Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
đẫm máu kết thúc hơn 40 năm (1979 – 2020). Theo yêu cầu bạn hữu tôi
đăng lại bài hồi ký này viết tháng 1/2014, chỉnh sửa, bổ sung ngày
2/5/2020.
Hình minh họa |
Đất nước Chùa Tháp – “Ốc đảo hòa bình”, “Đất thánh Việt cộng”
Những
năm 1950 thế kỷ trước, Campuchia dưới triều đại Quốc vương Sihanouk
theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, trung lập, người dân Campuchia
sống trong hòa bình no ấm, trong khi hai nước láng giềng Việt Nam và Lào
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ leo thang ngày càng ác liệt, thế
giới gọi Campuchia là “Ốc đảo hòa bình”.
Là
nước trung lập, nhưng Quốc vương Sihanouk hết lòng ủng hộ cuộc kháng
chiến chống Mỹ của Việt Nam, như chấp nhận các cơ quan và bộ đội Việt
Nam, trong đó của tỉnh An Giang đứng chân trên đất Campuchia ven biên
giới, như cái gai trong mắt người Mỹ và chánh quyền Sài Gòn nhưng không
làm gì được. Họ gọi đó là “đất thánh Việt Cộng”. Campuchia còn chấp nhận
miền Bắc Việt Nam nhập vũ khí vào cảng Sihanoukville, mở đường vận
chuyển xuyên rừng tràm Hà Tiên về miền Tây Nam Bộ…
Ngày
18 tháng 3 năm 1970, nhân ông Hoàng Sihanouk đi nước ngoài, tướng Lon
Nol đảo chánh lập chánh phủ thân Mỹ ở Campuchia. Trước ngày xảy ra cuộc
đảo chánh, đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh An Giang 7 người và 1 Phó bí thư
Khu ủy Khu 8 cải trang đi công khai từ căn cứ Khu ủy ở Kiến Phong về An
Giang trên đất Campuchia, đến đồn Prek Chey đối diện khu phố Long Bình
huyện An Phú bị lính Campuchia bắt giữ, Tỉnh ủy cử người đến thương
lượng trả một số vàng khá lớn để chuộc nhưng không thành. Không còn cách
nào khác, Tỉnh đội tổ chức một phân đội tinh nhuệ tập kích chiếm đồn
Prek Chey giải thoát những người bị bắt. Trận tập kích cố gắng hạn chế
tối đa thương vong quân đồn trú, không bắt tù binh và lấy bất cứ thứ gì.
Tiếp theo cuộc đảo chánh của tướng Lon Nol sau đó, đặt dấu chấm hết
thời kỳ Campuchia thân thiện miền Bắc và lực lượng kháng chiến miền Nam
Việt Nam.
Vì sự sống còn của ta phải tiến đánh quân Lon Nol. Đồng thời giúp “bạn” xây dựng thực lực.
Trong
tình thế lưỡng đầu thọ địch, để mở rộng địa bàn đứng chân bảo toàn lực
lượng, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang
buộc phải ra lệnh bộ đội địa phương tỉnh với 2 tiểu đoàn thiếu và các
đại đội độc lập đánh quân Lon Nol sâu trên đất Campuchia, quân ta tiến
đến đâu quân Lon Nol đều bỏ chạy, làng mạc, phố phường nguyên vẹn, người
dân làm ăn sinh sống bình thường, trong thời gian rất ngắn chiếm giử
một vùng rộng lớn hai tỉnh Takeo và Kandal, thu rất nhiều vũ khí, quân
dụng.
Việc
ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon Nol là bất khả kháng, vì sự sống còn
của ta. Để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Campuchia và “hợp pháp hóa”
việc ta đưa quân lên nước bạn, Tỉnh ủy chỉ đạo dựng “ngọn cờ Sihanouk”,
phát động nhân dân Campuchia đoàn kết cùng nhân dân Việt Nam chống Mỹ
và Lon Nol, được nhân dân Campuchia đồng tình ủng hộ. Các cơ quan và bộ
đội tỉnh di chuyển trú đóng sâu trên đất Camphuchia, đi đến đâu cũng
được người dân chào đón nồng nhiệt như người thân. Sau đó khoảng một
tháng, quân Sài Gòn tập trung binh lực mở các cuộc hành quân “Cửu Long
1”, “Cửu Long 2”… đánh phá căn cứ của ta ven biên giới và thọc sâu càn
quét trên đất Campuchia. Các cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội phải phân tán nhỏ
ém trong các khu rừng chồi, hay vườn cây ăn trái tránh địch vô cùng vất
vã trong nhiều ngày, may mà không bị tổn thất đáng kể về người, nhưng
thiệt hại vật chất khá lớn, vũ khí chiến lợi phẫm thu của quân Lon Nol
và cả của ta dự trử trước đó cất dấu ở căn cứ hậu cần trên đất Campuchia
ven biên giới Vạt Lài, huyện An Phú bị quân Sài Gòn truy tìm phát hiện
lấy hết! Trong khi đó các đơn vị bộ đội tỉnh tiến sâu trên đất Campuchia
trên một trăm cây số, án ngử quân Lon Nol gần thị xã Takeo và Kandal,
quân Sài Gòn không với tới, gần như đứng ngoài vòng chiến sự.
