Hà
Nội đang cân nhắc một vụ kiện lên trọng tài quốc tế, chống lại Bắc
Kinh để giải quyết các yêu sách trên biển, đang tranh cãi gay gắt của
họ.
Việt Nam được cho là đang hướng tới việc đệ trình một
vụ kiện lên trọng tài quốc tế, chống lại các yêu sách mở rộng của
Trung Quốc trên Biển Đông, một phản ứng pháp lý tiềm năng đối với sự đe
dọa và quấy rối của Trung Quốc trong tuyến đường thủy đang gây tranh
cãi.
Các nhà phân tích theo dõi tình hình, tin rằng, Hà Nội có thể nộp đơn kiện như vậy, có thể tương tự như vụ kiện mà Philippines đã đệ trình và giành chiến thắng trước Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Thường trực The Hague hồi tháng 7/2016.
Quyết định đó đã ra phán quyết rằng, Trung Quốc “không có quyền lịch sử”, thuộc “đường chín đoạn”, mà Bắc Kinh sử dụng để tuyên bố chủ quyền đối với gần 90% vùng biển. Trung Quốc từ chối tham gia vào quá trình tố tụng và nói rằng, họ “làm ngơ” quyết định, trong đó thiếu một cơ chế thực thi.
Alexander Vuving, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K Inouye ở Honolulu, Hawaii, cho biết, kể từ năm ngoái, “đã có nhiều tiếng nói đáng kể hơn trong giới cầm quyền ở Hà Nội, kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa”.
Derek Grossman, một nhà phân tích quốc phòng cao cấp tại RAND Corporation, một nhóm chuyên gia cố vấn có trụ sở ở Washington, cho biết, ông không thông tin xác nhận rằng Hà Nội đang tiến tới một vụ kiện quốc tế, nhưng “tôi có nghe được từ các nguồn tin chính phủ rằng, đề xuất này đang được xem xét nghiêm túc”.
Một nguồn tin ngoại giao Việt Nam nói với Asia Times với điều kiện giấu tên, cho biết, các cuộc thảo luận tại Hà Nội về một vụ kiện quốc tế hiện đang căng thẳng hơn trước đây.
Tại một hội nghị thường niên về Biển Đông, do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức hồi tháng 11 năm ngoái, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã công khai nêu vấn đề về một vụ kiện quốc tế, lần đầu tiên sau gần năm năm, một quan chức cấp cao đã đề cập.
“Hiến chương Liên Hiệp quốc và UNCLOS 1982 có đủ cơ chế để chúng tôi áp dụng các biện pháp đó”, ông Trung nói vào thời điểm đó, đề cập đến Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), một quy ước quốc tế.
Việt Nam đã gia tăng động lực để đưa Trung Quốc ra tòa. Tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã dành phần lớn thời gian trong năm 2019 để quấy rối một liên doanh của Việt Nam với một công ty Nga đang khai thác năng lượng tại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ) trên Biển Đông.
Sự đe dọa đó tiếp tục trong năm nay, bất chấp khủng hoảng virus corona. Ngày 3/4, một tàu cá của Việt Nam đã bị một tàu tuần duyên Trung Quốc đâm chìm gần vùng biển tranh chấp trong quần đảo Hoàng Sa.
Sau đó, ngày 13/4, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc được triển khai để theo dõi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vài ngày sau, chính phủ Trung Quốc tuyên bố thành lập các khu vực hành chính mới ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một phần mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.
Việt Nam không chỉ là đối thủ duy nhất ở Biển Đông phải đối mặt với sự đe dọa gần đây của Trung Quốc. Tháng trước, các tàu Trung Quốc tuần tra ở các khu vực trên Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, gồm cả khu vực mà họ đang tiến hành thăm dò năng lượng.
Trong khi đưa vấn đề ra tòa án quốc tế có thể mang lại cho Hà Nội một chiến thắng mang tính biểu tượng nhất định, Bắc Kinh khó có thể tuân theo bất kỳ phán quyết tiềm năng nào có lợi cho Việt Nam. Và hành động này có thể leo thang căng thẳng gần với xung đột hơn, các nhà phân tích nói.
Nhưng có một cảm giác rằng, Việt Nam đang không còn nhiều lựa chọn. Bill Hayton, một chuyên gia về Biển Đông của viện nghiên cứu Chatham House, nói với Reuters hồi tháng 11 năm ngoái rằng, một vụ kiện quốc tế có lẽ là “điều duy nhất còn lại cho Việt Nam”.
Phát biểu với Asia Times, nhà phân tích Vuving có trụ sở tại Honolulu, cho rằng, “Hà Nội có thể nghĩ rằng, họ không còn lựa chọn nào khác [ngoại trừ] kiện Trung Quốc tại một tòa án quốc tế”.
