Cuộc tranh luận trên dài BBC hôm thứ
Tư, ngày 6-5-2020 thật hào hứng về nhiều đề tài, trong đó có trở lại một
chuyện xưa cũ là hiệp định Genève ngày 20-7-1954.
Hình minh họa |
1.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh
xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng
Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định
Genève ngày 20-7-1954 là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư
lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ
Quốc phòng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Đại
diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô,
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Hai chính phủ
Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.
Hiệp
định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6
chương, 47 điều, có tính cách thuần tuý quân sự, và không đưa ra một
giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Chính
phủ Quốc Gia Việt Nam dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô
Đình Diệm lo thi hành hiệp định Genève, tập trung và rút toàn bộ lực
lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy
định của hiệp định Genève. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã
trình bày, mà cho đến nay, không có tài liệu sách vở nào cho thấy là
chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã vi phạm hiệp định Genève, chỉ trừ lời tố
cáo của Bắc Việt Nam là Nam Việt Nam không chịu bàn việc tổng tuyển cử
theo quy định của hiệp định Genève để lấy lý do tấn công Nam Việt Nam.
Tuy nhiên …
2.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE KHÔNG QUY ĐỊNH TỔNG TUYỂN CỬ
Đọc
thật kỹ văn bản hiệp định Genève bằng hai thứ tiếng chính thức là tiếng
Việt và tiếng Pháp, thì hiệp định nầy chỉ là một hiệp định đình chiến,
thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị, không có điều
nào, khoản nào quy định việc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước
Trong
khi đó, sau khi hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở
Cambodia được ký kết ngày 20-7-1954, các phái đoàn tham dự hội nghị
Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, tức họp ngoài lề hội nghị chính
thức, nhằm bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về
vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”. Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan
trọng nhứt là điều 7, ghi rằng:
“Hội
nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính
trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự
tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng
tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển
đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện,
cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một
Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm
soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày
20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những
cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn
Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53. Để xem
bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa:
Déclaration finale de la Conférence de Genève en 1954.)
Như
vậy, đề nghị chuyện tổng tuyển cử chỉ được đưa ra trong điều 7 của bản
“Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương” ngày 21-7-1954, chứ không phải trong hiệp định Genève ngày
20-7-1954.
Chủ
tịch phiên họp ngày hôm đó (21-7-1954) là Anthony Eden (ngoại trưởng
Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodia đều
trả lời miệng rằng “đồng ý”. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5,
Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời
miệng, chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản
tuyên bố không có chữ ký. (Tìm đọc bản bản chính thứ hai là bản Pháp văn
cũng hoàn toàn không có chữ ký. Xin vào Google sẽ thấy rõ).
Đây
chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách đề
nghị hay kêu gọi một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam,
không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, dự kiến, đề nghị chứ không
có tính cách cưỡng hành tức bắt buộc thi hành, đồng ý hay không đồng ý
là tùy từng đơn vị.
Một
văn kiện hành chánh hay thương mại dân sự bình thường mà không có chữ
ký cũng không có giá trị phap lý để thi hành, huống gì là một văn kiện
ngoại giao quốc tế đa quốc gia mà không có chữ ký thì làm sao có thể bắt
buộc phải thi hành?
Phái
đoàn Quốc Gia Việt Nam và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định
Genève ngày 20-7-1954 và cũng không ký bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội
nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày
21-7-1954. Hai phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố
riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.
3.- BẮC VIỆT NAM ĐÒI HỎI ĐIỀU KHÔNG CÓ
Hiệp
định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không
đưa ra một giải pháp chính trị. Thế mà ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là
Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng NVN là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội
nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, mà phía Bắc Việt Nam cho
rằng điều nầy đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn
về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The
Vietnam War, Day by Day, New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.)
Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn
Đồng, vì cho rằng chính phủ QGVN tức Nam Việt Nam không ký các văn kiện
Genève nên không bị ràng buộc phải thi hành.
Sau
đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thay chính phủ Quốc Gia Biệt Nam từ ngày
26-10-1955, cũng nhiều lần từ chối lời đề nghị của Bác Việt Nam. Phạm
Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956,
18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ rằng Bắc Vệt Nam quan tâm đến chuyện
thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới.
Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, bác bỏ
đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Thế
là Bắc Việt Nam tố cáo Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hòa vi phạm hiệp
định Genève vì không chịu thảo luận chuyện tổng tuyển cử để thống nhất
đất nước.
4.- AI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENÈVE?
Sau
năm 1975, tự mãn là “bên thắng cuộc”, ‘tài liệu cộng sản đã tiết lộ hai
sự kiện đặc biệt cho thấy nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng
sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève:
Thứ
nhứt, trước khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954, tại Liễu
Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), Trung Hoa, diễn ra cuộc
họp giữa thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân Lai và chủ tịch nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954. Theo
lời khuyên của Châu Ân Lai, Hồ Chí Minh đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút
những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để
chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang,
Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève]
Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh
Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội
nghị Liễu Châu then chốt”. Nguồn: Internet). Nói là 10,000 ở lại, nhưng
thực tế đông hơn rất nhiều.
Việc
nầy vi phạm điều 5 chương I hiệp định Genève nguyên văn như sau: “Để
tránh những sự xung đột có thể gây lại chiến sự, tất cả các lực lượng,
vật liệu và dụng cụ quân sự đều phải đưa ra khỏi khu phi quân sự trong
thời hạn hai mười lăm (25) ngày kể tử ngày hiệp định nầy bắt đầu có hiệu
lực.” [Khu phi quân sự ở vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía
bắc. Quốc Gia Việt Nam ở phía nam.]
Thứ
hai, cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng
viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở
lại Nam Việt Nam như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm…
(Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012,
tt. 271-273.) Những nhân vật nầy ở lại để chỉ huy và tổ chức lại Trung
ương cục miền Nam trong tình hình mới. Trung ương cục miền Nam được
thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt
Nam. (Tháng 10-1954, Trung ương cục miền Nam đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội
nghị ngày 23-1-1961 lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương đảng (khóa III)
đảng Lao Động ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành Trung ương cục miền
Nam.)
Hai
tài liệu trên đây do phía CS tiết lộ sau năm 1975, chứ không phải tài
liệu tuyên truyền của Nam Việt Nam hay của Tây Phương. Như vậy, rõ ràng
trong khi chính phủ Quốc Gia Việt Nam tôn trọng hiệp định Genève, nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay
trước khi hiệp định được ký kết.
KẾT LUẬN
Hiệp
định Genève ngày 20-7-1954 chỉ là hiệp định đình chỉ chiến sự. Chính
thể Quốc Gia Việt Nam, rồi Việt Nam Cộng Hòa tức Nam Việt Nam đã thi
hành đúng hiệp định Genève, trong khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc
Việt Nam liên tục vi phạm hiệp định nầy.
Do
tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do
làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức
Bắc Việt Nam công khai họp đại hội tuyên bố mở cuộc chiến, xân lăng Việt
Nam Cộng Hòa tức Nam Việt Nam dưới chiêu bài thống nhứt đất nước và
chống Mỹ cứu nước, trong khi Lê Duẩn chủ trương: “Ta đánh Mỹ là đánh cho
cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng nhà nước
cộng sản Việt Nam từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày
24-1-2013.) Một nhân vật tầm cỡ ngoại trưởng như ông Nguyễn Mạnh Cầm xác
nhận công khai như thế thì không sai vào đâu được.
Cuối
cùng, ở đây xin cảm ơn cuộc tranh luận sôi nổi trên đài BBC đã đặt lại
vấn đề hiệp định Genève để có cơ hội cùng nhau ôn lại rằng hiệp định
Genève hoàn toàn không đưa ra một giải pháp chính trị cho Việt Nam, trái
với lời tuyên truyền của cộng sản. Mời các bạn trẻ đọc lại thật kỹ văn
bản hiệp định Genève để hiểu rõ sự thật lịch sử đất nước, chứ không phải
là thứ lịch sử đã bị cộng sản bóp méo với sự tiếp tay của những kẻ có
học xu thời. Lịch sử ngày nay thuộc về sự thật và lẽ phải chứ không
thuộc về những kẻ nhất thời thắng trận như thời trung cổ.
Trần Gia Phụng
(FB Trần Gia Phụng)
Không có nhận xét nào