Chiến
tranh Việt Nam mở rộng sang Campuchia, nhưng Mỹ và quân Sài Gòn không
cứu được quân Lon Nol. Khi ấy, những người cộng sản Campuchia (Khmer đỏ)
thực lực chưa có gì, cán bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” (Khmer đỏ) tổ
chức bộ máy chánh quyền, đoàn thể và các lực lượng vũ trang. Riêng Tỉnh
đội giúp “bạn” xây dựng mỗi tỉnh một tiểu đoàn bộ đội địa phương, huấn
luyện và trang bị vủ khí đầy đủ.
Cán
bộ, bộ đội An Giang giúp “bạn” rất nhiệt tình, có hiệu quả mong “bạn”
vững mạnh cùng ta đứng chung chiến hào chống Mỹ, vì lợi ích nhân dân hai
nước. Lẽ ra “bạn” biết ơn sự giúp đỡ đó đối xử tốt với ta. Nhưng không!
“bạn” dần dần lộ rỏ ý đồ chống ta, ngang nhiên nổ súng khiêu khích bộ
đội, bắt thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta đi công tác lẻ tẻ. Các cơ quan
Tỉnh đội có 4, 5 cán bộ bị chúng bắt giết dã man như các anh Ba Kỳ Nam,
Chín Bình Ton, Đình Trung, Bảy Sửu…! Đối với ta thì vậy, trong nội bộ
chúng, Khmer đỏ loại bỏ những cán bộ do ta đào tạo, hai tiểu đoàn tỉnh
An Giang xây dựng giúp, vừa làm lể bàn giao xong ta quay đi, chúng tước
vủ khí giải tán tức thì.
Thái
độ thù địch của Khmer đỏ đối với ta bất cứ cán bộ, chiến sĩ nào ở An
Giang có mặt trên chiến trường Campuchia lúc đó không lạ gì! Nhưng, các
báo cáo của Tỉnh ủy, Tỉnh đội gởi Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 8 về
những vụ Khmer Đỏ nổ súng khiêu khích bộ đội và giết hại cán bộ ta đều
bị nghi ngờ “không trung thực”, cho rằng nếu có “va chạm” với “bạn”, xem
lại có phải lỗi trước hết do cán bộ, chiến sĩ An Giang gây ra, nên
“bạn” mới có phãn ứng như vậy!? Cho đến sau ngày giải phóng miền Nam 30
tháng 4 năm 1975, Khmer Đỏ bắn pháo, đưa quân đột kích bắn giết đồng
bào, cướp phá một số xóm ấp ven biên giới An Giang, Khu ủy và Bộ tư lệnh
Quân khu 8 vẫn chưa xác định Khmer đỏ là kẻ thù, cho đó là những “xung
đột lẻ tẻ”, “địa phương, cục bộ” và rằng “ Khmer Đỏ dù có xấu vẫn là
“bạn” của ta!!”. Vì sao như vậy? Tôi xin nhường quý bạn suy ngẫm…!
CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM THẢM KHỐC.
Để
chuẩn bị chiến tranh, Khmer đỏ phát động binh lính và nhân dân
Campuchia gieo rắc tư tưởng hận thù dân tộc với Việt Nam, ra sức xây
dựng quân đội, sơ tán dân xa vùng biên giới, đào công sự, chiến hào, xây
dựng trận địa pháo, trận địa xuất phát tấn công, tập trung binh lực áp
sát biên giới… Mọi động thái đó diễn ra cách biên giới ta không xa nhưng
ta không hay biết Cho đến đêm 30 tháng 4 năm 1977, Khmer đỏ mở cuộc tấn
công đồng loạt toàn tuyến biên giới An Giang dài gần 100 km, mở màn
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc…! Các đồn biên phòng, bộ
đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân tự vệ vùng biên giới…, nhờ sớm nhận
diện mạo kẻ thù, đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, anh dũng đánh trả
đẩy lùi các mũi tấn công của địch hạn chế tổn thất. Nhưng, không hiểu
vì sao Khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 8 và Trung ương không đánh gía đúng
bản chất phản động của Khmer Đỏ và kẻ đứng phía sau chúng, chủ quan mất
cảnh giác, không có kế hoạch đối phó chiến tranh?!
