Hình minh hoạ. Áp phích với hình ảnh Chủ tịch Tập Cận Bình tại một căn cứ hải quân ở Hong Kong hôm 30/6/2019 |
Chính sách vùng đệm của Trung Quốc
Tham
vọng lớn nhất của lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là phải trở thành siêu
cường, chi phối sự phát triển của toàn cầu. Để thực hiện tham vọng đó,
Trung Quốc tìm cách mở rộng ảnh hưởng và sức mạnh của mình. Trong các
chính sách để thực hiện tham vọng đó, Trung Quốc đang áp dụng chính sách
vùng đệm.
Yếu
tố địa lý đã góp phần định hình vị trí địa chính trị của Trung Quốc. Và
dựa trên vị trí địa chính trị đó, đã hình thành các chính sách đối
ngoại của Trung Quốc.
Trung
Quốc có biên giới trên đất liền chung với 14 quốc gia, có biên giới
biển giáp với 6 quốc gia, cùng với 3 vùng lãnh thổ đặc biệt là Hồng
Công, Macao và Đài Loan. Rất nhiều khu vực biên giới này vẫn đang trong
tình trạng tranh chấp.
Một
học giả chuyên về Trung Quốc là Michael D. Swaine, cho biết: Chính sách
vùng đệm được Trung Quốc nhắc tới lần đầu trong Đại hội Đảng Trung Quốc
lần thứ 16 năm 2002. Trong kỳ đại hội này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
nhấn mạnh chính sách đối ngoại: “Các cường quốc là then chốt; các quốc
gia láng giềng là tối quan trọng; các quốc gia đang phát triển là nền
tảng; chủ nghĩa đa phương là diễn đàn quan trọng”.
Hình
minh hoạ. Biếm hoạ của hoạ sĩ Rebel Pepper về Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và cảnh sát chống bạo động tại một cuộc biểu tình chống chính
phủ ở Hong Kong hôm 26/4/2020
Hình
minh hoạ. Biếm hoạ của hoạ sĩ Rebel Pepper về Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và cảnh sát chống bạo động tại một cuộc biểu tình chống chính
phủ ở Hong Kong hôm 26/4/2020 Reuters
Theo
giải thích của một học giả Trung Quốc là Yuan Peng (lúc đó là Phó Chủ
tịch Viện Quan hệ Quốc tế đương đại của Trung Quốc, viết tắt là CICIR,
là một think-tank của cơ quan tình báo lớn nhất của Trung Quốc - Bộ An
ninh Nội địa) thì vùng đệm của Trung Quốc có 3 vòng. Vòng trong cùng bao
gồm 14 quốc gia có chung biên giới trên đất liền với Trung Quốc. Vòng
thứ 2 là các quốc gia tuy không có biên giới chung với Trung Quốc, nhưng
là những quốc gia biển nằm ở vị trí mở rộng từ vòng 1. Các quốc gia này
trải dài từ Tây Thái Bình Dương cho tới Ấn Độ Dương, cùng với một số
quốc gia Trung Á và Nga. Vòng thứ 3 là “vòng ngoại vi” bao gồm châu Phi,
châu Âu và châu Mỹ.
Từ
năm 2012, sau khi giữ vị trí Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập
Cận Bình đã tiếp tục chính sách vùng đệm với các quốc gia cận biên. Ông
ta chính thức đưa ra “chính sách ngoại giao vùng đệm” hay còn được gọi
là “chính sách ngoại giao láng giềng,” vốn được coi là trọng tâm trong
chiến lược đối ngoại của Trung Quốc từ năm 2013 đến nay.
Sáu vấn đề trong chính sách ngoại giao vùng đệm của Trung Quốc
Trong
một nghiên cứu mới đây của Jacob Stokes, có 6 vấn đề nổi lên trong
chính sách ngoại giao vùng đệm này của Trung Quốc, bao gồm:
Thứ
nhất, Bắc Kinh luôn khẳng định toàn vẹn lãnh thổ là “lợi ích cốt lõi”,
để bảo vệ các “lợi ích cốt lõi” này thì có khi phải sử dụng chiến tranh
nếu cần thiết. Tuy nhiên, từ 2010 trở đi, lãnh đạo Trung Quốc đã bổ sung
thêm nhiều khu vực thuộc “vùng đệm” trở thành “lợi ích cốt lõi” như
biển Đông chẳng hạn. Điều đó khiến rất nhiều quốc gia ASEAN có liên quan
đến tranh chấp biển Đông cảm thấy nguy hiểm khi lãnh đạo Trung Quốc
kiên quyết không thoả hiệp
Như
Chen Xiangyang, học giả thuộc Viện Quan hệ Quốc tế đương đại của Trung
Quốc, khẳng định rằng, vùng đệm “là vùng cơ bản để Trung Quốc bảo vệ các
lợi ích quốc gia, chiến đấu cho việc thống nhất chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, và đấu tranh chống lại việc chia rẽ đất nước.
