Tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung
Quốc hoành hành trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam từ đầu
tháng 07 đến nay, sau khoảng một tuần gián đoạn (07-13/08/2019. Ngày
24/08, tầu Hải Dương Địa Chất 8 còn ngang nhiên tiến sâu vào vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách bờ biển Phan Thiết khoảng 185 km. -
Tạp chí phát lần đầu ngày 27/08/2019.
Sau
thời gian đầu im lặng, Việt Nam phản đối ngày càng kịch liệt và huy
động lực lượng hải cảnh bám sát hoạt động của đội tầu Trung Quốc. Về mặt
ngoại giao, Việt Nam tìm cách vận động công luận quốc tế thông qua
những tuyên bố quan ngại tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông đang bị đe
dọa.
Trung
Quốc có ý đồ gì khi đưa tàu khảo sát quay lại vùng biển Việt Nam ? Việt
Nam có khả năng chống trả như thế nào ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn giáo
sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương
(Asia-Pacific Center for Security Studies, APCSS), Hawai.
RFI :
Tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc đã hai lần thâm nhập khu vực
bãi Tư Chính, thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và hiện vẫn
đang hoạt động trong khu vực này. Trung Quốc có ý đồ gì với sự kiện gây
hấn mới nhất này ?
GS. Alexander Vuving :
Tôi nghĩ ý đồ lớn nhất của Trung Quốc là họ muốn tiếp tục hiện thực hóa
yêu sách “đường lưỡi bò” của họ ở Biển Đông. Yêu sách đó đương nhiên là
bị Tòa Trọng Tài Quốc Tế bác bỏ năm 2016. Nhưng Trung Quốc thấy rằng họ
gần như muốn làm gì cũng được nên họ tiếp tục hiện thực hóa. Tôi nghĩ
là những hành động vi phạm hiện nay của Trung Quốc cũng có ý đồ thiết
lập một hiện thực mới ở khu vực Biển Đông. Điều này thể hiện cán cân sức
mạnh nghiêng về Trung Quốc.
Thứ
hai là họ cũng muốn gây áp lực để Việt Nam và các nước ASEAN phải chấp
nhận lập trường của họ về bản Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC). Như
chúng ta biết là Trung Quốc và các nước ASEAN vẫn đang thương thảo về
bản Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Và mới đây, năm 2018, bộ trưởng Ngoại
Giao Trung Quốc đưa ra đề nghị là phải ký kết bản quy tắc này trong vòng
3 năm tới, có nghĩa là đến năm 2021. Thời gian đó chính là thời gian mà
Trung Quốc, có thể nói là “vừa đánh vừa đàm”, đặc biệt là sẽ gây áp lực
rất mạnh trên thực địa để buộc các nước chấp nhận lập trường của Trung
Quốc.
Điều
thứ ba mà theo tôi nghĩ, đó cũng là một hình thức Trung Quốc muốn gây
áp lực với Việt Nam để Việt Nam lo ngại và không dám nâng cao mối quan
hệ với Mỹ lên mức “đối tác chiến lược”, hiện mới chỉ là “đối tác toàn
diện”. Có dự định là Việt Nam và Mỹ sẽ nâng quan hệ lên thành “đối tác
chiến lược” khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ vào cuối năm
nay (2019).
Những
hành động này của Trung Quốc cũng có ý là làm cho lãnh đạo Việt Nam
phải cân nhắc lại, suy nghĩ lại, xem là có nên tiếp tục như thế nữa
không.
Trường
hợp bãi Scarborough của Philippines bị Trung Quốc chiếm năm 2012 và
trường hợp bãi Tư Chính hiện nay của Việt Nam có gì giống và khác nhau ?
Philippines có Mỹ là đồng minh vào thời điểm đó, mà vẫn bị mất.
