ông Martin trả lời: “Tôi không dám hứa nhưng cũng có thể đến.”
Trước khi ông đại sứ ra về, ông Thiệu chỉ nói: “Tôi sẽ làm điều gì có lợi nhất cho nước tôi.”
Tổng
Thống Thiệu kể lại là sau khi gặp ông Martin, ông mời các tướng lãnh
đến Dinh Độc Lập. Trong buổi họp, ông cho họ biết về những chuyện Đại Sứ
Martin đề cập tới. Ông Thiệu nói nếu các các tướng lãnh coi ông như một
trở ngại cho hoà bình thì ông sẽ từ chức.
Không ai phát biểu gì cả, cho nên “Đã thật rõ ràng là họ không muốn tôi ngồi lại ghế tổng thống nữa.”
Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên kế vị
Theo
đúng Hiến Pháp, sáng Thứ Hai, 21 Tháng Tư, Tổng Thống Thiệu mời Phó
Tổng Thống Trần Văn Hương vào Dinh Độc Lập để trao quyền.
Sau
đó, ông mời Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn vào để họp bộ ba. Ông căn dặn là
việc chuyển giao quyền bính phải theo đúng thủ tục hiến định, và chương
trình làm việc như sau:
-5 giờ chiều ngày 21 Tháng Tư: Tổng thống loan báo quyết định từ chức cho toàn thể Nội Các.
-5 giờ 30: Thông báo cho lưỡng viện Quốc Hội.
-7
giờ 30: Thượng Viện, Hạ Viện, Nội Các và lãnh đạo các định chế hiến
định như Tối Cao Pháp Viện, Giám Sát Viện và các tướng lãnh vào phòng
Khánh Tiết Dinh Độc lập để dự lễ bàn giao và tuyên thệ của Tổng Thống
Trần Văn Hương.
Chiều
muộn, ông lên đài truyền hình thông báo quyết định định của mình cho
quốc dân. Đầy cay đắng với sự phản bội của đồng minh vì đã thất hứa, ông
đọc một bài diễn văn rất dài, hết sức căng thẳng và xúc động.
Ông Thiệu ra đi danh chính ngôn thuận
Sau
khi được trao quyền, ông Hương e ngại rằng vì ông đã là phó tổng thống
của ông Thiệu, cho nên dư luận sẽ cho rằng bây giờ ông chỉ điều hành một
chính phủ theo ý ông Thiệu. Ông liền yêu cầu Đại Sứ Martin thuyết phục
ông Thiệu xuất ngoại và dàn xếp giùm chuyến đi này. Sau đó, ông Hương
gọi cho ông Thiệu để khuyên ông sớm rời khỏi Việt Nam, vì “Nếu không,
Cộng Sản sẽ nói tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không có Thiệu.”
Để
cho việc ra đi được hợp pháp, Tổng Thống Hương ký nghị định đề cử ông
Thiệu làm đặc sứ VNCH đi Đài Bắc phúng viếng Tổng Thống Tưởng Giới Thạch
vừa qua đời ngày 5 Tháng Tư. Đại Sứ Martin giúp phương tiện chuyên chở.
Ông Martin gọi chiếc máy bay DC-6 dưới quyền sử dụng của đại sứ Mỹ từ
Thái Lan bay qua Sài Gòn trong đêm 25 Tháng Tư. Ông Thomas Polgar (trùm
CIA ở Sài Gòn) và Tướng Charles Timmes gặp ông Thiệu và đoàn tùy tùng ở
nhà Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Polgar chuẩn
bị ba chiếc công xa màu đen chở mọi người ra phi trường.
Đoàn
xe lướt qua đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong của đồng minh gần phi
trường, với mấy chữ nỗi bật trên bảng: “Những hy sinh cao quý của các
chiến sĩ Đồng Minh sẽ không bao giờ bị quên lãng.” Nhìn thấy bảng ấy,
ông Thiệu thở dài và quay mặt đi.
Đoàn
xe chạy vút về phía sân bay của hãng Air America. Đại Sứ Martin đã đợi
sẵn ở đó để tiễn đưa. Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu vẫn đi
thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin dàn xếp
chuyến đi. Với một giọng xúc động, ông Martin đáp lễ: “Thưa tổng thống,
đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm bịệt và chúc ngài may mắn.”