Sau
đại thắng mùa Xuân năm 1975, tôi nghe các vị lãnh đạo nói: Mỹ là tên đế
quốc sừng sỏ ta còn đánh bại, từ nay không một tên xâm lược nào dám
đụng đến Việt Nam…! Chủ trương sớm “ra quân” hằng vạn cán bộ, chiến sĩ
và buông lõng công tác quốc phòng những năm đầu sau 1975, chứng minh sự
khinh suất của Ban lãnh đạo cấp cao đất nước. Cho đến đêm “định mệnh” 30
tháng 4 năm 1977, khi khói lửa chiến tranh đổ xuống khắp vùng biên giới
Tây Nam bị bất ngờ mới nhận mặt kẻ thù, điều quân, khiển tướng tổ chức
chống đỡ trong thế bị động, lúng túng! Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang dù quá
hiểu rõ bản chất phản động của Khmer Đỏ từ những năm trước 1975, nhưng
cũng không làm gì khác hơn là tổ chức phòng thủ thụ động trên tuyến biên
giới tỉnh nhà, nên cũng rất bị động, lúng túng…!
Giửa
năm 1977, tôi là đại úy phó chủ nhiệm Phòng chánh trị Bộ chỉ huy quân
sự tỉnh An Giang (Tỉnh đội), nhận quyết định chuyển ngành sang Văn phòng
tỉnh ủy làm cán bộ nghiên cứu phụ trách theo dõi khối Quân sự - an
ninh; đặc biệt, theo dõi chiến sự chiến tranh biên giới Tây Nam đang leo
thang ngày càng ác liệt phục vụ sự lãnh đạo của Tỉnh ủy.
Suốt
chặng đường dài 30 năm đánh giặc cứu nước đầy hy sinh gian khổ, đến
ngày thắng lợi hoàn toàn 30 tháng 4 năm 1975, quân dân ta lại phải tiếp
tục cầm súng chiến đấu bảo vệ biên giới hai đầu của Tổ quốc, tiếp tục hy
sinh xương máu hàng vạn chiến sĩ, đồng bào và biết bao làng mạc, phố
phường bị tàn phá…! Đây là cuộc chiến tranh “kỳ quái” giữa ta với người
“đồng chí” Campuchia (Khmer đỏ) và với người “đồng chí” phương Bắc “vĩ
đại”!?
Những
năm 1975 – 1979 quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vốn là “đồng chí”, là
“anh em như môi với răng” bổng trở thành kẻ thù của nhau, đến mức Trung
Quốc xúi giục Khmer Đỏ gây chiến tranh biên giới Tây Nam chống ta và sau
đó chính Trung Quốc đưa quân gây chiến tranh biên giới phía Bắc “dạy
cho Việt Nam một bài học”! Khi ấy, nghe Đảng nói: Trung Quốc có “âm mưu
bá quyền, bành trướng”, là “kẻ thù trực tiếp của Việt Nam”, nhưng tôi
cũng như không ít người không hiểu ngọn nguồn vì sao như vậy?! Sau nầy
có điều kiện đọc các tài liệu tham khảo; trong đó có hồi ký của nguyên
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ viết năm 2003 tôi tin là khách
quan, chân thật.
Hồi ký có đoạn:
“…
“Là
nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các họat động
ngoại giao nầy với tư cách là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ - Bộ ngoại giao, trực
tiếp tham gia đoàn đàm phán về bình thường hóa quan hệ với Mỹ ở Paris
năm 1977, rồi ở Nữu ước năm1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lở mất
cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát
triển đất nước, sau bao năm chiến tranh…
“Việc
ta từ chối lời đề nghị “bình thường hóa quan hệ không điều kiện” của
Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu
vực nầy, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân
và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng
Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979, nếu như Việt Nam sau
chiến thắng 1975 có một chiến lược”thêm bạn bớt thù”, thực sự cầu thị
hơn? Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập khối ASEAN mãi ngót
20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật”.