Trường
hợp mà hiện nay chúng ta gọi là “bãi Tư Chính”, trên thực tế là không
có gì xảy ra ở bãi Tư Chính cả. Hiện nay, cuộc đụng độ giữa Việt Nam và
Trung Quốc xảy ra ở hai nơi : một là khu vực Block 06-01, nằm ở phía cao
hơn Tư Chính rất là nhiều ; khu vực thứ hai là phía gần đảo Đá Tây của
Việt Nam, nơi mà tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc đang khảo sát,
cũng không dính líu gì đến bãi Tư Chính. Chỉ có điều là ta cứ tạm gọi
như thế. Trước hết, phải nói rõ như thế !
Còn
khu vực mà mọi người hay gọi là bãi Tư Chính, trên thực tế là có rất
nhiều bãi ngầm, trong đó bãi Tư Chính nằm ở phía cực nam, ngoài ra còn
có nhiều bãi khác như Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, bãi Huyền Trân…
Tất cả những bãi này đều nằm chìm dưới mặt biển, từ khoảng 6-7 mét cho
đến hơn 20 mét.
Bãi
này khác với Scarborough của Philippines có những mỏm đá nhoi lên và
thậm chí là có những lúc có một hồ bên trong. Đối với bãi Scarborough,
sự chiếm đoạt cũng tương đối dễ dàng hơn rất nhiều so với những bãi, gọi
là bãi nhưng thực ra hoàn toàn chìm dưới biển. Nếu muốn chiếm những bãi
đó, cũng rất là khó.
Trên
thực tế hiện nay, Việt Nam đã xây dựng mười mấy nhà giàn ở khu vực như
bãi Tư Chính, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, Huyền Trân và về phía xa
hơn là ngoài bãi Ba Kè. Bây giờ Trung Quốc muốn chiếm những khu vực
này, có lẽ cũng phải mang cấu trúc tương tự như nhà giàn của Việt Nam
đến và lắp đặt vào đấy. Những công việc này cũng không phải là đơn giản.
Điểm
khác biệt thứ hai trong trường hợp Scarborough và “trường hợp tạm gọi
là Tư Chính”, vấn đề chủ quyền Scarborough vẫn có sự tranh chấp. Đứng về
phía trung lập của quốc tế, người ta không rõ ai có chủ quyền. Vào thời
điểm năm 2012, chưa có phán quyết của Tòa Trọng Tài vào năm 2016 cho
nên bên ngoài vẫn chưa rõ là khu vực này như thế nào.
Nhưng
hiện nay, chúng ta đã có phán quyết của Tòa Trọng Tài năm 2016, và vấn
đề vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được xác định rất rõ ràng, bởi vì Tòa
Trọng Tài nói rằng là không một thực thể nào trong quần đảo Trường Sa có
được vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Từ đó suy ra là vùng biển hiện
nay, nơi đang có đụng độ giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà tạm gọi là bãi
Tư Chính, là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt
Nam. Và về mặt luật pháp quốc tế, không thể gọi là vùng tranh chấp được.
Đối
với những nước thứ ba bên ngoài trung lập, chấp nhận chiểu theo luật
pháp quốc tế, họ sẽ phải thừa nhận rằng những vùng này là hoàn toàn nằm
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc không có lý do gì
để đòi hỏi chủ quyền bởi vì “đường lưỡi bò” - yêu sách của Trung Quốc -
đã bị bác bỏ bởi Tòa Trọng Tài năm 2016.
Một
điểm khác biệt nữa là Philippines có Mỹ là đồng minh, còn Việt Nam
không có nước nào là đồng minh cả. Thế nhưng, thời điểm đó, tuy rằng Mỹ
là đồng minh của Philippines nhưng chính quyền Obama lại quá ngây thơ về
ý đồ và hành vi của Trung Quốc. Do đó, thay vì đứng về phía Philippines
để bảo vệ đồng minh, họ lại đóng vai trò trung gian hòa giải. Điều đó
dồn Philippines, là một nước nhỏ, vào thế yếu hơn nữa và cuối cùng dẫn
đến việc Philippines bị mất bãi Scarborough vào tay Trung Quốc.