Tổng Thống Hương mời Tướng Minh làm thủ tướng
Tổng
Thống Hương thành lập chính phủ mới. Việc đầu tiên ông làm là mời Tướng
Dương Văn Minh vào Dinh Độc lập để thuyết phục ông giữ chức thủ tướng
chính phủ. Tướng Minh không chịu, nhất định phải giữ chức tổng thống.
Trước
sự bế tắc, ngày 24 Tháng Tư, Tướng Trần Văn Đôn đưa ra một công thức
dung hòa: Ông Minh sẽ làm lãnh đạo quốc gia với thực quyền, còn ông
Hương sẽ tiếp tục làm quốc trưởng nhưng rồi sẽ lùi vào bóng tối như
trường hợp Quốc Trưởng Bảo Đại làm trước đây.
Nhưng
ông Minh cũng vẫn không chịu. Ông Hương cho ông Martin hay: “Ông Minh
nói rằng nếu ông ấy nhận chức vụ từ bất cứ người nào trong chánh quyền
cũ thì cũng sẽ làm giảm tư thế của ông trong những cuộc điều đình tương
lai.”
Tướng Minh lên ngôi ngoài khuôn khổ Hiến pháp?
Ngày
28 Tháng Tư, Đại Sứ Martin đánh điện về Washington: “Để tránh việc Sài
Gòn bị san thành bình địa và tránh việc lật đổ chính phủ VNCH một cách
toàn diện, Pháp mạnh mẽ thúc đẩy một công thức mà theo như họ nghĩ… là
sẽ thỏa mãn Hà Nội. Đó là việc ông Minh lên nắm chính quyền được thực
hiện hoàn toàn ngoài khuôn khổ hiến pháp hiện hành của VNCH; họ biết rõ
rằng một trong những mục tiêu chính của Hà Nội là phá hủy tính chất hợp
hiến của khuôn khổ hiến pháp hiện hành. Pháp đã chấp nhận như vậy, nên
đã thúc đẩy một sự chuyển quyền ở ngoài khuôn khổ hiến pháp… Họ cho rằng
nếu ông Minh lên nắm quyền trong một tình huống cách mạng thay vì một
cuộc chuyển quyền theo hiến pháp thì Hà Nội sẽ chấp nhận ông ta.”
Nhưng
chính phủ Sài Gòn không chịu, vì như ông Martin báo cáo, “Đem một tướng
về hưu đi thẳng lên chức tổng thống là không bình thường. Thật là không
thực tế việc ông Minh nghĩ rằng ông được dân chúng hoan hô như trường
hợp Tướng De Gaulle.”
Tướng De Gaulle đã tạo một tiền lệ về một tướng về hưu nhảy ra làm tổng thống nước Pháp.
Đến lượt chủ tịch Thượng Viện
Ngày
25 Tháng Tư, ông Martin gửi điện về Washington: “Hôm qua Tổng Thống
Hương đã gặp ông Trần Văn Lắm và ông tân chủ tịch Hạ Viện. Ông Hương
được họ thuyết phục là bất cứ sự chuyển quyền nào cũng phải theo trật tự
hiến pháp, điều này có nghĩa là những sắp xếp trước đây (việc đưa ông
Minh lên thẳng chức tổng thống – lời tác giả) bây giờ không còn có thể
thực hiện được nữa, vì theo Hiến Pháp thì ông Trần Văn Lắm, chủ tịch
Thượng Viện, sẽ là người kế vị làm tổng thống nếu ông Hương từ chức.”
Nhưng Đại Sứ Pháp Jean Mérillon cho biết: Phía Cộng sản không chấp nhận điều đình với ông Lắm.
Cho nên, sau cùng, ông Lắm không yêu cầu Quốc Hội tấn phong chính ông mà còn giúp Quốc Hội giải quyết vấn đề cho nhanh.
Ông
Martin báo cáo: “Ông Trần Văn Lắm đã quyết định là ván bài quá nguy
hiểm để vận động làm tổng thống. Ông giúp triệu tập được Quốc Hội để
giải quyết vấn đề sớm hơn thời gian ấn định một chút.”
Bức thư Tổng Thống Dương Văn Minh gởi cho Đại Sứ Graham Martin, yêu cầu quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, và là văn thư cuối cùng của chính phủ VNCH gửi chính phủ Hoa Kỳ. (Hình: Nguyễn Tiến Hưng cung cấp) |
Quốc Hội trao quyền cho Tổng Thống Hương chọn người kế vị
Dù
trong một tình huống hết sức nghiệt ngã, các thượng nghị sĩ, dân biểu
đã hành động xứng đáng với tư cách của đại diện nhân dân. Quốc Hội nhóm
họp và quyết định trao quyền cho Tổng Thống Hương lựa chọn người kế vị.
