Chính phủ trong nhiệm kỳ Đại hội 12,
bắt đầu từ năm 2016, với vai trò kiến tạo, theo tôi, là phù hợp sau thời
kỳ bất ổn và dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều này cần được đánh giá đúng và đủ trong Dự thảo Văn kiện trình Đại
hội 13 dự kiến tổ chức vào năm sau 2021 để thúc đẩy cải cách thể chế
theo hướng chuyển đổi sang kinh tế thị trường.
Hình minh hoạ. Những người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam chụp hình tại lễ bế mạc đại hội đảng 12 ở Hà Nội hôm 28/1/2016 |
Bối cảnh
Ngày
26/7/2016 Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cam kết trước Quốc hội khoá 14 về
một Chính phủ kiến tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Chính
phủ do ông đứng đầu được thành lập sau khi kết thúc Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ 12 với đầy khó khăn để đạt được đồng thuận về nhân
sự cấp cao của đảng trong bối cảnh ‘bất ổn’ kinh tế và thể chế do những
sai lầm chính sách và quản lý yếu kém.
Chính
sách kinh tế dựa vào các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, gây dựng ‘các
quả đấm thép’ trụ cột của nền kinh tế, được nhận định là sự vận dụng
sai kinh nghiệm của Cheabol của Hàn Quốc - các tập đoàn tư nhân, đã gây
ra bất ổn vĩ mô, tăng trưởng sụt giảm, ‘bong bóng’ thị trường tài chính
và bất động sản, đã để lại những tổn thất nặng nề cho đến nay chưa khắc
phục xong.
Sự
bất ổn thể chế vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của quá trình điều
hành của chính phủ tiền nhiệm. Một trong những ví dụ điển hình, đặc
trưng cho sự bất ổn này là sự ‘bất tuân’ của đa số thành viên của Ban
chấp hành trung ương khoá 11 trước đề xuất xem xét kỷ luật nguời đứng
đầu chính phủ nhiệm kỳ trước. Tuy nhiên, cuối cùng, không có cá nhân nào
chịu trách nhiệm về sự yếu kém trong quản lý nền kinh tế.
Sự
thống nhất quyền lực giữa các nhà lãnh đạo của chính phủ điều hành với
đảng lãnh đạo toàn diện theo nguyên tắc lãnh đạo tập thể của đảng đã
được quan sát có sự rạn nứt.
Kiên định ý thức hệ
Đảng
Cộng sản Việt Nam khoá 12, tại Hội nghị trung ương 4, đã nhận định một
trong những nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là ‘sự suy thoái về tư
tưởng, đạo đức và lối sống’ của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị.
Hai
nhóm giải pháp chủ yếu được đảng chú trọng thực hiện. Một mặt, để củng
cố tổ chức đảng và các nguyên tắc lãnh đạo của đảng nhiều quy định, chỉ
thị được ban hành để ngăn chặn các hiện tượng ‘tự diễn biến’ ‘tự chuyển
hoá’, như các tiêu chuẩn bầu chọn cán bộ lãnh đạo các cấp, về kỷ luật và
nêu gương của lãnh đạo đảng cấp cao… Mặt khác, phát động chiến dịch
chống tham nhũng quyết liệt ‘không vùng cấm’.
Đảng
CS VN luôn nhấn mạnh sự kiên định ý thức hệ. Để thực hiện các giải pháp
trên việc tập trung quyền lực là điều kiện cần thiết, và quyền lực chỉ
có thể tập trung hoá cao độ phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đảng vẫn nhấn mạnh sự lãnh đạo
tập thể để ‘phòng ngừa’ sự độc đoán và ‘sự sùng bái cá nhân’, vốn được
coi là hậu quả của việc tập trung quyền lực tuyệt đối.