Vậy
Việt Nam có nên tin vào hứa hẹn ủng hộ, giúp đỡ của Mỹ không ? Trong
khi chính quyền tổng thống Trump hiện nay bắt đầu phàn nàn về nhập siêu
trong lĩnh vực thương mại từ Việt Nam.
Tôi
nghĩ chính quyền Trump hiện nay không đến nỗi ngây thơ về những ý đồ và
hành vi của Trung Quốc như chính quyền Obama. Họ đã lên tiếng, nói rõ
rằng họ chống lại việc Trung Quốc bắt nạt Việt Nam ở vùng biển của mình.
Và về vấn đề pháp lý, họ thấy rõ rằng vùng đó là thuộc về chủ quyền của
Việt Nam.
Chỉ
có điều là Mỹ không có quan hệ đồng minh, cũng chẳng có quan hệ hợp tác
quân sự chặt chẽ với Việt Nam, như đối với Philippines. Cho nên tôi
không nghĩ là Mỹ có hứa hẹn ủng hộ gì Việt Nam hay không ngoài việc
tuyên bố. Nhưng việc nâng cấp quan hệ lên “đối tác chiến lược” là việc
lâu dài, không nên bị ảnh hưởng bởi chính quyền hiện nay là thế nào.
Bản
thân Việt Nam cũng nhận thức được thực tế là họ phải cân bằng mối quan
hệ với các nước khi mà họ đã có một mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện” với Trung Quốc. Đương nhiên là họ phải có một mối quan
hệ đối tác chiến lược khá toàn diện với Mỹ để cân bằng. Nhưng hiện nay,
quan hệ với Mỹ lại bị đặt ở cấp thấp, chỉ là “quan hệ toàn diện”. Rõ
ràng là có độ vênh mà Việt Nam sẽ cần phải lấp vào.
Việt
Nam có những tiềm lực gì về ngoại giao, quân sự để phản đối và đối phó
những hoạt động trên, cũng như chiến lược thâu tóm Biển Đông của Trung
Quốc ?
Với
những mối quan hệ ngoại giao và khả năng quân sự của Việt Nam hiện tại,
thì hoàn toàn cán cân sức mạnh, kể cả ngoại giao lẫn quân sự, đều
nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Lực lượng của Việt Nam chưa đủ mạnh để
có thể thực sự cản phá được những hoạt động của Trung Quốc. Việt Nam, kể
cả về ngoại giao lẫn quân sự, đều thiếu khả năng răn đe Trung Quốc. Có
thể nói thẳng là như vậy !
Cho
nên những gì Việt Nam cố gắng làm ở Biển Đông chỉ là giữ những gì mình
đang làm, chẳng hạn những giàn khoan dầu, đã khoan rồi thì tiếp tục giữ.
Còn bây giờ, đặt thêm giàn khoan mới cũng không phải dễ dàng. Chúng ta
đã biết trong hai năm vừa qua, 2017 và 2018, Việt Nam cũng muốn đưa một
số giàn khoan ra để khoan thăm dò, cuối cùng là phải rút về, thậm chí là
phải hủy. Lần này đưa ra thì tiếp tục giữ được, nhưng khi tầu Trung
Quốc xuống và khảo sát cả một vùng biển lớn như đồng bằng sông Cửu Long
của Việt Nam thì Việt Nam cũng không ngăn chặn được.
Hy
vọng là những sự kiện như này sẽ có tác dụng như những cú hích, giống
thời kỳ giàn khoan năm 2014, để Việt Nam thực sự đầu tư, phát triển,
tăng cường khả năng chống tiếp cận và cản phá sự lấn lướt của Trung Quốc
trên thực địa, cũng như là mở rộng quan hệ ngoại giao.