Nghị quyết vào lúc 8 giờ 30 tối như sau:
-Để
có thể đối phó một cách kịp thời với tình hình nghiêm trong hiện nay,
Quốc Hội VNCH đã quyết định ủng hộ tổng thống VNCH trong công cuộc tìm
kiếm chánh sách và những biện pháp để tái lập hòa bình tại miền Nam trên
căn bản Hiệp Định Paris ngày 27 Tháng Giêng, 1973.
-Thứ
hai, nếu cần thiết, tổng thống VNCH có thể lựa chọn người để thay thế
ông để tiếp tục sứ mệnh với sự chấp thuận của Quốc Hội VNCH.”
Số phiếu là đồng nhất: 123/124 vì theo Hiến Pháp, Chủ Tịch Lắm không có quyền bỏ phiếu trừ khi số phiếu sát nhau.
Tổng Thống Hương đặt trách nhiệm lại cho Quốc Hội
Dù
Quốc Hội để cho ông tự lựa chọn người kế vị, nhưng một phần vì cựu Tổng
Thống Thiệu đã căn dặn là chớ có trao quyền cho Tướng Minh – vì rất
nguy hiểm – cho nên ông Hương đã nhất định không đề cử.
Ngày
27 Tháng Tư, ông Martin gửi báo cáo về Washington: “Tổng Thống Hương đã
họp với lãnh đạo các định chế dân chủ và đi tới kết luận là ông không
thể nào đề cử ông Minh theo như thẩm quyền mà Quốc Hội đã biểu quyết hôm
qua… nên ông quyết định đặt trách nhiệm lại cho Quốc Hội. Ông sẽ gửi
thư từ chức tổng thống tới Quốc Hội. Ông Lắm sẽ dùng đài phát thanh và
bất cứ phương tiện nào khác trong ngày Chủ Nhật để cố triệu tập Quốc Hội
vào tối nay lúc 7 giờ. Nếu không đủ túc số (quorum) thì Quốc Hội sẽ họp
sáng mai.”
Sau
cùng, ông Lắm triệu tập đầy đủ túc số để biểu quyết về một câu hỏi:
‘Tất cả quý vị dân biểu và thượng nghị sĩ ai là người đồng ý cho tổng
thống chuyển quyền tổng thống VNCH cho Tướng Dương Văn Minh để thi hành
nhiệm vụ tìm mọi phương cách tái lập hòa bình tại Việt Nam.”
Số
phiếu thuận là 134/136. Theo hiến định, hai người không được bỏ phiếu
là Chủ Tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm và Chủ Tịch Hạ Viện Phạm Văn Út.
Như vậy số phiếu là đồng nhất.
Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ
Chiều
Thứ Hai, 28 Tháng Tư, lễ tuyên thệ của Tổng Thống Dương Văn Minh được
cử hành trang trọng tại Dinh Độc Lập, trước mặt đầy đủ đại diện các định
chế dân chủ.
Trong
bài diễn văn nhậm chức, ông Minh kêu gọi: “Cùng các anh em bên kia, tôi
thực sự muốn hòa giải, các anh em cũng biết thế. Tôi yêu cầu mọi tầng
lớp đồng bào hãy tôn trọng sinh mạng của nhau. Đó là tinh thần của Hiệp
Định Paris… Chúng ta hãy ngồi vào bàn hội nghị để tìm những giải pháp
hữu ích nhất cho quốc gia dân tộc. Để sớm chấm dứt những đau khổ của dân
chúng và anh em binh sĩ, tôi đề nghị chúng ta ngưng ngay lập tức những
cuộc tấn công lẫn nhau.”
Yêu cầu Mỹ ra đi
Việc
Tổng Thống Minh làm ngay sau đó là viết một công hàm gửi Đại Sứ Martin:
“Tôi trân trọng yêu cầu ông đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho nhân viên
của Cơ Quan Tùy Viên Quốc Phòng (DAO) rời khỏi Việt Nam trong 24 giờ
đồng hồ kể từ ngày 29 Tháng Tư, 1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm
được giải quyết.”
Năm
1985, Đại Sứ Martin trao cho chúng tôi văn bản này để giữ làm kỷ niệm.
Đây là tài liệu lịch sử quan trọng vì là văn thư cuối cùng của chính phủ
VNCH gửi chính phủ Hoa Kỳ.
