Ngày 11.05.2020, Ủy hội sông Mekong
(MRC) ra thông báo về việc Chính phủ Lào sẽ tiến hành Tham vấn trước cho
dự án thủy điện Sanakham. Ngày bắt đầu chính thức của sáu tháng thực
hiện thủ tục Tham vấn trước dự kiến sẽ được quyết định tại cuộc họp của
nhóm công tác gồm đại diện của Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ngày
16.6.2020.
Thêm thủy điện Sanakham, dòng chính sông Mekong càng "nghẽn mạch". |
Ba năm và sáu con đập chặn dòng Mekong
Dự
án thủy điện Sanakham nằm trên dòng chính hạ nguồn sông Mekong, cách
thủ đô Viêng Chăn (Lào) khoảng 155 km về phía hạ lưu, cách bờ biển vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc Việt Nam khoảng 1.737 km. Dự án
này có công suất 684 MW với tổng vốn đầu tư ước tính 2,073 tỷ USD. Dự
kiến việc khởi công xây dựng dự án sẽ được thực hiện trong năm 2020 và
hoàn tất để đưa vào vận hành năm 2028.
Điện năng sản xuất ra từ thủy điện Sanakham chủ yếu được bán sang Thái Lan [i].
Chủ
đầu tư dự án Sanakham là Công ty thủy điện Datang Sanakham (Lào). Đây
là công ty con của China Datang Corporation (CDT), một trong năm công ty
phát điện lớn nhất Trung Quốc. CDT là một doanh nghiệp nhà nước được
thành lập năm 2002 và được trực tiếp quản lý bởi Ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản Trung Quốc [ii].
Tính
đến thời điểm giữa tháng 5.2020, Sanakham là con đập thủy điện thứ sáu
được Lào trình ra MRC để thực hiện thủ tục Tham vấn trước. Đã có hai con
đập gồm Xayaburi và Don Sahong lần lượt được đưa vào vận hành từ tháng
10.2019 và tháng 01.2020. Hai dự án dù chưa xây dựng nhưng đã vượt qua
thủ tục Tham vấn trước, gồm Pak Beng và Pak Lay lần lượt hoàn tất tháng
06.2017 và tháng 04.2019.
Dự
án thứ năm là Luang Prabang bắt đầu Tham vấn trước từ tháng 10.2019, lẽ
ra sẽ hoàn tất vào tháng 04.2020. Nhưng do đại dịch COVID-19, cuộc họp
của Ủy ban liên hợp bốn quốc gia Mekong để thảo luận tuyên bố chung của
dự án Luang Prabang đã được hoãn lại đến ngày 04.6.2020.
Chuỗi
đập [thuỷ điện] này làm gia tăng mức độ tổn thương của cư dân ĐBSCL do
hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún đất, xói lở bờ sông và ven biển, cùng với
những mất mát về đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản, năng suất nông
nghiệp và sinh kế người dân.
Như
vậy, chỉ trong vòng ba năm qua, đã có hai con đập được đưa vào vận
hành, bốn con đập khác đang được ráo riết chuẩn bị để hiện thực hóa
trong vòng tám năm tới. Dòng chính hạ nguồn sông Mekong đang dần “nghẽn
mạch”, như cảnh báo của bác sỹ - nhà văn Ngô Thế Vinh, người đã vượt
hành trình dài 4.800 km dọc dòng Mekong từ Tây Tạng xuống Biển Đông
[iii].
Báo
cáo đánh giá tác động tích lũy của 11 đập thủy điện trên dòng chính hạ
nguồn Mekong (2017) [iv] và Nghiên cứu về quản lý và phát triển bền vững
lưu vực Mekong (2019)[v] do MRC chủ trì thực hiện đã nhận định rằng
những tác động tích lũy kinh tế - xã hội - môi trường do chuỗi đập này
gây ra với Việt Nam là vô cùng nghiêm trọng. Theo đó, chuỗi đập này làm
gia tăng mức độ tổn thương của cư dân ĐBSCL do hạn hán, xâm nhập mặn,
sụt lún đất, xói lở bờ sông và ven biển, cùng với những mất mát về đa
dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản, năng suất nông nghiệp và sinh kế
người dân.