“…
Đây
quả là sai lầm có tính chiến lược trong đối ngoại của ban lãnh đạo cấp
cao sau năm 1975, đưa đất nước rơi vào thãm họa chiến tranh một lần nữa!
Với
trách nhiệm của mình, tôi theo dõi chiến sự qua báo cáo của Tỉnh đội và
các huyện – thị biên giới, thỉnh thoảng tháp tùng các vị lãnh đạo tỉnh
thị sát chiến trường tiếp xúc cán bộ, chiến sĩ nghe anh em báo cáo:
Khmer đỏ là kẻ cuồng tín, vốn là “bạn” và là “học trò” của ta, nên quá
hiểu biết thủ đoạn chiến thuật của nhau, chúng lại khi ẩn khi hiện, so
đánh nhau với quân Sài Gòn khó khăn, ác liệt hơn nhiều…! Cán bộ, chiến
sĩ ta ở các đồn biên phòng, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân tự
vệ phải dàn quân chốt chặn ngày đêm trên tuyến biên giới, đối mặt với
địch đánh trả hết đợt tấn công nầy đến đợt tấn công khác. Nhiều đồn,
chốt bị địch đánh chiếm, ta đánh phản kích chiếm lại năm lần, bảy lượt,
giành nhau từng bờ tre, ụ đất… Căng thẳng nhất là mùa nước năm 1978,
toàn tuyến biên giới nước ngập mênh mông, quân ta phải đấp công sự nổi,
ngày đêm sống và chiến đấu dưới tầm hỏa lực địch! Khó khăn, gian khổ
cùng cực, thương vong quân ta tăng lên từng ngày, những cán bộ, chiến sĩ
“gạo cội” bộ đội tỉnh còn sống sau cuộc chiến tranh với Mỹ hy sinh rất
nhiều, trong đó có những đồng đội bạn thân với tôi như Bé Tám, Tư Mưa,
Sơn Bịch…! Dù hy sinh, gian khổ đến mấy, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng
vũ trang An Giang động viên nhau quyết tâm bám trụ chiến đấu đến cùng,
nhất định không rời bỏ trận địa vì trước mặt là kẻ thù, phía sau là đồng
bào, là quê hương, đất nước ta không có chổ lùi…!
KHMER ĐỎ THẢM SÁT DÂN XÃ BA CHÚC VÀ VỤ DI DỜI DÂN KHMER BẢY NÚI VỀ TỈNH HẬU GIANG (CŨ).
Cuộc
chiến tranh biên giới Tây Nam thời gian không dài, nhưng tổn thất về
người và của quân dân ta ở An Giang vô cùng to lớn! Có hai sự kiện đau
thương dù thời gian lùi xa, nhưng bất cứ ai chứng kiến nhớ lại không
khỏi bồi hồi xúc động:
Khi
chiến tranh bùng phát, mặc dù có chủ trương ven tuyến biên giới sơ tán
người già, phụ nử, trẻ con, nhưng khi Khmer Đỏ đánh vỡ tuyến phòng ngự
của ta tràn vào chiếm Núi Tượng xã Ba Chúc mười ngày trong tháng 4 năm
1978, phần lớn dân vẫn không sơ tán, Khmer Đỏ gây ra vụ thảm sát kinh
hoàng, giết chết 3.157 người! Nghe những nạn nhân sống sót kể lại
và xem các bức ảnh chụp sau khi quân ta đánh Khmer đỏ rút chạy,
xác người chết nằm chất chồng la liệt khắp nơi…! Tội ác giết người man
rợ như thời trung cổ của bọn Khmer đỏ “trời không dung đất không
tha”!!
Sự
kiện đau thương nầy tôi nghĩ có phần trách nhiệm của đảng bộ, chánh
quyền sở tại thiếu kiên quyết vận động, thuyết phục dân sơ tán. Ngày
nay, các nhà viết sử trong tỉnh viết về sự kiện nầy chỉ đổ lỗi đồng bào
xã Ba Chúc theo đạo Hiếu Nghĩa, vì “…mê tín nên nghe lời bọn xấu chạy
vào chùa Phi Lai đọc kinh cứu mạng không chịu di tản…” (dự thảo Lịch sử
tỉnh và huyện Tịnh Biên).
