Từ đầu năm 2020, Trung Quốc vẫn thúc
đẩy đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông với các nước láng giềng
Đông Nam Á, được kỳ vọng là sẽ hoàn thiện trong năm nhiệm kỳ Việt Nam
làm chủ tịch luân phiên của ASEAN. Nhưng trên thực địa, Bắc Kinh liên
tiếp mở rộng yêu sách chủ quyền, tăng cường hiện diện ở những vùng biển
đang có tranh chấp.
Tầu chở trực thăng HMAS Parramatta của Hải Quân Úc tập trận với tầu đổ bộ Mỹ USS America, khu trục hạm có tên lửa dẫn đường USS Barry và tầu USS Bunker Hill, tại Biển Đông, ngày 18/04/2020. |
Những
sự kiện trên, cùng với những chỉ trích, cáo buộc gay gắt lẫn nhau liên
quan đến dịch Covid-19, khiến quan hệ song phương Mỹ-Trung thêm căng
thẳng trên mọi phương diện. Quân đội Mỹ huy động đội tầu tuần tra bảo vệ
tự do hàng hải, trong đó có Biển Đông, điều đội oanh tạc cơ B-1B trở
lại Guam để hỗ trợ lực lượng tại chỗ của Mỹ cũng như các đồng minh và
đối tác trong khu vực Thái Bình Dương. Theo trang South China Morning
Post ngày 19/05, Hoa Kỳ đã gia tăng hoạt động quân sự trên không và trên
biển « sát cửa » Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2020 nhiều gấp ba lần
so với nguyên một năm 2019.
Có
đúng là Trung Quốc đang lợi dụng dịch Covid-19 để thâu tóm Biển Đông ?
Việt Nam đối phó thế nào trước những căng thẳng Mỹ-Trung trong khu vực ?
RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé,
Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
RFI :
Phải chăng Biển Đông đang trở thành khu vực thể hiện sức mạnh và đối
đầu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ? Những căng này có thể đi đến đâu ?
Benoît de Tréglodé :
Năm 2020, chúng ta sống trong giai đoạn rất đặc biệt. Đại dịch Covid-19
đã làm thổi bùng căng thẳng trong quan hệ song phương giữa Trung Quốc
và Hoa Kỳ vì lý do dịch tễ. Nhưng những vấn đề đối nội nảy sinh trong
đợt dịch Covid-19 cũng phần nào đó tác động đến cách hoạt động trên
trường quốc tế của hai nước.
Những
yếu tố trên rất quan trọng để hiểu được những lý do đằng sau một « cuộc
chiến thông tin » trong đó các bên Trung Quốc, Việt Nam, Hoa Kỳ hoặc
phương Tây nói chung, bảo vệ một đường lối, một lịch trình mang tính
chất quốc gia của mình, cũng như để có được một cái nhìn chung về diễn
biến của bối cảnh chiến lược trên thực địa. Sự căng thẳng trong quan hệ
song phương giữa Washington và Bắc Kinh là yếu tố chủ đạo để hiểu những
sự kiện đang diễn ra ở Biển Đông.
Yếu
tố thứ hai mà tôi cho là đóng vai trò trọng tâm để hiểu được mối quan
hệ căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ, đó là phải ngược trở lại bản báo
cáo chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương được bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ trình
bày vào tháng 06/2019 nhân Đối thoại Shangri-La ở Singapore. Trong báo
cáo gồm ba chủ đề chính này, Hoa Kỳ mô tả mạng lưới ngoại giao và những
đối tác của họ ở châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á. Chủ đề
trọng tâm thứ ba được nêu trong báo cáo, đó là coi Trung Quốc là mối đe
dọa lớn nhất cho an ninh trong khu vực. Sự việc đã rất rõ ràng ngay từ
thời điểm đó và đây cũng chính là điểm, về lý thuyết, định hình khuôn
khổ chính sách hiện nay của Mỹ ở Đông Nam Á.
Trên đây là hai yếu tố bối cảnh quan trọng để hiểu được những gì đang diễn ra trên thực địa. Vậy chuyện gì đang diễn ra ?
Đúng
là có nhiều nhà bình luận, từ vài tuần nay, nhắc đến việc Trung Quốc
tái thúc đẩy những hành vi khiêu khích trong bối cảnh khủng hoảng dịch
tễ quy mô toàn cầu và Bắc Kinh tranh thủ thời cơ để đẩy các quân cờ trên
thực địa, trong đó phải kể đến ba sự kiện. Thứ nhất là vụ tầu cá Việt
Nam bị đâm chìm vào đầu tháng 04/2020 ở quần đảo Hoàng Sa. Tiếp theo là
việc « thành phố Tam Sa » của Trung Quốc lập hai quận mới : Tây Sa
(Xisha) ở Hoàng Sa và Nam Sa (Nansha) ở Trường Sa. Và sự kiện thứ ba là
việc tầu khảo sát Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 gần đây tiếp tục hoạt
động trong lãnh hải của Malaysia.
