Những động thái quyết liệt gần đây
của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời điểm cả thế giới đang tập trung
chống dịch Covid-19 đang tác động xấu lên mối quan hệ chiến lược vốn
còn “rất ít niềm tin” giữa Việt Nam và Trung Quốc, một chuyên gia nghiên
cứu nhận định với VOA, đồng thời dự báo rằng hành động “không hòa bình”
có thể sẽ xảy ra trong một vài tuần tới nếu Bắc Kinh tiếp tục gây hấn.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc (trái) và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường. |
Thông tin trái ngược
Mới
nhất hôm 3/4, sau khi công bố thông tin về sự kiện Trung Quốc trao trả 8
ngư dân Việt Nam sau khi đâm chìm tàu cá của họ ở khu vực gần quần đảo
Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết “đã giao thiệp với đại diện
Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung
Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu Hải
cảnh” đã gây ra sự việc trên, và “không để tái diễn những hành động
tương tự, đồng thời bồi thường thỏa đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt
Nam”.
Trước
đó một ngày, truyền thông Việt Nam đưa tin tàu cá của ngư dân Trần Hồng
Thọ (ở tỉnh Quảng Ngãi) đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm và bắt đi toàn bộ
8 ngư dân. Tàu Trung Quốc sau đó còn tiếp tục truy đuổi và lai dắt 2
tàu cá đến “cứu hộ” của các ngư dân khác về đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo
Hoàng Sa, nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền song trên thực tế do Bắc Kinh
kiểm soát từ năm 1974.
“Hành
động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam
đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe dọa an toàn
tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam, đi ngược lại nhận
thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư
dân và Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển Việt Nam – Trung Quốc”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam
Lê Thị Thu Hằng nói trong cuộc họp báo ngày 3/4.
Đáp
lại, khi được hỏi về sự kiện trên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc trong cuộc
họp báo cùng ngày, đưa ra một phiên bản thông tin hoàn toàn trái ngược.
Phát
ngôn viên Hoa Xuân Oánh nói rằng tàu hải cảnh Trung Quốc đã bắt gặp tàu
cá của Việt Nam đánh bắt bất hợp pháp trong khu vực quần đảo Tây Sa
(tức Hoàng Sa) của Trung Quốc vào sáng 2/3 nên đã kêu gọi tàu này dời
đi. Nhưng tàu cá Việt Nam không chịu dời đi và “bất ngờ quay ngoắt về
phía tàu Trung Quốc” khiến cho tàu hải cảnh đâm vào tàu cá “dù đã cố hết
sức để tránh”.
Người
phát ngôn của Trung Quốc nói thêm rằng phía Trung Quốc sau đó lập tức
cứu hộ 8 ngư dân Việt Nam và để cho họ trở về sau khi thực hiện các thủ
tục điều tra và thu thập chứng cứ.
Trước
đó một tuần, hôm 24/3, Trung Quốc công bố khánh thành hai “trạm nghiên
cứu”, mà báo chí quốc tế gọi là các cơ sở quân sự mới, trên Đá Chữ Thập
và Đá Subi ở Trường Sa, cũng là nơi Việt Nam tuyên bố chủ quyền, khiến
Hà Nội phải lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh “tôn trọng chủ quyền”.
Những
sự việc liên tiếp trên xảy ra chỉ vài tháng sau một chuỗi đụng độ vào
mùa hè năm ngoái khiến cho mối quan hệ Việt – Trung trở nên căng thẳng
cực độ, xuất phát từ việc tàu hải cảnh Trung Quốc đi vào khu vực đặc
quyền kinh tế của Việt Nam ở bãi Tư Chính, gần quần đảo Trường Sa, và
ngang nhiên hoạt động tại đây trong nhiều tháng với lý do “khảo sát địa
chất”.