Nói
về vụ di dân Khmer Bảy Núi gần cuối năm 1978, khi chiến tranh đang diễn
ra có lệnh Trung ương: An Giang phải di dời khẩn cấp toàn bộ dân Khmer
Bảy Núi về định cư ở tỉnh Hậu Giang (cũ). Ban Thường vụ tỉnh ủy và Ủy
ban Nhân dân tỉnh triệu tập cuộc họp khẩn gồm các vị lãnh đạo hai huyện
Tri Tôn, Tịnh Biên và các ngành tỉnh liên quan triển khai kế hoạch thi
hành. Các vị lãnh đạo tỉnh giải thích: Theo chỉ đạo Trung ương, phải
đưa dân Khmer Bảy Núi về các tỉnh phía sau, “để ngăn cắt không cho Khmer
đỏ lợi dụng móc nối tổ chức chống ta”. Lý lẻ không thuyết phục, nhưng
không ai dám có ý kiến khác!
Việc
di dời 70 ngàn dân Khmer với chặng đường dài hằng trăm cây số, trong
khi phương tiện vận tải của ta, chủ yếu đường sông rất hạn hẹp vô cùng
khó khăn! Nhưng, khó khăn nhất là giải thích, động viên dùng “con ngáo
ộp” Khmer đỏ hù dọa, thúc ép đồng bào chịu rời bỏ nhà cửa, ruộng đồng ra
đi, vì họ nào muốn xa lìa nơi chôn nhao cắt rún, sinh cơ lập nghiệp từ
bao đời trên mãnh đất nầy, trong khi hiểm họa Khmer đỏ lúc ấy không như
cán bộ tuyên truyền. Có mấy lần tôi cùng các vị lãnh đạo Tỉnh ủy vào
Bảy Núi kiểm tra, đôn đốc việc di dân, chứng kiến cảnh người dân than
khóc, kể lể trước khi ra đi trong lòng vô cùng đau xót, thương cảm đồng
bào, nhưng lệnh là phải thi hành không có chọn lựa nào khác!
Thực
hiện cuộc di dời dân không nhanh gọn như kế hoạch, kéo dài đến đầu năm
1979, quân ta mở chiến dịch tổng phản công tiến chiếm Phnom Phenh, đưa
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam lên đất Campuchia vẫn chưa xong. Khi
ấy ông Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách Dân vận đến An
Giang, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ tỉnh ủy, ông Lê Văn Nhung
(Tư Việt Thắng), Bí thư tỉnh ủy báo cáo với ông Nguyễn Văn Linh việc di
dân Khmer, đề nghị ông cho đình chỉ, vì ta đã đánh chiếm Phnom Phenh,
hiểm họa Khmer Đỏ không còn. Ông Nguyễn Văn Linh viết điện mật gởi Bộ
Chính trị chuyển đề nghị của Tỉnh ủy. Hôm sau, điện mật của Tổng bí thư
Lê Duẩn gởi phúc đáp viết vắn tắt: “Việc nầy (di dân Khmer) do anh Sáu
Thọ (Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách chỉ đạo chiến trường Tây
Nam) chịu trách nhiệm, phải có ý kiến của anh…”! Thế là việc di dân vẫn
phải tiếp tục…!
Chủ
trương di dời dân Khmer Bảy Núi về tỉnh Hậu Giang, xuất phát từ quan
điểm không tin người Khmer Bảy Núi, cho rằng nếu không di dời vào sâu
nội địa họ sẽ theo Khmer Đỏ chống ta, không phải để “bảo đãm an toàn,
tính mạng, tài sản của dân” như các nhà viết sử trong tỉnh viết. Tôi nói
chuyện nầy, những người cùng thời với tôi còn sống trong tỉnh không lạ
gì.
Việc
đưa 70 ngàn dân Khmer an cư lập nghiệp từ bao đời ở Bảy Núi về vùng đất
lạ, khác nào một cuộc “đi đày”, làm tiêu tan tài sản, nhà cửa, ruộng
vườn, đảo lộn cuộc sống người dân, mà các vị lãnh đạo cấp cao đất nước
khi ấy ra quyết định bất chấp hậu quả, bất chấp lòng dân và chẳng đếm
xỉa ý kiến đảng bộ, chánh quyền địa phương! Khi còn đánh nhau với Khmer
Đỏ ở biên giới thì nói sao cũng được, nhưng khi không còn đánh nhau vẫn
phải tiếp tục cuộc di dời dân Khmer, thì các nhà viết sử giải thích sao
đây!?