Nhìn
về vấn đề ngoại giao, thì thấy rằng tiềm năng là đủ để Việt Nam có thể
cản phá được Trung Quốc vì các nước lớn trong khu vực như Mỹ, Nhật Bản,
Ấn Độ đều có chung lợi ích chiến lược là không để cho Trung Quốc độc
chiếm Biển Đông. Vấn đề là những tiềm năng này vẫn chưa được khai phá
một cách tương ứng với áp lực và cách thức từ phía Trung Quốc.
Vậy
phải chăng ưu tiên hiện nay là cần tập trung tố cáo Trung Quốc không
tôn trọng luật pháp quốc tế, qua đó mới lôi kéo được các nước, như giáo
sư vừa nêu, tham gia tích cực hơn để ngăn chặn tham vọng của Trung Quốc ?
Vâng.
Tôi nghĩ là trước mắt, Việt Nam vẫn chưa làm đủ mạnh bằng năm 2014. Năm
2014, Việt Nam đưa nhà báo quốc tế ra tận thực địa để quay phim, chụp
ảnh, để đưa những bằng chứng về sự ăn hiếp của Trung Quốc ra quốc tế. Và
chính điều đó, theo tôi, có tác dụng không nhỏ đến việc buộc Trung Quốc
rút giàn khoan sau hai tháng rưỡi.
Bây
giờ, rõ ràng là về mặt luật pháp quốc tế, Trung Quốc hoàn toàn sai,
Việt Nam là đúng. Tại sao lại không đưa nhà báo quốc tế ra tận nơi ? Tại
sao không công bố những hành động của Trung Quốc ở ngoài biển để làm
“mất mặt” Trung Quốc trên trường quốc tế ? Tôi thấy rằng những hành động
hiện nay của Việt Nam chưa đủ để Trung Quốc buộc phải trả giá.
Chưa
nói đến chuyện tăng cường mối quan hệ với những nước lớn (như Mỹ, Nhật
Bản, Ấn Độ) có thể giúp được Việt Nam và gây áp lực đối với Trung Quốc.
Đây là vấn đề không thể giải quyết được ngay bây giờ, nhưng phải làm và
đẩy mạnh lên để khi cần thì vận động được các nước đó có hành động giúp
mình, chẳng hạn như một chương trình đưa tầu cảnh sát biển của một số
nước vào giúp Việt Nam thực thi quyền chủ quyền của mình trong khu vực
EEZ của Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Đã
có rất nhiều tiền lệ trên thế giới.
Nhưng
để làm điều đó thì phải bắt đầu, vào một thời điểm nào đó, nhưng tôi
chưa thấy Việt Nam bắt đầu những công việc như này. Có thể nói là tiềm
năng thì có rất nhiều nhưng chưa được khai thác đầy đủ.
Vào
đầu tháng 8/2019, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu bàn về hợp tác quốc
phòng, hướng tới một thỏa thuận khung nhân chuyến thăm Hà Nội của lãnh
đạo ngành ngoại giao châu Âu Mogherini. Gần đây, hai tướng Không quân Mỹ
sang thăm Việt Nam, ủng hộ quyền tự vệ và phòng vệ chính đáng của Việt
Nam. Phải chăng Việt Nam công khai mở rộng hợp tác quân sự, mà mục tiêu
trước mắt là đối phó với sức mạnh của Trung Quốc ?
Thực
ra Việt Nam đã đi nhiều bước để mở rộng hợp tác quân sự với nhiều nước,
gồm cả Nga, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Pháp từ nhiều năm nay. Việc này
nằm trong sách lược mà Việt Nam gọi là “giữ nước từ xa”, tức là một cách
để cân bằng các mối đe dọa, đồng thời san sẻ rủi ro, tránh bị phụ thuộc
vào một đối tác nhất định.
Chỉ
có điều những bước đi đó vẫn còn rất rụt rè, những bước đi vẫn còn rất
ngắn, chưa đủ để tạo những hợp tác sâu và mạnh đến mức độ có thể thực sự
nâng cao được khả năng của Việt Nam, cũng như là tạo được sức mạnh răn
đe đối với Trung Quốc.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving.
(RFI)
Không có nhận xét nào