Bất cứ khi nào Bắc Kinh phản đối các hành động của Hà Nội ở Biển Đông, chính phủ Việt Nam cơ bản có hai lựa chọn: Hoặc công khai chỉ trích Trung Quốc, hoặc cố gắng giải quyết căng thẳng thông qua các cuộc họp giữa hai đảng cộng sản với Bắc Kinh.
Khi Bắc Kinh công bố các trung tâm hành chính mới hồi tháng trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đưa ra một tuyên bố coi thường hành động này. “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam và hủy bỏ các quyết định sai trái của mình”, tuyên bố cho biết.
Tháng 8 năm ngoái, nhà phân tích Lê Hồng Hiệp của Việt Nam đã viết trên phương tiện truyền thông khu vực rằng, “chính sách ngoại giaodường như … là tuyến phòng thủ đầu tiên và cũng là cuối cùng [đối với Việt Nam] chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông”.
Một người lính Việt Nam đứng canh, nhìn ra Biển Đông. Ảnh: Facebook |
Các nhà phân tích theo dõi tình hình, tin rằng, Hà Nội có thể nộp đơn kiện như vậy, có thể tương tự như vụ kiện mà Philippines đã đệ trình và giành chiến thắng trước Trung Quốc tại Tòa án Trọng tài Thường trực The Hague hồi tháng 7/2016.
Quyết định đó đã ra phán quyết rằng, Trung Quốc “không có quyền lịch sử”, thuộc “đường chín đoạn”, mà Bắc Kinh sử dụng để tuyên bố chủ quyền đối với gần 90% vùng biển. Trung Quốc từ chối tham gia vào quá trình tố tụng và nói rằng, họ “làm ngơ” quyết định, trong đó thiếu một cơ chế thực thi.
Alexander Vuving, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương Daniel K Inouye ở Honolulu, Hawaii, cho biết, kể từ năm ngoái, “đã có nhiều tiếng nói đáng kể hơn trong giới cầm quyền ở Hà Nội, kêu gọi đưa Trung Quốc ra tòa”.
Derek Grossman, một nhà phân tích quốc phòng cao cấp tại RAND Corporation, một nhóm chuyên gia cố vấn có trụ sở ở Washington, cho biết, ông không thông tin xác nhận rằng Hà Nội đang tiến tới một vụ kiện quốc tế, nhưng “tôi có nghe được từ các nguồn tin chính phủ rằng, đề xuất này đang được xem xét nghiêm túc”.
Một nguồn tin ngoại giao Việt Nam nói với Asia Times với điều kiện giấu tên, cho biết, các cuộc thảo luận tại Hà Nội về một vụ kiện quốc tế hiện đang căng thẳng hơn trước đây.
Tại một hội nghị thường niên về Biển Đông, do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức hồi tháng 11 năm ngoái, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Hoài Trung đã công khai nêu vấn đề về một vụ kiện quốc tế, lần đầu tiên sau gần năm năm, một quan chức cấp cao đã đề cập.
“Hiến chương Liên Hiệp quốc và UNCLOS 1982 có đủ cơ chế để chúng tôi áp dụng các biện pháp đó”, ông Trung nói vào thời điểm đó, đề cập đến Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), một quy ước quốc tế.
Việt Nam đã gia tăng động lực để đưa Trung Quốc ra tòa. Tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã dành phần lớn thời gian trong năm 2019 để quấy rối một liên doanh của Việt Nam với một công ty Nga đang khai thác năng lượng tại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ) trên Biển Đông.
Sự đe dọa đó tiếp tục trong năm nay, bất chấp khủng hoảng virus corona. Ngày 3/4, một tàu cá của Việt Nam đã bị một tàu tuần duyên Trung Quốc đâm chìm gần vùng biển tranh chấp trong quần đảo Hoàng Sa.
Sau đó, ngày 13/4, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc được triển khai để theo dõi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Vài ngày sau, chính phủ Trung Quốc tuyên bố thành lập các khu vực hành chính mới ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một phần mà Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền.
Việt Nam không chỉ là đối thủ duy nhất ở Biển Đông phải đối mặt với sự đe dọa gần đây của Trung Quốc. Tháng trước, các tàu Trung Quốc tuần tra ở các khu vực trên Biển Đông nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, gồm cả khu vực mà họ đang tiến hành thăm dò năng lượng.