Sau
khi đưa dân Khmer đi chuyến cuối cùng, khắp vùng Bảy Núi các phum sóc
người Khmer nhà cửa, chùa chiền hoang tàn, xơ xác…! Mặc dù tỉnh Hậu
Giang (cũ) tiếp nhận người Khmer tích cực giúp đỡ tạo điều kiện cho họ
ổn định cuộc sống, nhưng không thể kham nỗi, phát sinh nhiều vấn đề
ngoài tầm khả năng của tỉnh. Vã lại, người Khmer Bảy Núi ở vùng cao đã
quen, nay đưa họ về sống ở đồng bằng không thích nghi, vài tháng sau
toàn bộ 70 ngàn dân Khmer lục tục dắt díu nhau trở về Bảy Núi! Có ai
nhìn thấy cảnh đồng bào tay xách nách mang, gánh gồng tài sản, lùa dắt
trâu bò đi bộ hằng trăm cây số trở về phum sóc cũ, mới thấu hiểu cãm
thương nổi gian nan, vất vả của đồng bào!! Về đến nơi chôn nhao cắt rún,
đồng bào trắng tay, không nhà ở, không có gì để ăn, đau ốm không thuốc
chữa trị, trẻ em không có trường đi học… đồng bào lâm vào cảnh khốn
cùng, chánh quyền phải cứu đói và giải quyết mọi hậu quả! Nhưng trong
điều kiện khi ấy ngân sách tỉnh nghèo nàn, dù có cố gắng cũng chẳng thấm
vào đâu, đồng bào phải tự xoay sở để sống còn…! Tôi nghe có không ít
người chết đói và chết vì bịnh tật do thiếu đói, nhưng không biết bao
nhiêu!?
Kế
hoạch di dân Khmer phá sản, ta không thể bắt đồng bào quay trở lại Hậu
Giang, Tỉnh ủy báo cáo Trung ương, nhận điện chỉ đạo của Trung ương:
Tỉnh phải bố trí lại nơi ở của đồng bào Khmer, tập trung ở từng khu vực
sâu trong nội địa, không để ở rải rác các phum sóc cũ, nhất là các phum
sóc gần biên giới, để “Khmer Đỏ không thể thâm nhập…”. Lại tiếp tục một
chủ trương sai lầm, nhưng tỉnh không thực hiện được và Trung ương cũng
lờ đi… !!
SAU CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
Ngày
7/1/1979 quân ta đánh chiếm Phnom Penh, 3 ngày sau tôi tháp tùng đoàn
cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy, Tỉnh đội An Giang thăm thị xã Tà-keo. Trên
đường đi từ thị trấn Tịnh Biên theo Quốc lộ 2 lên thị xã Tàkeo, hai bên
đường làng mạc, phố phường hoang vắng, đó đây xác người còn nằm phơi
nắng giửa trời, từng tốp xe bọc thép, xe vận tải chở quân của ta chạy
trên đường, hay cụm lại nghỉ ngơi dưới bóng râm. Thị xã Tà keo như một
thành phố chết, không điện nước, không chợ búa, không bệnh viện, không
trường học, nhà cửa, phố phường xơ xác, tiêu điều…Người dân từ đâu đó
lục tục kéo về đi thất thểu trên đường, quần áo rách rưới toàn một màu
đen…! Đây là lần thứ hai tôi cùng đồng đội đặt chân lên Campuchia, không
như lần đầu năm 1970 đánh Lon Nol, người dân Campuchia vui mừng chào
đón “anh bộ đội Việt Nam” như người thân, lần này tôi cãm nhận trong ánh
mắt họ như vừa vui, vừa e dè, ngại ngùng điều gì đó…! Tôi cùng đoàn đi
xem nơi ở của Tà Mốc - tên đồ tể Khmer đỏ và xem toà nhà của cố vấn
Trung Quốc giửa hồ nước như nhà thuỷ tạ.
Theo
sự phân công của Trung ương, An Giang chịu trách nhiệm tỉnh Tà keo, tổ
chức đoàn chuyên gia chánh trị và đoàn chuyên gia quân sự mang phiên
hiệu Đoàn 9905, cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp tục truy
quét tàn quân Khmer Đỏ và giúp bạn xây dựng lực lượng, phát triển kinh
tế, xã hội…từ con số không kéo dài suốt 10 năm, tổn thất về người và của
không đo đếm được!
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ chấm dứt, hòa bình được lập lại, những tưởng bước
vào thời kỳ xây dựng hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế,
người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc… Thế nhưng, niềm tin và hy vọng
dần dần tan theo mây khói, do những chánh sách đối nội sai lầm của Đảng,
làm chồng chất thêm khó khăn sau chiến tranh, nhân dân nghèo đói, cùng
với sai lầm trong đối ngoại, đất nước bị bao vây cấm vận và rơi vào thãm
họa chiến tranh một lần nữa với hai người “đồng chí” láng giềng phương
Bắc và Tây Nam…!