Chính phủ kiến tạo
Trong
bối cảnh trên, sự ra đời và hoạt động của Chính phủ kiến tạo với trách
nhiệm nặng nề là giữ ổn định vĩ mô, khắc phục khó khăn và thúc đẩy tăng
trưởng, đã được quan sát và giám sát từ nhiều giác độ của dân chúng, các
nhà phân tích và các chính khách trong hệ thống chính trị.
‘Chính
phủ kiến tạo’ – một khái niệm đã và vẫn gây tranh luận về học thuật.
Tuy nhiên, theo tôi, Chính phủ kiến tạo có đặc trưng cơ bản là bộ máy
chính quyền các cấp được hình thành bởi kết quả thoả hiệp về nhân sự
trong Đại hội 12, vẫn được sử dụng để hoạch định và thực thi chính sách
mà không gây nên hoặc giảm thiểu những hiệu ứng không mong muốn.
Bản
thân người đứng đầu chỉnh phủ và nhân sự của chính quyền các cấp được
bầu chọn bởi Đại hội 12 và trước đó là đại hội đảng các cấp, trong đó,
không loại trừ, bao gồm cả một số cán bộ lãnh đạo ‘suy thoái’ từ nhiệm
kỳ 11. Nếu quan sát một số vụ kỷ luật đảng và vụ án đối với cán bộ cấp
cao của đảng bị xét xử trong những năm từ đầu nhiệm kỳ 12 đến nay, thì
có thể ‘cảm nhận’ rõ ràng.
Chính sách thực dụng
Sự
khác biệt của chính phủ hiện hành là tính chất kiến tạo thể hiện trong
chính sách thực dụng: ‘cái gì có lợi cho dân, cho doanh nghiệp được dân
chúng ủng hộ thì cần quyết tâm làm’. Chính sách này bao gồm hai hướng
hoạt động chính, một là, cam kết khuyến khích khởi nghiệp và tự do kinh
doanh cho người dân, mặt khác từng bước gỡ bỏ những rào cản về pháp lý,
thủ tục hành chính rườm rà, hữu hình và vô hình, tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp và người dân.
Điều
đó có nghĩa là quyền kinh tế của người dân, doanh nghiệp tư nhân được
mở rộng, được tăng cường và có sự đảm bảo cam kết từ chính quyền, và
đồng thời quyền lực, đặc lợi của bộ máy, quan chức hiện thời cũng bị hạn
chế, ràng buộc và giảm đi.
Thực
thi chính sách này như ‘tự lấy đá ghè chân mình’, thì hiệu ứng không
mong muốn là khó tránh khỏi. Những hiện tượng ‘trên nóng, dưới lạnh’,
đôi khi ‘bất tuân công vụ’ do những bất cập thể chế, tính quan liêu hành
chính và suy thoái đạo đức của cán bộ đảng viên … được chính phủ chỉ ra
nhiều lần trong quá trình điều hành.
Thúc đẩy tăng trưởng
Trách
nhiệm nặng nề của chính phủ kiến tạo không chỉ khôi phục sự ổn định mà
còn phải thúc đẩy tăng trưởng sau khi giảm sút đáng kể trong nhiệm kỳ
trước.
Nếu
nhìn vào chính sách, cách điều hành năng động, vai trò của người đứng
đầu chính phủ và các kết quả thực tế đạt được của nền kinh tế trong 4
năm qua, thì không thể không ghi nhận vai trò quan trọng của nó tạo ra
khác biệt tích cực, phù hợp với bối cảnh thực tế và thúc đẩy cải cách
thể chế theo hướng thị trường.
Các
chỉ tiêu pháp lệnh được Quốc hội thông qua từng năm đều đạt và vượt,
trong đó tỷ lệ GDP tăng năm sau cao hơn năm trước, từ năm 2016 đến 2019
lần lượt là 6,21%; 6,81%; 7,08% và 7,02%. Ngoài ra, chất lượng tăng
trưởng cũng được chú ý cải thiện, khu vực tư nhân được mở rộng, trợ giúp
cho doanh nghiệp nhà nước được kiểm soát, thị trường sôi động hơn.