Ba
sự kiện trên, theo tôi, cần phải đặt chúng vào bối cảnh tổng thể hơn về
quan hệ quốc tế, đặc biệt là sự cạnh tranh Mỹ-Trung. Cả ba yếu tố này
không hẳn là đặc biệt trong năm 2020 này bởi chúng đều phụ thuộc vào
tính chất liên tục trong chính sách hàng hải của Trung Quốc trong khu
vực đã có từ khá lâu. Lấy ví dụ vụ tầu cá của ngư dân Việt Nam bị đâm
chìm vào đầu tháng 04/2020, phải đặt biến cố này vào bối cảnh có từ lâu,
cụ thể là từ năm 2014 khi xảy ra khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981.
RFI : Dù sao cũng có thể thấy là kiểu xung đột này xảy ra thường xuyên hơn từ đầu năm 2020. Vậy nguyên nhân là gì ?
Benoît de Tréglodé : Kiểu đối đầu, kiểu xung đột này thường xuyên xảy ra và có thể được giải thích với hai yếu tố.
Thứ
nhất, phải nhắc lại rằng từ khoảng 10 năm gần đây, cả Trung Quốc và
Việt Nam đều tăng cường đội dân quân biển. Năm 2009, Việt Nam đã áp dụng
Luật Dân quân tự vệ biển - lực lượng phòng vệ hàng hải và loại tầu dành
cho nhiệm vụ này cũng xuất hiện từ thời điểm đó. Theo tôi nhớ vào năm
2010, chủ tịch nước Việt Nam lúc đó đã khuyến khích lực lượng dân quân
biển cùng với các hiệp hội nghề cá đến các khu vực có tranh chấp với
Trung Quốc để tăng cường sự hiện diện của Việt Nam. Điều này rất quan
trọng để hiểu được tình hình tại chỗ. Phía Trung Quốc cũng làm tương tự,
vì thế thường xuyên xảy ra các vụ tranh chấp, đôi khi rất dữ dội, giữa
ngư dân, dân quân biển và hải cảnh trong các vùng biển có tranh chấp
giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Yếu
tố thứ hai là việc lập ra hai « quận » mới trực thuộc « thành phố Tam
Sa », bao gồm cả không gian biển khu vực quần đảo Trường Sa. Trở lại bối
cảnh lịch sử gần đây, chúng ta thấy truyền thông từng nói nhiều về việc
Trung Quốc thành lập « thành phố Tam Sa » vào năm 2012. Đây là cách đáp
trả của Bắc Kinh về việc Quốc Hội Việt Nam, vào tháng 06/2012, đã thông
qua Luật Biển bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Kể từ đó,
Trung Quốc đòi chủ quyền về hành chính. Và yêu sách đó được cụ thể hóa
bằng việc thành lập hai « quận » Tây Sa và Nam Sa mà thực ra, nằm trong
kế hoạch « thành phố Tam Sa » đã có từ trước đó. Một điểm quan trọng
đáng lưu ý khác, đó là « thành phố Tam Sa » khi được Trung Quốc thành
lập năm 2012, bất chấp đòi hỏi chủ quyền của các đối tác và các nước
láng giềng, mà đứng đầu là Việt Nam, chỉ có khoảng 400 dân cư, nhưng giờ
có đến 1.800 người, chủ yếu sống ở khu vực bắc Hoàng Sa.
Đúng
là chúng ta thấy rõ các chính sách như gia tăng dân số, xây dựng cơ sở
hạ tầng… nhưng nên nhớ rằng chính sách đó chưa hẳn là nhân cơ hội tình
hình dịch bệnh năm nay mà thực ra, là chiến lược lâu dài, mang tính chất
liên tục của Trung Quốc từ những năm 2010. Tương tự như việc tầu Hải
Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc thâm nhập vào vùng biển của Malaysia
cũng giống như sự kiện đã xảy ra với Việt Nam.
Vì
vậy, tôi không thấy có sự gia tăng vô cùng quan trọng nào trong giai
đoạn khủng hoảng Covid-19, mà thực ra, đó là sự tiếp tục trong chính
sách đã có từ khá lâu của Trung Quốc.
RFI
: Dường như Trung Quốc biết cách tận dụng chính sách « Bốn Không » của
Việt Nam để gia tăng hoạt động ngày càng hung hăng hơn ?
Benoît
de Tréglodé : Chính sách « Bốn Không » trước là chính sách « Ba Không »
của Việt Nam : Không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với
nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự
hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác. Chính sách này
được sửa đổi vào tháng 11/2019 trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam với
điểm « Không » thứ tư, đó là « không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực
trong quan hệ quốc tế », trong đó có việc không dùng vũ lực để giải
quyết tranh chấp lãnh hải trong khu vực.
Nội
dung vẫn khá mang tính truyền thống, đó là việc đưa ra những tuyên bố
phòng thủ để có thể bảo vệ những quyền lợi chủ quyền đang bị đe dọa vì
những lấn lướt trên thực địa trong chính sách hàng hải của Trung Quốc mà
chúng ta đã nêu ở trên.