Sáng sớm ngày 29 Tháng Tư, một sĩ quan trẻ tuổi phóng xe máy tới tòa đại sứ Mỹ để tống đạt bức thư.
Đại
Sứ Martin liền trả lời ngay: “Tôi xin thông báo để ngài hay là tôi đã
ra chỉ thị như ngài yêu cầu. Tôi tin rằng ngài sẽ ra lệnh cho quân đội
của chính phủ ngài cộng tác bằng mọi cách để làm dễ dàng cho việc di
chuyển các nhân viên DAO…”
Chuyển quyền cho phe chiến thắng trong trật tự
Các
cánh quân của quân đội Bắc Việt đồng loạt tiến vào Sài Gòn từ năm hướng
khác nhau lúc 5 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư. Trước tình hình tuyệt vọng,
Tổng Thống Minh quyết định đầu hàng, nhưng cũng trong vòng trật tự.
Đó
là chuyển nhượng quyền hành cho phe chiến thắng. Ông cho thâu băng bản
tuyên cáo với ý định để phát sóng vào lúc 9 giờ sáng ngày 30 Tháng Tư:
“Đường
lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp để cứu vãn sinh mạng của đồng
bào. Chúng tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam với
nhau để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam chúng ta.
Vì
lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng
nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Lâm
Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam hãy ngưng nổ súng.
Chúng
tôi đang ở đây chờ gặp đại diện chính phủ Cộng Hòa Lâm Thời Miền Nam
Việt Nam để cùng nhau thảo luận về việc bàn giao chính quyền trong vòng
trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.”
Ít
người để ý tới một sự kiện lịch sử quan trọng, nó hầu như là một phép
lạ, đó là trong thời gian dầu sôi lửa bỏng mà Sài Gòn và các đô thị lớn,
nhỏ như Đà Nẵng, Nha Trang, Huế, Đà Lạt, Vũng Tàu, Cần Thơ, An Giang,
An Xuyên, đâu đâu cũng vẫn tương đối là an ninh. Không có biểu tình lớn
hay đình công, đảo chính, đốt nhà, phá phách, cướp bóc hay đánh bom. Lúc
quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn thì thành phố vẫn còn êm ả. Điện,
nước, đài phát thanh, truyền hình, điện thoại, xe taxi, xe buýt, xe xích
lô vẫn hoạt động như thường lệ.
Hãy
nhìn vào Baghdad hay Kabul trong những năm vừa qua. Từ khi có tin Hoa
Kỳ quyết định rút quân (chứ chưa rút hẳn) tình hình đã và còn đang nhiễu
nhương đến mức nào?
Như
vậy là Trời còn ban phát một ân huệ cho nhân dân miền Nam. Trong chiến
bại họ đã vẫn bảo toàn được Hiến Pháp VNCH – cột trụ của lý tưởng tự do
mà họ đã bảo vệ và xây đắp trong 20 năm với bao nhiêu hy sinh, xương
máu.
Sau
45 năm, một câu hỏi – đúng ra là một kịch bản – vẫn còn lưu lại trong
trí óc chúng tôi: Nếu như sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố sẵn sàng để
chuyển giao quyền bính, những vệ binh trước cổng Dinh Độc Lập – trong
những bộ quân phục màu trắng với giây biểu chương vàng – được đứng vào
thế nghiêm để chào đón, rồi từ từ mở cánh cổng sắt đồ sộ để mời phái
đoàn bên thắng cuộc tới dự nghi lễ chuyển giao quyền bính, và tuyên bố
thống nhất đất nước – trước thềm Dinh Độc Lập (ngó thẳng ra đại lộ Thống
Nhất) – thì lịch sử đã diễn ra như thế nào?
Nguyễn Tiến Hưng
*
Tác giả: Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên giáo sư kinh tế tại N.C.
Wesleyan College, Trinity College, và Howard University, và là kinh tế
gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (1966-1070). Ông là cựu tổng trưởng Kế Hoạch
Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1973 đến 1975, và là phụ tá đặc trách tái
thiết của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã
xuất bản – ngoài những sách về kinh tế – các cuốn “The Palace File” (Hồ
Sơ Mật Dinh Độc Lập) (1986), “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” (2005), “Tâm Tư
Tổng Thống Thiệu” (2010), và “Khi Đồng Minh Nhảy Vào” (2016).
(Người Việt)
Không có nhận xét nào