Thứ
hai, Trung Quốc đang nỗ lực duy trì tăng trưởng kinh tế của mình thông
qua sự hội nhập nền kinh tế của toàn khu vực. Điều đó rất cần các quan
hệ tốt đẹp với các nước láng giềng của Trung Quốc. Các lãnh đạo Trung
Quốc luôn sử dụng ảnh hưởng từ thị trường Trung Quốc với hơn 1 tỉ dân
cũng như nguồn vốn đầu tư khổng lồ tứ Trung Quốc ra nước ngoài và năng
lực xây dựng các công trình hạ tầng để thúc đẩy sự phát triển thương mại
của toàn khu vực. Và đương nhiên, đằng sau các thúc đẩy về thương mại,
đầu tư và nhập khẩu của Trung Quốc như vậy, sẽ là những tác động chính
trị đến các quốc gia này.
Thứ
ba, lãnh đạo Trung Quốc luôn đảm bảo với các quốc gia láng giềng về
việc Trung Quốc sẽ sử dụng như thế nào đối với sức mạnh đang ngày càng
gia tăng của Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc cũng đang gia tăng các hành
động hung hăng, “nhe nanh múa vuốt” ở khu vực biển Đông và biển Hoa
Đông. Chính điều này lại khiến các quốc gia láng giềng của Trung Quốc lo
sợ và kết thành một “liên minh” nhằm chống lại sự đe doạ từ Trung Quốc.
Thứ
tư, việc quan hệ càng ngày càng xấu đi giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ, vốn
là mối quan hệ trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, đã
tạo ra một môi trường đa dạng hoá các quan hệ quốc tế của Trung Quốc
ngoài Washington. Phát triển các quan hệ này, trong đó có các láng giềng
của Trung Quốc sẽ giúp Trung Quốc chống lại các ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở
châu Á và sẽ khiến sự ủng hộ của các quốc gia này với Trung Quốc ngày
càng lớn hơn.
Thứ
năm, “chính sách ngoại giao vùng đệm” cộng hưởng với các chính sách đối
ngoại quan trọng khác của Trung Quốc hình thành “chính sách đối ngoại
tập trung vào các cường quốc” của Trung Quốc. Theo đó, Trung Quốc sẽ tập
trung quan hệ với Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sẽ
ưu tiên các cường quốc tầm trung như Indonesia và Hàn Quốc.
Trung Quốc sẽ tập trung phát triển quan hệ với các quốc gia này một cách tách biệt trong mối quan hệ với Hoa Kỳ. Trung Quốc
Thứ
sáu, chính sách ngoại giao vùng đệm với mục đích dẫn tới vai trò “lãnh
đạo châu Á” của Trung Quốc, giảm bớt các ảnh hưởng từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
với các tham vọng và các hành động của Trung Quốc, các quốc gia châu Á
đang “ngờ vực” thái độ của Trung Quốc bởi vì họ thấy rằng, dường như Bắc
Kinh đang muốn thực hiện “chính sách bá quyền” chứ không phải thực tâm
cùng giúp đỡ khu vực này cùng phát triển.
Hình minh hoạ. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bên lề Thượng đỉnh G20 ở Nhật Bản hôm 29/6/2019 Reuters |
Các công cụ để Bắc Kinh thực hiện “chính sách vùng đệm”
Cũng theo Jacob Stokes, có 6 công cụ để Bắc Kinh thực hiện “chính sách ngoại giao vùng đệm”, bao gồm:
- Làm sâu sắc các liên hệ kinh tế, thương mại và tài chính
Kinh
tế và thương mại là trụ cột chính trong “chính sách ngoại giao vùng
đệm”. Kinh tế và thương mại sẽ hỗ trợ cho các mục tiêu đối ngoại và
chính trị bởi vì Bắc Kinh muốn cho các quốc gia láng giềng thấy rằng
Trung Quốc là nguồn để phát triển kinh tế, cơ hội và người cung cấp các
hàng hoá công cộng. Điển hình trong số đó là Sáng kiến Vành đai Con
đường (BRI), do Tập Cận Bình khởi xướng năm 2013. Với sáng kiến này,
Trung Quốc sẽ giữ vị trí trung tâm của khu vực và trong dòng chảy thương
mại toàn cầu. Mặc dù BRI vươn rộng ra toàn thế giới, nhưng địa bàn quan
trọng của BRI bắt đầu với các quốc gia khu vực Nam Á và Đông Nam Á. Bên
cạnh việc thúc đẩy đầu tư xây dựng hạ tầng, Trung Quốc còn gia tăng các
ảnh hưởng về tài chính, với việc sử dụng đồng nhân dân tệ như một đồng
tiền thanh toán quốc tế theo các tiêu chuẩn của Trung Quốc.