Về
vấn đề này, nên đề cập một điểm, mang tính rất thời sự : Hà Nội đang
nêu ra khả năng đe dọa đối tác Trung Quốc và báo với cộng đồng quốc tế
rằng Việt Nam sẵn sàng làm như Philippines từng làm, có nghĩa là viện
đến công lý quốc tế để có thể làm nổi rõ những tranh chấp chủ quyền lãnh
hải giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vấn đề đặt ra là vào năm 2014, chính
quyền Việt Nam từng cho thấy dấu hiệu là có thể kiện nhưng từ đó vẫn
không có chuyện gì thực sự xảy ra.
Một
lần nữa, chúng ta cần chú ý rằng mọi chuyện rất phức tạp. Những mối
liên hệ chính trị, kinh tế, quân sự giữa các nước láng giềng và các quốc
gia khác trong khu vực không cho phép các nước xây dựng một hướng đi
chung.
RFI
: Việt Nam có thể thu được lợi ích gì từ việc Hoa Kỳ hiện diện thường
xuyên hơn và mạnh hơn trong khu vực, đặc biệt là vào năm đánh dấu 25 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao song phương Việt-Mỹ ?
Benoît
de Tréglodé : Các kỷ niệm thiết lập quan hệ ngoại không giải thích hết
về quan hệ quốc tế. Đúng là Việt Nam sẽ kỷ niệm một phần tư thế kỷ tái
lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Đó là sự kiện quan trọng đánh dấu
thời kỳ mở cửa của đất nước từ năm 1975. Nhưng cũng đừng quên là 2020
cũng đánh dấu 70 năm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Tiếp
theo, cần phải xem xét thực tế hiện diện của Mỹ từ khi dịch Covid-19
bùng phát ở Đông Nam Á và những hoạt động của Trung Quốc trên thực địa.
Chúng ta thấy là ngay từ tháng 03/2020 đã có nhiều cuộc họp giữa bộ
trưởng Y Tế các nước ASEAN với sự hiện diện của bộ trưởng Y Tế Trung
Quốc. Phía Hoa Kỳ cũng tổ chức họp trực tuyến với các đồng nhiệm ASEAN,
nhưng không hiện diện thực sự trên thực địa.
Về
mặt quân sự, nếu nhìn vào số lượng chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải cho
phép hải quân Mỹ được điều tầu đến bảo đảm tự do hàng hải ở vùng biển
quốc tế, thì rõ ràng là số lượng các chuyến hải tuần như vậy đã tăng
nhiều.
Nhưng
nếu nhìn vào mối quan hệ song phương thực sự diễn ra như thế nào giữa
các nước, có thể thấy là rất nhiều quốc gia Đông Nam Á bảo vệ một nguyên
tắc chủ đạo đối với khu vực : Đó là họ không muốn Washington buộc họ
phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung Quốc. Và đây cũng là một trong những
nguyên tắc ngoại giao của rất nhiều nước trong vùng và đang được tái
khẳng định.
Chính
sách của tổng thống Donald Trump đưa đến tham vọng là thuyết phục các
đối tác Đông Nam Á của Mỹ chọn một phe. Nhưng đây lại một nguyên tắc
không khả thi đối với rất nhiều nước trong khu vực.
RFI : Những tác động về kinh tế từ dịch Covid-19 ảnh hưởng như nào đến hoạt động của Mỹ ở vùng Biển Đông ?
Benoît
de Tréglodé : Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung từ một năm nay đã tạo
điều kiện thuận lợi rõ ràng cho nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam cũng
không bị thiệt hại nặng nề về kinh tế do dịch Covid-19.
Một
điều thú vị cần nêu lên, đó là cách đây khoảng 10 ngày, tổng thống Mỹ
chính thức thông báo rằng do cách Trung Quốc xử lý dịch Covid-19, 27
công ty đã rời Trung Quốc chuyển sang hoạt động ở Đông Nam Á, nhưng lại
không phải ở Việt Nam mà là ở Indonesia. Chúng ta thấy là mọi chuyện có
vẻ tế nhị hơn và Việt Nam không phải là bên chiến thắng duy nhất trong
cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.
Phải
hiểu việc Hoa Kỳ nhắm vào một quốc gia khác, mà không phải Việt Nam
trong bối cảnh này như thế nào ? Một số nhà phân tích cho tổng thống Mỹ
hẳn vẫn còn nghi ngờ về khả năng Việt Nam thoát hẳn khỏi tầm ảnh hưởng
của Trung Quốc vì lý do kinh tế, chính trị, kể cả lý do lịch sử lâu đời.
Vào
thời điểm có thể dẫn đến chiến tranh lạnh với sự chia rẽ giữa các nước
chống hoặc ủng hộ chính sách của Trung Quốc và vào lúc mà mọi việc trở
nên tế nhị hơn với một số nước vừa phản đối những hành vi xâm lấn của
Bắc Kinh ở Biển Đông, nhưng vẫn cần đến sự ủng hộ về kinh tế và chính
trị, tôi cho rằng khu vực Đông Nam Á vẫn muốn giữ cân bằng giữa các
cường quốc.
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de
Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
(RFI)
Không có nhận xét nào