Vị trí, hiện trạng và công suất các dự án thủy điện trên dòng chính Mekong đến tháng 5.2019. Nguồn: Tác giả cập nhật từ bản đồ gốc của International Rivers (2017) và ICEM (2010) |
Cửa bán điện của Luang Prabang càng hẹp
Trong
6 con đập đang và sẽ tạo ra sự “nghẽn mạch” của dòng Mekong, có sự tham
gia tích cực của một doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam. Đó là Công ty Điện
lực Dầu khí (PV Power), người tiên phong phát triển dự án thủy điện
Luang Prabang bằng việc ký kết một thỏa thuận với Chính phủ Lào từ tháng
10.2007.
Dự
án Luang Prabang có công suất 1.460 MW, quy mô lớn thứ hai nhưng đã
chiếm hơn 15% tổng công suất trong tổng số chín dự án thủy điện được quy
hoạch trên dòng chính Mekong thuộc lãnh thổ Lào. Một doanh nghiệp đã
được lập ra để đóng vai trò chủ đầu tư dự án Luang Prabang là Công ty
TNHH Năng lượng Luang Prabang (LPCL). PV Power nắm 38% cổ phần của LPCL,
hai cổ đông khác gồm Công ty TNHH PT (Lào) nắm 37% cổ phần và Chính phủ
Lào nắm 25% cổ phần [vi].
Với
vị trí địa lý và thị trường điện trong khu vực, dự án Luang Prabang chỉ
có hai thị trường chủ yếu là Thái Lan và Việt Nam. Như đã phân tích
trong bài “Canh bạc Luang Prabang - Bài 1: Hiệu quả tài chính còn để
ngỏ” [vii], do đặc điểm kỹ thuật của dự án Luang Prabang, ước tính giá
bán điện sang Thái Lan phải trong khoảng 7,5 - 8,6 UScent/kWh và về Việt
Nam phải trong khoảng 8,6 - 9,6 UScent/kWh thì dự án này mới có hiệu
quả về mặt tài chính.
Nếu
bán sang Thái Lan, giá điện của Luang Prabang sẽ cao hơn từ 14% đến 30%
so với giá điện của Xayaburi. Nếu bán về Việt Nam, giá điện của Luang
Prabang sẽ cao hơn từ 1,8 đến 2 lần so với khung giá phát điện do Bộ
Công thương ban hành, vốn đang duy trì ở mức 4,8 USCent/kWh.
Chính
ông Hồ Công Kỳ, Chủ tịch HĐQT của PV Power, phát biểu trên Báo Đầu tư
ngày 24.6.2019 rằng “dự án tốt” khi bán điện về Việt Nam với giá là 9,38
UScent/kWh. “Tuy nhiên, để triển khai dự án này, PV Power sẽ phải xây
dựng cơ chế đặc thù trình Thủ tướng Chính phủ và có thể phải xin ý kiến
Quốc hội. Quan điểm của PV Power là không hiệu quả sẽ không đầu tư”, ông
Kỳ nói [viii].
Theo
tính toán của tác giả bài này, nếu Việt Nam chấp nhận giá điện 9,38
UScent/kWh như PV Power mong đợi, thì ngân sách để bù giá điện là 4,6
USCent/kWh. Với lượng điện năng thương phẩm 6.231 GWh/năm, thì ngân sách
hàng năm phải chi ra để bù giá cho Luang Prabang lên đến trên 285 triệu
USD.
Tính trong tối thiểu 30 năm chu kỳ dự án, khoảng bù giá này là 8,6 tỷ USD.
Lưu
ý rằng PV Power nắm 38% cổ phần trong dự án, Chính phủ và doanh nghiệp
Lào cùng nắm 62% cổ phần dự án. Do đó, trong khoảng bù giá nêu trên, PV
Power sẽ nhận được 3,3 tỷ USD, còn Chính phủ và doanh nghiệp Lào sẽ được
nhận 5,3 tỷ USD.