Trong khi đưa vấn đề ra tòa án quốc tế có thể mang lại cho Hà Nội một chiến thắng mang tính biểu tượng nhất định, Bắc Kinh khó có thể tuân theo bất kỳ phán quyết tiềm năng nào có lợi cho Việt Nam. Và hành động này có thể leo thang căng thẳng gần với xung đột hơn, các nhà phân tích nói.
Nhưng có một cảm giác rằng, Việt Nam đang không còn nhiều lựa chọn. Bill Hayton, một chuyên gia về Biển Đông của viện nghiên cứu Chatham House, nói với Reuters hồi tháng 11 năm ngoái rằng, một vụ kiện quốc tế có lẽ là “điều duy nhất còn lại cho Việt Nam”.
Phát biểu với Asia Times, nhà phân tích Vuving có trụ sở tại Honolulu, cho rằng, “Hà Nội có thể nghĩ rằng, họ không còn lựa chọn nào khác [ngoại trừ] kiện Trung Quốc tại một tòa án quốc tế”.
Bất cứ khi nào Bắc Kinh phản đối các hành động của Hà Nội ở Biển Đông, chính phủ Việt Nam cơ bản có hai lựa chọn: Hoặc công khai chỉ trích Trung Quốc, hoặc cố gắng giải quyết căng thẳng thông qua các cuộc họp giữa hai đảng cộng sản với Bắc Kinh.
Khi Bắc Kinh công bố các trung tâm hành chính mới hồi tháng trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đưa ra một tuyên bố coi thường hành động này. “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam và hủy bỏ các quyết định sai trái của mình”, tuyên bố cho biết.
Tháng 8 năm ngoái, nhà phân tích Lê Hồng Hiệp của Việt Nam đã viết trên phương tiện truyền thông khu vực rằng, “chính sách ngoại giaodường như … là tuyến phòng thủ đầu tiên và cũng là cuối cùng [đối với Việt Nam] chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông”.
Hình minh họa |
Thật vậy, nếu có lúc nào đó người dân Việt Nam có xu hướng tập hợp xung quanh Đảng Cộng sản cầm quyền và khi Bắc Kinh ở vào thời điểm yếu nhất và dễ bị tổn thương nhất, người ta cho rằng đó chính là lúc này.
Sự thất vọng trên toàn cầu với Trung Quốc, chủ yếu là do việc xử lý khủng hoảng virus corona và chiến dịch tung tin sai lệch sau đó, đã không được nói ra trong nhiều thập niên.
Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc, một nhóm chuyên gia cố vấn liên kết với Bộ An ninh Quốc gia, cơ quan tình báo hàng đầu của Trung Quốc, dường như đã tuyên bố trong một báo cáo gần đây rằng, tình cảm chống Trung Quốc toàn cầu đã ở mức cao nhất kể từ vụ đàn áp ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, theo đến một bài báo của Reuters, diễn giải báo cáo.
Đồng thời, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã bị suy yếu trong nước khi tăng trưởng kinh tế, mục tiêu chính danh của đảng cầm quyền lâu dài, dự kiến sẽ thu nhỏ lại vào năm 2020 lần đầu tiên sau bốn thập niên.
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản cầm quyền Việt Nam đã giành được sự khen ngợi trong và ngoài nước vì cách xử lý có đủ khả năng và minh bạch rõ ràng đối với cuộc khủng hoảng Covid-19. Việt Nam cũng có thể là một nước hưởng lợi lớn khi Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc gia châu Âu tìm cách “tách” nền kinh tế của họ và chuyển chuỗi cung ứng của họ ra khỏi Trung Quốc.
Việt Nam cũng có thể tận dụng vị thế quốc tế mạnh mẽ hiện tại của mình để đưa vụ kiện chống lại Trung Quốc.
Năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một vị thế mà nước này có thể sẽ cố gắng sử dụng để tạo ra một mặt trận thống nhất hơn giữa các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó nhiều đối thủ của họ chống lại Trung Quốc trên biển.
Việt Nam cũng giữ vị trí ủy viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc, giai đoạn 2021-2022, một vị trí cho phép Việt Nam nêu vấn đề về “sự gân hấn” của Trung Quốc đối với các thành viên Hội đồng Bảo an khác, Carl Thayer, giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales ở Úc, nói.
Ông lưu ý, nhưng vấn đề rõ ràng là: “Trung Quốc có quyền phủ quyết”. Theo ông Thayer, “Việt Nam mơ hồ về hành động pháp lý sẽ thực hiện và những vấn đề gì sẽ gây ra”.
Thay vì khiếu nại thông qua Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc, Hà Nội có thể theo đuổi “mô hình Philippines” bằng cách đưa ra yêu sách theo hiệp ước UNCLOS, xác định chủ quyền và phân định hàng hải.