- Tập trung quan hệ với các cường quốc láng giềng
Trong
chính sách như vậy, Trung Quốc tập trung vào các cường quốc bao gồm
Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Trung Quốc thời gian gần đây đã đạt được những
thành tích quan trọng trong quan hệ Nga - Trung. Đối với quan hệ Trung -
Nhật, mặc dù hai bên vẫn còn nhiều căng thẳng, ví dụ tranh chấp tại
quần đảo Senkaku. Tuy nhiên, quan hệ Trung - Nhật vẫn đang phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt trong bối cảnh Thương chiến Mỹ - Trung. Đối với Ấn Độ,
mặc dù những tranh chấp biên giới vẫn thường xuyên xảy ra những xung
đột nhỏ, nhưng cả hai bên đều biết kiềm chế, và quan hệ Trung - Ấn cũng
đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng.
- Khuyến khích các thể chế phi tự do
Vì
là một quốc gia độc đảng, duy trì sự kiểm soát ngặt nghèo trong nước và
sẵn sàng đàn áp các hoạt động phản kháng cho nên Trung Quốc khuyến
khích và hỗ trợ các thể chế phi tự do, giống như Trung Quốc. Tổ chức
Ngôi nhà Tự do (Freedom House) trong một báo cáo có cho biết Trung Quốc
đã tích cự huấn luyện và hỗ trợ giới chức Việt Nam, Myanmar và
Philippines trong việc kiểm soát các “thông tin nhạy cảm” và bán các hệ
thống thiết bị giám sát bằng trí tuệ nhân tạo (AI) cho các quốc gia
Myanmar, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Pakistan.
- Thể hiện vai trò quan trọng trong các cuộc hoà giải và đối thoại khu vực
Trung
Quốc đã gia tăng ảnh hưởng bằng cách đóng vai trò quan trọng như người
hoà giải và đối thoại tại các điểm nóng khu vực như tại Myanmar,
Afghanistan và Bắc Triều tiên.
Tại
khu vực biển Đông, Trung Quốc vẫn đang duy trì các cuộc đối thoại cho
việc tìm kiếm một Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC) từ năm 2002 tới
nay. Mặc dù Trung Quốc phớt lờ Phán quyết năm 2016 về vụ Philippines
kiện Trung Quốc, trong đó trực tiếp bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn”
của Trung Quốc, và Trung Quốc cũng bất chấp tất cả để quan sự hoá trên
các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang kiểm soát tại Hoàng Sa, Trường Sa.
Nhưng với việc thể hiện duy trì tiến trình tìm kiếm COC để Trung Quốc
muốn cho thế giới thấy là Trung Quốc vẫn muốn “duy trì hoà bình” trên
khu vực này.
- Xây dựng và thúc đẩy mối quan hệ với các định chế đa phương
Trung
Quốc cũng đang thúc đẩy các quan hệ và ảnh hưởng của họ thông qua các
định chế đa phương. Có thể kể đến như Diễn đàn Vành đai Con đường để hỗ
trợ cho Sáng kiến Vành đai Con đường, Ngân hàng Phát triển Hạ tầng châu Á
(AIIB), các diễn đàn đối thoại như Diễn đàn Bác Ngao, Diễn đàn Hương
Sơn hay là Hội nghị Đối thoại về các về các nền văn minh châu Á.. Ngoài
ra, Trung Quốc cũng tích cực trong các tổ chức quốc tế mà Trung Quốc
đóng vai trò quan trọng như Tổ chức Thượng Hải (SCO) hay BRICS…
- Sử dụng các công cụ cưỡng bức
Bên
cạnh các chính sách trên, Trung Quốc còn sử dụng các biện pháp cưỡng
bức thông qua các chiến dịch để áp đặt lợi ích của mình đối với các quốc
gia nằm trong vùng đệm của Trung Quốc. Chính sách cưỡng bức của Trung
Quốc thường áp dụng là sử dụng “cây gậy” thông qua sự tăng cường sự hiện
diện của Trung Quốc đi kèm với các đe doạ sử dụng vũ lực khi mà “củ cà
rốt” đưa ra đã thất bại. Như chúng ta đã biết, các lãnh đạo Trung Quốc
thiết kế “chính sách ngoại giao vùng đệm” như là một cách để “quyến rũ”
các quốc gia láng giềng chấp nhận sự gia tăng xuất hiện của Trung Quốc
trong các lĩnh vực để đổi lấy các lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh.