Qua
nhiều chuỗi sự kiện, hành động, phản ứng và trao đổi qua lại giữa Hà
Nội và Bắc Kinh, với những phiên bản thông tin trái ngược, cũng đã trở
nên quen thuộc với giới quan sát và truyền thông quốc tế. Tờ
International Business Times hôm 4/4 thậm chí còn đưa ra “khuôn mẫu” cho
những sự kiện kiểu này, nói rằng “Ngư dân Việt Nam thì sẽ tường thuật
câu chuyện cho giới hữu trách địa phương để trình lên các cấp trên. Còn
phía Trung Quốc thì thường giữ im lặng. Và bởi vì Việt Nam không thể đọ
được với Trung Quốc về mặt quân sự, nên vụ việc sẽ dần dần lắng xuống
khi cả thế giới phải lo đối phó với dịch Covid-19”.
Việt Nam đã ‘lường trước’ và ‘chuẩn bị’?
Theo
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu an ninh và chính trị khu vực
của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS- Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore,
tình hình ở Biển Đông hiện nay “rất khó khăn” cho phía Việt Nam, nhất
là trong bối cảnh đang diễn ra đại dịch.
Theo
tiết lộ của nhà nghiên cứu này, Trung Quốc không chỉ công khai khánh
thành trạm nghiên cứu hay đâm chìm tàu cá ngư dân Việt, mà còn gây ra
“một số chuyện nữa” mà sẽ “dần dần được nói ra”.
Tiến
sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban biên giới quốc gia Việt Nam, thì
nhận định với VOA rằng việc Trung Quốc đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt
Nam là “câu chuyện không mới”, và Bắc Kinh thường sử dụng chiêu thức
tung tin “vu khống” hay “đổ lỗi” cho phía Việt Nam trước khi thực hiện
một hoạt động gây hấn hay xâm lấn trên Biển Đông.
Theo
cả hai nhà nghiên cứu Việt Nam, những động thái quyết liệt của Trung
Quốc gần đây cho thấy Bắc Kinh đang có “mưu toan rất lớn”, không chỉ ở
Biển Đông mà cả trong khu vực, chẳng hạn như vấn đề Đài Loan.
“Trong
bối cảnh toàn thể thế giới đang lao đao vì đại dịch, mà xuất phát từ
Trung Quốc, tôi nghĩ họ đang tính toán những bước phiêu lưu mới”, TS.
Trần Công Trục nói với VOA.
Tuy
nhiên, hai nhà nghiên cứu trên cho rằng Việt Nam đã “lường trước” và
“chuẩn bị kỹ” cho những tình huống xấu có thể xảy ra sắp tới.
“Việt
Nam sẽ ứng xử lại bằng hành động chứ họ không nói nhiều nữa đâu”, TS.
Hà Hoàng Hợp nói, trong khi TS. Trần Công Trục cho rằng “Việt Nam sẽ có
những biện pháp đấu tranh mạnh mẽ, kể cả trên phương diện pháp lý,
truyền thông chính trị lẫn trên thực tế”.
Trong
vụ việc lần này, có thể thấy phản ứng công khai của phía Việt Nam gần
như diễn ra ngay lập tức, khác hẳn với những lần khác trong quá khứ, mà
gần đây nhất là vụ bãi Tư Chính với khoảng một tuần sau, hoặc kín đáo và
chậm chạp hơn nữa trong những vụ việc xa hơn.
Chỉ “ngoại giao”
Một
sự trùng hợp là sự kiện Trung Quốc trao trả 8 ngư dân lại được truyền
thông Việt Nam đưa tin trong cùng một ngày (3/4) với sự kiện Thủ tướng
Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc điện đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc
Cường để “bàn cách hợp tác chống dịch Covid-19”.
Trang
thông tin chính thức của chính phủ Việt Nam nói trong cuộc điện đàm,
ông Phúc còn ca ngợi “thành quả to lớn” mà Trung Quốc đã đạt được trong
việc chống dịch Covid-19, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình,
Thủ tướng Lý Khắc Cường và Quốc vụ viện Trung Quốc. Ông Phúc cũng cảm ơn
sự hỗ trợ của Bắc Kinh qua hình thức chia sẻ kinh nghiệm và một số địa
phương đã hỗ trợ vật tư y tế cho Việt Nam.
Mặc
dù trên bình diện thông tin, hai sự kiện trên là hoàn toàn tách biệt,
nhưng theo nhận định của TS. Hà Hoàng Hợp, chúng thực chất “có liên quan
với nhau”.