Nếu đi theo con đường đó, Hà Nội sẽ cần phải quyết định xem có nộp hồ sơ tại Tòa án Quốc tế về Luật biển, Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án Trọng tài hay Tòa án Trọng tài Đặc biệt hay không.
“Tất cả các quốc gia thành viên của UNCLOS đều được tự do đề cử cơ chế nào trong bốn cơ chế mà họ thích. Nếu một quốc gia chưa làm như vậy, thì vị trí mặc định là Tòa án Trọng tài. Đây là những gì xảy ra với Philippines và Trung Quốc”, ông Thayer giải thích.
Nếu phán quyết của Tòa án Trọng tài ủng hộ Việt Nam, đòi hỏi Hà Nội phải chứng minh một số vấn đề gây tranh cãi về các yêu sách lịch sử của riêng họ, thì “Việt Nam sẽ có được nhờ sự công khai mà nước này nhận được và áp lực chính trị mà Việt Nam sẽ đặt lên Trung Quốc”, ông Thayer nói.
Nó cũng sẽ cho Việt Nam “căn cứ để chống lại các hành động của Trung Quốc và sẽ tạo cơ sở cho cộng đồng quốc tế ủng hộ Việt Nam“, nhưng “rất ít điều Việt Nam có thể làm được” nếu Trung Quốc không đếm xỉa tới phán quyết, như đã làm với Philippines, ông Thayer nói.
Thật vậy, có những rủi ro khi đưa Trung Quốc ra tòa. Trong bài viết hồi tháng 8 năm ngoái, nhà phân tích Lê Hồng Hiệp lưu ý rằng, các quan chức cấp cao của Việt Nam cảnh giác khi đưa Trung Quốc tòa trọng tài “ngay cả khi Việt Nam thắng kiện, vẫn sẽ không ngăn được Trung Quốc xâm lấn vào vùng biển của đất nước trong tương lai”.
Ông nói thêm, “thậm chí còn tệ hơn, điều đó có thể làm cho Trung Quốc hung hăng hơn và gây bất ổn hơn nữa trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, điều này có thể đe dọa đến triển vọng kinh tế của Việt Nam và đưa đất nước vào vị thế chiến lược bấp bênh”.
Nhà phân tích Grossman của RAND Corporation khẳng định năm ngoái rằng, nếu Trung Quốc tìm kiếm xung đột, Việt Nam sẽ “sự khởi động ưa thích của quân đội Trung Quốc, vì nó sẽ cung cấp sự trải nghiệm chiến đấu rất cần thiết cho quân đội trong các lĩnh vực không quân và hải quân, mà không có sự đe dọa can thiệp của Mỹ và trong một tình huống có thể chiến thắng”.
Vẫn không rõ liệu Việt Nam có đang bị áp lực bởi các đồng minh quốc tế, cụ thể là Hoa Kỳ, để đưa ra một vụ kiện trọng tài chống lại Trung Quốc với hy vọng thiết lập một tiền lệ pháp lý thứ hai chống lại yêu sách trên biển của Bắc Kinh. Các nhà phân tích lập luận, một phán quyết như vậy, sẽ cung cấp cho Mỹ nhiều đạn dược hơn để tăng cường tự do hoạt động hàng hải trên Biển Đông.
Điều “quan trọng là làm nổi bật cách mà Đảng Cộng sản Trung Quốc khai thác thế giới, tập trung vào cuộc khủng hoảng Covid-19 bằng cách tiếp tục hành vi khiêu khích của họ”, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo nói với các bộ trưởng ngoại giao Đông Nam Á trong một cuộc họp video hồi tháng trước.
Pompeo nói, “Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ sự bắt nạt của Trung Quốc; chúng tôi hy vọng các quốc gia khác cũng sẽ bắt họ phải chịu trách nhiệm”.
Bằng nhiều cách, Việt Nam đang ở trong tình huống Catch-22 (ND: Là một tình huống nghịch lý mà VN không thể thoát ra do các quy tắc hoặc giới hạn mâu thuẫn). Những nỗ lực ngoại giao và phản kháng công khai của Việt Nam đã thất bại trong việc ngăn chặn Trung Quốc, khi các chiến thuật đe dọa gần đây đã được đẩy mạnh.
Nhưng quốc tế hóa sự căng thẳng của họ có thể đẩy Việt Nam và Trung Quốc – và mở rộng ra là Mỹ với Trung Quốc – gần với điểm xung đột vũ trang, mà Hà Nội có thể biết rằng, họ không có cơ hội chiến thắng nếu không có sự hậu thuẫn lớn từ nước ngoài.
David Hutt
Không có nhận xét nào