Việt Nam trong chính sách vùng đệm của Trung Quốc
Như
đã trình bày, Việt Nam là một trong 14 quốc gia có chung biên giới trên
đất liền với Trung Quốc. Việt Nam cũng là quốc gia nằm trong khu vực
biển Đông, nơi mà Trung Quốc đang muốn độc chiếm để tạo ảnh hưởng. Chính
vì vậy, có thể nói Việt Nam là một quốc gia nằm ở “vùng lõi” trong
chính sách vùng đệm của Bắc Kinh.
Quan
hệ Việt - Trung đã trải qua rất nhiều biến cố, có lúc trầm, có lúc
thăng. Đối với Việt Nam, quan hệ với Trung Quốc được đặt ưu tiên hàng
đầu trong chính sách đối ngoại. Nhưng với Trung Quốc, quan hệ với Việt
Nam nằm ở hàng thứ yếu. Điều đó thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ
Việt - Trung.
Trung
Quốc, một mặt, trong chính sách vùng đệm của mình, muốn giữ Việt Nam ở
địa vị như một “chư hầu” cho vai trò “bá quyền” của mình. Chính vì vậy,
Trung Quốc đã tìm mọi cách để lôi kéo kết hợp đe doạ Việt Nam nằm trong
vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc với tham vọng thực
hiện giấc mộng “đế vương” của mình, luôn muốn chiếm đoạt biển Đông, nơi
Việt Nam có những quyền lợi thiết thân. Chính vì vậy, các yếu tố trên đã
đẩy mối quan hệ Việt - Trung vào những “nan đề” khó giải quyết.
Nhiều
học giả ca ngợi chính sách đối ngoại “cân bằng” của Việt Nam trong việc
xử lý vai trò của Mỹ và Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam. Tuy
nhiên, “sự cân bằng” này phản ánh sự không bền vững trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam.
Trong
Sách trắng Quốc phòng mới nhất được ban hành hồi tháng 11 năm ngoái,
Việt Nam tiếp tục nhắc lại Chính sách Ba Không. Trong đó nhấn mạnh vào
khả năng “tự lực tự cường” của Việt Nam khi đối mặt với các thách thức
an ninh. Về lý thuyết, đây là một chủ trương đúng. Nhưng thực tế, điều
này đòi hỏi Việt Nam phải có đủ tiềm lực tương xứng. Tuy nhiên, sự quản
trị của Việt Nam đang thực sự thể hiện nhiều vấn đề yếu kém. Bộ máy
chính trị thiếu động lực phát triển, chủ yếu là phe nhóm đấu đá, giành
giật quyền lực, khiến cho chính trị trong nước hỗn loạn, các tiềm năng
phát triển bị hạn chế.
Những
vấn đề chính trị nội bộ gần đây cho thấy sự bộc lộ các điểm yếu này.
Tranh cãi giữa VKSNDTC và TANDTC trong vụ Hồ Duy Hải, một mặt cho thấy
vụ căng thẳng này bắt đầu từ các cuộc đấu đá chính trị trước thềm Đại
hội Đảng lần thứ 13, nhưng mặt khác cũng bộc lộ thấy sự yếu kém của nền
tư pháp, vốn dĩ cần thiết với vai trò quan trọng để góp phần kiểm soát
sự lạm quyền từ các quan chức Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, những đe doạ
về an ninh quốc gia, bao gồm cả an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng
trước các cá nhân và doanh nghiệp từ Trung Quốc vẫn đang hiện hữu rõ
ràng. Sự kiện mới đây, Bộ Quốc Phòng Việt Nam nêu đích danh các cá nhân
và doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm doanh nghiệp và đất đai quốc phòng
là vấn đề đáng lưu tâm. Trong khi trước đó không lâu, khi các đại biểu
Quốc Hội chất vấn Chính phủ Việt Nam thì Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi
Trường cùng Bộ Công An khẳng định không có chuyện này.
Với
sự quản trị không rõ ràng về trách nhiệm và thiếu một cơ chế hữu hiệu
để kiểm soát quyền lực, Việt Nam đang là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng.
Trung Quốc vốn rất có kinh nghiệm trong việc sử dụng các “biện pháp
kinh tế cưỡng đoạt” cùng với các đe doạ về sử dụng sức mạnh để can thiệp
vào chính trường Việt Nam. Và điều này vẫn đang xảy ra hàng ngày. Chính
vì vậy, chủ trương đúng nhưng khó có thể thực hiện trong thực tế nếu
không có những mạnh dạn trong cải cách thể chế, đáp ứng những yêu cầu
trong bối cảnh mới.
Hoàng Trường Sa
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
(RFA)
Không có nhận xét nào