Những sự thật cần biết.
Năm
2014 tôi có xem phim truyền hình do Đài HTV9 thành phố Hồ Chí Minh
chiếu, bộ phim có tên“Biên giới Tây Nam – cuộc chiến bắt buộc”. Đạo diển
Lê Phong Lan – đạo diển bộ phim - mong muốn cuộc chiến tranh biên giới
Tây Nam được “giải mật”, nhưng qua những gì tôi biết, tuy chỉ trong phạm
vi địa phương cũng đủ nói lên tất cả, tôi thấy không có gì bí mật, vì
người dân không dám nói và Đảng không muốn nói, hay nói không đúng sự
thật, thành ra chuyện không bí mật thành bí mật.
Gọi
đây là “cuộc chiến bắt buộc” là chính xác, vì Khmer đỏ vô cớ xăm phạm
biên giới Tây Nam nước ta, buộc ta đánh trả tự vệ và tổng phản công đánh
chiếm Phom-Phenh, để loại trừ hiểm hoạ Khmer đỏ cho đất nước. Sau đó,
giúp những người Khmer trong nhóm Hunsen, Heng Samrin…ly khai Khmer đỏ.
Họ với hai bàn tay trắng như Khmer đỏ năm 1970, ta hết lòng hết sức giúp
họ từng bước phát triển trưởng thành, xây dựng đất nước Campuchia phát
triển như hôm nay. Điều quan trọng là giúp họ nhằm xây dựng một thể chế
chánh trị thân thiện với ta, để bảo đãm sự bình yên lâu dài vùng biên
cương này của Tổ quốc.
Nói
“cuộc chiến bắt buộc” là đúng, dù Khmer đỏ thực hiện chánh sách diệt
chủng với người dân của chúng, nhưng nếu không động chạm đến biên giới
lãnh thổ nước ta, thì liệu ta có đưa quân đánh chúng phải chịu “sa lầy”
hao người tốn của trong 10 năm, còn mang tiếng “xâm lược” không? Theo
tôi là không! Nên nhớ, thời điểm ấy tình cảnh nước ta “rối như nồi canh
hẹ”, giải quyết những vấn đề trong nước và ngoài nước của ta đã hết hơi
hết sức, còn đâu lo chuyện “ăn cơm nhà vát tù và hàng tổng”. Làm gì có
chuyện tự dưng đưa “bộ đội tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế cao
cả trên nước bạn”, “cứu nhân dân Campuchia thoát hoạ diệt chủng Khmer
Đỏ”.
Bài
phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Campuchia Heng Samrin tại lể kỷ niệm 35
năm ngày chiến thắng chế độ diệt chủng Khmer Đỏ tại Hà Nội ngày
5/1/2014 ông nói: “Chỉ có đất nước Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đã tự nguyện đưa con cháu và những người thân yêu của
mình đến giúp giải phóng và cứu tính mạng của người dân Campuchia trong
lúc vô vàn nguy nan…”. Đại diện cho người dân Campuchia ông phải nói
như vậy và nói như vậy là đúng, nếu ta không tiêu diệt Khmer đỏ làm gì
có đất nước Campuchia ngày nay, nhưng đó chỉ phản ánh một phần sự thật
lịch sử, chưa phải căn nguyên việc ta can thiệp vào Campuchia.
Đạo
diển Lê Phong Lan nói: “…sau cuộc chiến Mậu Thân 1968, khi một phần
quân đội của chúng ta bị đánh dạt qua biên giới Campuchia, lập căn cứ
bên đó thì nhiều khu tập kết vũ khí, đạn dược của chúng ta bị Khmer Đỏ
tấn công, giết người và cướp đi hết”. Sự thật là trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ từ sau Đồng khởi năm 1960, cho đến Lon Nol đảo chánh ở
Campuchia năm 1970, lực lượng kháng chiến các tỉnh ven biên giới giáp
Campuchia, kể cả của Miền (R), khi nào bị quân Mỹ và Sài Gòn càn quét,
đánh phá gặp khó khăn thường chạy sang trú ẩn ven biên giới trên đất
Campuchia trong thời gian nhất định hoặc lâu dài, kể cả xây dựng căn cứ
hậu cần ở đó, không phải chỉ đến sau trận Mậu Thân 1968. Và, như tôi
viết ở trên, năm 1970 khi ta buộc phải đưa quân lên Campuchia đánh Lon
Nol, cộng sản Campuchia (Khmer đỏ) thực lực chưa có gì, chúng không có
khả năng và cũng chưa ra mặt chống ta, nên không có chuyện tấn công giết
người và cướp vũ khí của ta khi ấy.