Ông
giải thích: “Về mặt hợp tác, vì hai nước có ‘hợp tác đối tác chiến
lược’, trên nền tảng hai nước đều là thành viên của Liên Hiệp Quốc thì
phải có những hợp tác giúp nhau chống dịch bệnh, thiên tai. Trên cơ sở
đó, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường gọi điện cho Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc và chắc là có thỏa thuận với nhau gì đó về chuyện bên Trung
Quốc sẽ gửi một số vật tư y tế để giúp Việt Nam chống dịch này. Từ trước
tới giờ là không có. Kể từ khi bùng phát dịch thì chưa thấy có gì cả,
bây giờ thì lại có. Theo tôi biết thì thủ tướng Việt Nam có nêu chuyện
Biển Đông nhưng không thấy báo chí nêu”.
Theo
TS. Hà Hoàng Hợp, những lời ca ngợi của thủ tướng Việt Nam về thành tựu
của Trung Quốc trong việc phòng chống dịch Covid-19 thời gian qua chỉ
“hoàn toàn là ngoại giao”.
“Vì ở Việt Nam giờ chả ai tin người Trung Quốc”, TS. Hà Hoàng Hợp khẳng định.
Theo
ông, những vấn đề liên quan đến đại dịch Covid-19 như khi nào dịch
thuyên giảm, chấm dứt hay sẽ bùng phát trở lại là những câu hỏi mà không
ai hiện giờ có thể trả lời.
“Thế
thì khi người Trung Quốc họ nói rằng họ ngớt dịch, rồi hết dịch, từ đó
họ làm chuyện nọ chuyện kia… thì khen họ chả mất gì cả nên ông [thủ
tướng] cứ khen thôi”.
Thêm
vào đó, theo nhà nghiên cứu này, nếu Trung Quốc thực sự hết dịch thì
“Việt Nam cũng được nhờ” và chuyện “mừng cho anh cũng có nghĩa là mừng
cho tôi”.
“Vì
nếu Trung Quốc không hết dịch thì nó lại lây sang Việt Nam. Đợt vừa
rồi, 16 người đầu tiên là từ Trung Quốc, từ Vũ Hán sang”, TS. Hà Hoàng
Hợp nói thêm.
Quan hệ Việt – Trung đã thay đổi?
Theo
lời TS. Hà Hoàng Hợp – mà ông khẳng định không phải là “suy đoán” – thì
trong câu chuyện “ngoại giao” giữa hai nguyên thủ quốc gia còn kèm theo
một nội dung từ phía Việt Nam.
“Đó
là dù thế nào thì dù, Trung Quốc không nên lấy chuyện chống được dịch
để gây ra những chuyện lớn ở Biển Đông. Đấy là thông điệp mà tôi chắc là
thủ tướng Việt Nam đã nói với ông kia [thủ tướng Trung Quốc]”.
Nhà
nghiên cứu của Viện ISEAS khẳng định mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc hiện giờ “đã thay đổi”, và ngôn ngữ “ngoại giao” trao đổi giữa hai
bên đôi khi không nói lên thực chất của mối quan hệ, mà chỉ là “nói với
nhau vậy thôi”.
“Bây
giờ quan hệ Việt Nam – Trung Quốc thay đổi nhiều rồi, việc nào phải ra
việc đấy thôi. Nhân vụ đại dịch này thì người ta nhìn rõ nhau hơn”, TS.
Hà Hoàng Hợp nhận định.
Nhà
nghiên cứu này khẳng định Việt Nam giờ chỉ xem Trung Quốc là quốc gia
“đối tác”, và vì đối tác này luôn sẵn sàng “gây sự” bất cứ lúc nào nên
“không tin được nhau” và “niềm tin chiến lược bây giờ còn rất ít”.
“Trong
khi đó, niềm tin đối với Mỹ thì ngày càng tăng, nhưng tăng đến mức trở
thành đồng minh với nhau thì chưa thấy”, TS. Hà Hoàng Hợp bình luận
thêm.
Theo
dự đoán của ông, nếu Trung Quốc tiếp tục lấn tới trong hoạt động nhằm
khẳng định yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, thì những động thái “không
hòa bình” có thể sẽ diễn ra trên thực tế trong vài tuần sắp tới.
(VOA)
Không có nhận xét nào