Với
Thái Lan, chính phủ nước này đã thu hẹp quy mô nhập khẩu điện từ Lào
xuống còn 3.500 MW đến năm 2037. Nghĩa là bảy dự án Pak Beng, Luang
Prabang, Pak Lay, Sanakham, Pak Chom, Ban Khoum và Phou Ngouy trên lãnh
thổ Lào với tổng công suất đến 8.000 MW phải khốc liệt cạnh tranh nhau
để bán điện cho Thái Lan. Chỉ tính riêng bốn dự án đã, đang và chuẩn bị
Tham vấn trước, gồm Pak Beng (912 MW), Pak Lay (1.320 MW), Luang Prabang
(1.460 MW), và Sanakham (684 MW) thì tổng công suất đã lên đến 4.376
MW, dư ra đến 876 MW công suất chưa biết bán cho ai. Hơn thế nữa, dự án
Luang Prabang cũng có vị trí bất lợi nhất để bán điện sang Thái Lan
trong số bốn dự án đó, do có khoảng cách truyền tải điện năng xa nhất.
Vì
vậy, có thêm dự án Sanakham, cửa bán điện của dự án Luang Prabang sang
Thái Lan ngày càng hẹp. Trong khi đó, nếu chấp nhận mua điện của Luang
Prabang, Việt Nam sẽ phải mở đường cho việc chi ra hàng tỷ USD ngân sách
từ tiền đóng thuế để hỗ trợ cho PV Power, cho Chính phủ và doanh nghiệp
Lào.
Vì sao Sanakham nộp hồ sơ tham vấn sau Luang Prabang?
Ngày
31.7.2019, Chính phủ Lào thông báo cho Ban thư ký của MRC về ý định
Tham vấn trước cho dự án thủy điện Luang Prabang. Chưa đầy hai tháng
sau, ngày 09.09.2019, Lào gởi tiếp thông báo về ý định Tham vấn trước
cho dự án thủy điện Sanakham, ngay sau khi hồ sơ Tham vấn trước dự án
Luang Prabang được đệ trình đến MRC. Vì muốn tập trung vào việc Tham vấn
trước cho Luang Prabang, nên MRC phải hoãn lại việc thông báo về thủ
tục Tham vấn trước cho Sanakham đến ngày 11.05.2020 [ix].
Việc tham vấn liên tiếp hai dự án này có mối quan hệ gì với nhau?
Có
luồng ý kiến chủ đạo cho rằng Việt Nam nên chủ động đầu tư vào Luang
Prabang để “chủ động tham gia từ khâu thiết kế”, vì “Trung Quốc sẵn sàng
nhảy vào đầu tư và chi phối các hoạt động của thủy điện ở Lào”[x].
Nghĩa là, vì một nỗi sợ vô hình về việc “Trung Quốc nhảy vào” nên Việt
Nam “cần chọn cái dở ít nhất trong những cái dở” như ý kiến của ông TS
Tô Văn Trường bằng việc khuyến khích PV Power đầu tư vào Luang Prabang?
Theo
Hồ sơ tham vấn trước của dự án thủy điện Sanakham do chủ đầu tư Datang
chuyển cho MRC[xi] thông qua Ủy ban sông Mekong quốc gia Lào, điều đáng
chú ý nhất là toàn bộ tài liệu đều ghi thời hạn lập tháng 10.2018. Đặc
biệt, còn có một tài liệu ghi là Hội thảo Tham vấn & Khởi động
(PNPCA Consulting & Opening Workshop) ngày 30.10.2018. Như vậy,
Datang đã sẵn sàng mọi tài liệu để trình lên MRC và có thể bắt đầu thủ
tục Tham vấn trước từ cuối tháng 10.2018. Điều gì khiến họ không làm
điều đó mà phải chờ đến gần một năm để Luang Prabang thực hiện tham vấn
trước, rồi ngay lập tức “lật ngửa quân bài”, gởi hồ sơ đệ trình dự án
Sanakham lên MRC?
Không
loại trừ khả năng đây là một tính toán chiến thuật của Công ty thủy
điện Datang Sanakham. Vào thời điểm sẽ diễn cuộc họp của Ủy ban liên hợp
các quốc gia Mekong để xem xét hồ sơ Tham vấn trước dự án Sanakham
khoảng hơn sáu tháng tới, mọi thảo luận và quyết định của ủy ban này đối
với dự án Luang Prabang đều sẽ được thông báo công khai. Lúc ấy, nếu
Việt Nam quyết định ủng hộ PV Power đầu tư vào Luang Prabang, sẽ không
còn một cơ hội nào cho Việt Nam phản đối Sanakham.