Một
chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện, nhưng không do người dân
trực tiếp bầu lên, cho nên tính chính danh của nó ‘đặt cược’ vào mức
tăng trưởng kinh tế, bởi vậy những kết quả nêu trên là thành tích ấn
tượng.
Tình huống khẩn cấp
Một
số nhận định rằng chế độ toàn trị có ưu thế trong chiến tranh hay tình
huống cấp bách. Từ phương diện thể chế, điều này có thể đúng, tuy nhiên
không thể không nói đến năng lực điều hành và vai trò người đứng đầu của
‘chính phủ kiến tạo’. Tình huống phòng chống dịch COVID-19 là một thử
thách.
Phòng
chống loại virus corona chủng mới lây lan nhanh, nguy cơ tử vong cao
được coi là tình huống khẩn cấp. Chính phủ có thái độ tiếp cận nghiêm
túc với đại dịch này. Những biện pháp ‘thời chiến’ đã được sử dụng để
phòng chống đại dịch, như giãn cách xã hội, cách ly tập trung, phát hiện
và phong toả ổ dịch với phương châm ‘kêu gọi trách nhiệm’ trước tập
thể, cộng đồng, ‘thúc đẩy hành động’ và ‘yêu cầu tuân thủ’... Người Việt
Nam nhiều thế hệ từng trải qua các cuộc chiến tranh và những tình huống
bất ổn của thể chế trong quá trình chuyển đổi cơ chế nên không khó khăn
lắm để chấp nhận và ủng hộ chính phủ với những chính sách ứng phó quyết
liệt, kịp thời với sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị.
Dư
luận và một số tổ chức quốc tế đánh giá tích cực cách phòng chống dịch
của Việt Nam, ‘một chiến lược chống COVID-19 đơn sơ nhưng hiệu quả’ với
‘chi phí thấp’, coi đây là bài học kinh nghiệm phù hợp áp dụng cho những
quốc đang phát triển và mới nổi. Tính đến hết ngày 17/4/2020 Việt Nam
có 268 ca nhiễm, chưa có ca tử vong nào và 198 người đã được chữa khỏi
và phục hồi.
‘Cuộc
chiến’ với COVID-19 này vẫn còn ở phía trước, chính phủ và người dân
chia sẻ đặt lợi ích cộng đồng lên trên tự do cá nhân và họ cùng có niềm
tin đại dịch sẽ được khống chế với tổn thất tối thiểu. Hậu COVID-19 là
quá trình chuyển từ ‘thời chiến’ sang thời bình, sẽ là vấn đề nếu không
thận trọng với cảnh báo về các biện pháp ‘thời chiến’ luôn có quán tính
cản trở những cải cách theo hướng thị trường.
Kết luận
Đảng
CS và nhà nước Việt Nam đang tìm kiếm mô hình tăng trưởng nhanh và bền
vững trong quá trình chuyển đổi sang thị trường. Chính phủ hiện hành với
chính sách dựa trên chủ nghĩa thực dụng, nhấn mạnh chủ thể đạo đức với
các chuẩn mực như kiến tạo, liêm chính, phục vụ người dân và doanh
nghiệp để lựa chọn các hành động hướng tới mục đích mang lại lợi ích cho
số đông. Một chính phủ như vậy phù hợp với ràng buộc về thể chế và ý
thức hệ hiện hành đã mang lại kết quả thực tế.
Chưa
thể khẳng định đây là mô hình mà Đảng Cộng sản mong muốn, nhưng chính
phủ kiến tạo có thể coi là giải pháp chính sách, một gợi ý thúc đẩy cải
cách thể chế. Tuy nhiên, nếu một cách nhìn thiên lệch về ý thức hệ giáo
điều thì Chính phủ kiến tạo sẽ không thể phát huy vai trò tích cực của
nó và liệu hình hài chính phủ của nhiệm kỳ tới sẽ khó đoán định.
TS. Phạm Quý Thọ
(RFA)
Không có nhận xét nào