Báo
Tuổi Trẻ nêu câu hỏi: “… tại sao Khmer Đỏ lại cố ý kích động sự thù
hằn giửa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia?” và đạo diển Lê Phong Lan
hỏi: “Đằng sau cuộc chiến nầy là ai?” .
Như
tôi viết ở trên, năm 1970 bất đắc dĩ ta đưa quân lên Campuchia đánh Lon
Nol vì sự sống còn của ta và giúp Khmer đỏ dần dần xây dựng phát triển
thực lực “đủ lông đủ cánh”, thì cũng dần dần Khmer đỏ bộc lộ dã tâm
chống Việt Nam, cho đến ngày 30/4/1977 ồ ạt đưa quân tấn công toàn tuyến
biên giới Tây Nam nước ta. Và, kẻ đằng sau Khmer Đỏ chính là Trung
Quốc, không có Trung Quốc Khmer Đỏ không dám liều lĩnh gây chiến tranh
biên giới chống ta với qui mô chừng ấy, nhưng Trung Quốc nhúng “bàn tay
lông lá” của họ vào nắm Khmer Đỏ từ lúc nào và vì sao Trung Quốc xúi
giục Khmer đỏ chống ta và sau đó xua quân gây chiến tranh biên giới phía
Bắc “dạy cho Việt Nam một bài học”, cho đến sau khi kết thúc hai cuộc
chiến tranh nầy một thời gian khá dài, Trung Quốc còn tiếp tục “bảo trợ”
Khmer đỏ, đấu tranh giử ghế chúng ở Liên hiệp quốc, làm cho cộng đồng
quốc tế ngộ nhận “Việt Nam xâm lược Campuchia”. Đây là câu chuyện dài,
phạm vi bài viết nầy tôi chưa nói được.
Trả
lời câu hỏi của báo Tuổi Trẻ, đạo diển Lê Phong Lan nói: “Để lấy lòng
dân và tập trung quyền lực thì kích động thù hằn dân tộc và gây chiến là
biện pháp đơn giản nhất…”. Ý kiến nầy tôi xin trao đổi làm rỏ thêm:
Quê
hương An Giang tôi là vùng biên giới giáp Campuchia, thuở nhỏ tôi biết
người dân hai nước hai bên biên giới quan hệ gần gũi như người láng
giềng; trong kháng chiến chống Mỹ tôi từng sống cùng đồng chí, đồng đội
của tôi ở vùng biên giới trên đất Campuchia, người dân Campuchia rất có
cảm tình với chúng tôi, nếu không chúng tôi không thể sống yên ổn ở đó
và những năm tháng đánh quân Lon Nol tôi cũng có mặt, chúng tôi rất hiểu
tấm lòng người dân Campuchia với Việt Nam. Chỉ có một bộ phận nhỏ người
Campuchia nhẹ dạ, cực đoan bị thế lực phản động trong nước và nước
ngoài, sau nầy là Khmer đỏ tuyên tuyền lôi kéo theo chúng chống Việt
Nam, chứ đa số người dân Campuchia rất thân thiện với Việt Nam, Khmer đỏ
xây dựng quân đội chuẩn bị chiến tranh chống ta hàng vạn quân, nhưng
chắc chắn không phải tất cả đều tự nguyện theo chúng chống Việt Nam.
Khmer đỏ hoặc thế lực nào khác ngày xưa, hay phe đối lập Sam Rainsy ngày
nay ở Campuchia muốn chống Việt Nam bao giờ chúng cũng giở luận điệu
tuyên truyền moi móc chuyện lịch sử xa xưa, kích động hận thù dân tộc
rằng “Việt Nam chiếm đất Campuchia…”, nhưng hiệu quả luận điệu ấy không
như chúng mong muốn.
Tôi
đồng ý ý kiến đạo diễn Lê Phong Lan: “…Lịch sử là cái đã qua, nhưng
chúng ta có thể học hỏi nhiều từ lịch sử cho hôm nay và mai sau…”. Và,
đã là lịch sử thì phải khách quan, chân thật, che dấu hay “vo tròn, bóp
méo” sự thật lịch sử là có tội con cháu mai sau./-
Nguyễn Minh Đào
(Viet-studies)
Không có nhận xét nào