Trong
khi còn chưa thấy một doanh nghiệp Trung Quốc (tưởng tượng) nào đó
“nhảy vào” Luang Prabang, thì đã lù lù một công ty “bằng xương bằng
thịt” là CDT xuất hiện để tích cực thúc đẩy dự án Sanakham. Việc khuyến
khích PV Power đầu tư vào Luang Prabang bất chấp hậu quả và việc Datang
lật con bài tẩy Sanakham nói lên điều gì?
Mặc
dù Hiệp định Mekong 1995 không cho phép một quốc gia nào có quyền phủ
quyết đối với các dự án được đề xuất trên dòng chính Mekong, nhưng điều
đó không có nghĩa bất cứ một quốc gia nào cũng có thể thực hiện các dự
án của họ mà bất chấp quyền lợi của các quốc gia khác.
Một
là, kiên quyết yêu cầu PV Power rút ra khỏi dự án Luang Prabang, tổng
hợp thông tin về những thiệt hại của ĐBSCL do các dự án thủy điện đã vận
hành gây ra để bằng mọi cách về ngoại giao và pháp lý nhằm yêu cầu Lào
(và Trung Quốc) tuân thủ quyền sử dụng nguồn nước công bằng và hợp lý
trên dòng Mekong.
Hai
là, ủng hộ PV Power, chuẩn bị ngân sách để hỗ trợ PV Power, Chính phủ
Lào và doanh nghiệp Lào đồng thời chối bỏ quyền phản đối của Việt Nam
đối với tất cả các dự án thủy điện trên dòng chính Mekong.
Việt Nam sẽ chọn gì: kiên định với lập trường cách đây gần 10 năm, hay làm ngược lại với những gì đã nói?
Ngày
19.04.2011, trong Thông cáo báo chí của MRC về việc các nước hạ nguồn
Mekong đưa quá trình Tham vấn trước về dự án Xayaburi lên cấp Bộ trưởng,
Việt Nam đã bày tỏ các mối quan ngại sâu sắc về việc thiếu các đánh giá
thỏa đáng, đầy đủ và toàn diện về các tác động xuyên biên giới và lũy
tích mà dự án này có thể gây ra cho khu vực hạ nguồn, đặc biệt là vùng
ĐBSCL. Việt Nam đề nghị trì hoãn dự án này và các dự án đề xuất xây dựng
đập thủy điện khác trên dòng chính sông Mekong ít nhất là 10 năm.
“Việc
trì hoãn nên được nhìn nhận một cách tích cực là một cách để có thêm
thời gian cần thiết để chính phủ các nước ven sông tiến hành các nghiên
cứu toàn diện và mang tính định lượng cụ thể hơn về tất cả các tác động
lũy tích có thể có,” Tiến sỹ Lê Đức Trung, trưởng đoàn Việt Nam, phát
biểu[xii].
Mặc
dù Hiệp định Mekong 1995 không cho phép một quốc gia nào có quyền phủ
quyết đối với các dự án được đề xuất trên dòng chính Mekong, nhưng điều
đó không có nghĩa bất cứ một quốc gia nào cũng có thể thực hiện các dự
án của họ mà bất chấp quyền lợi của các quốc gia khác. Việc thực hiện
bất kỳ dự án nào mà không có sự đồng thuận của Ủy ban liên hợp thuộc MRC
sau khi kết thúc quy trình Tham vấn trước đều vi phạm Hiệp định Mekong
1995. Điều này từng xảy ra với Xayaburi và Don Sahong khi Lào cho phép
các chủ đầu tư hai dự án này tiến hành thi công dù không có bất cứ đồng
thuận nào sau khi kết thúc Tham vấn trước [xiii].
Về
nguyên tắc, khả năng khởi kiện chính phủ Lào ra các tòa án quốc tế về
việc vi phạm Hiệp định Mekong 1995 vẫn còn để ngỏ cho các quốc gia
Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [xiv]. Việc Campuchia ra quyết định hoãn
phát triển các đập thủy điện mới trên sông Mekong trong 10 năm tới
[xv], gồm Stung Treng và Sambor, không chỉ là một bước đi đúng đắn về
việc chuyển đổi sang các nguồn năng lượng thân thiện môi trường hơn mà
còn có thể tạo điều kiện cho những hành động pháp lý quyết liệt hơn của
quốc gia này đối với các dự án thủy điện trên lãnh thổ Lào.
Nguyễn Đăng Anh Thi
Chuyên gia Năng lượng và Môi trường (Canada)
(Người Đô Thị)
Không có nhận xét nào