Hơn 25 năm trước tôi nhận một cú điện
thoại. Người ở đầu dây bên kia là Luật Sư Nguyễn Xuân Phước. Anh ta bảo
một đồng hương Quảng Nam là Luật Sư Nguyễn Tâm ở San Jose cho số điện
thoại và khuyên anh nên gọi làm quen. Phước người Quế Sơn và dù xa quê
lâu giọng vẫn nói còn đậm chất Quảng Nam nên chúng tôi dễ cảm thấy thân
thiện và gần gũi nhau.
Chào
hỏi xã giao một lúc, Phước hỏi tôi viết nhiều về chính trị nhưng quan
tâm lớn nhất của tôi nằm trong lãnh vực nào. Tôi trả lời là bang giao
quốc tế. Anh yêu cầu trả lời cụ thể hơn. Tôi nói bang giao quốc tế trong
thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Anh ta vẫn chưa chịu, bảo tôi cụ thể hơn nữa
vì Chiến Tranh Lạnh vẫn còn rộng. Tôi trả lời phạm vi tôi quan tâm nhất
là địa lý chính trị của Việt Nam trong quan hệ với Trung Cộng và tương
quan với các quốc gia trong khu vực Nam Á Châu bao gồm Biển Đông. Phước
đồng ý và bảo tôi anh ta cũng rất thích lãnh vực này. Từ đó Phước dành
nhiều thời gian nghiên cứu và học hỏi. Sau lần điện thoại, chúng tôi
thành bạn thân và cùng đi nhiều nơi cho đến ngày Phước qua đời, 23 tháng
6, 2015.
Cách
đây khoảng 15 năm, chúng tôi tham gia vào việc giảng dạy các lớp học
dành cho các bạn trẻ trong nước do một cựu giáo sư đại học đáng kính
thành lập. Chương trình do nhiều chú bác anh chị phụ trách. Mỗi người
giảng một môn tùy theo lãnh vực nghiên cứu của mình. Khác với các lớp
“xã hội dân sự” do các đoàn thể hay đảng phái tổ chức sau này, chúng tôi
tập trung vào lý luận và các vấn đề quốc tế có ảnh hưởng đến Việt Nam.
Phước phụ trách về địa lý chính trị, tôi phụ trách về phong trào xã hội
với kinh nghiệm cách mạng dân chủ tại vùng Baltics và Đông Âu.
Trong
bức ảnh, các bạn thấy ba điểm Phước nêu ra từ lớp học năm 2007 tại
Bangkok gồm (a) tham vọng của Trung Cộng tại Á Châu và Thái Bình Dương,
(b) hướng phát triển của ASEAN và (c) khẳng định thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ
của Á Châu Thái Bình Dương. Không phải hiện nay mà từ thời TT Bill
Clinton (1993-2001), George W. Bush (2001-2009) chúng tôi đã đặt Việt
Nam trong tương quan rộng lớn của cả vùng Nam Thái Bình Dương. Chúng tôi
tin tranh chấp về chủ quyền các đảo và quyền hải hành trên Thái Bình
Dương sẽ ngày càng mở rộng và càng rộng càng có lợi cho Việt Nam.
Dựa
trên những điểm chính đó, tôi viết hàng loạt bài về hiểm họa Trung Cộng
qua kinh nghiệm Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan, Congo, Tiệp Khắc v.v… và in trong
Chính Luận, 2014.
Lý
luận phải đi trước. Những vấn đề thoạt nhìn rất bình thường như bản
chất của cuộc chiến Việt Nam, vai trò của các cường quốc trong chiến
tranh hay ngay cả tham nhũng dưới chế độ CS v.v.. không phải ai cũng
hiểu giống nhau.
Một
số người chủ trương gạt bỏ quá khứ để tập trung vào tương lai. Nhưng
tương lai không phải là Tề Thiên Đại Thánh từ trong đá nứt ra mà kết tụ
những thất bại và thành công từ quá khứ cho đến hôm nay. Không nên gạt
bỏ hay quên đi mà chỉ cần học nhưng đừng sống vùi trong quá khứ. Một cơn
đau không bao giờ được chữa dứt nếu không biết tại sao đau.
Không
hiểu đúng lịch sử sẽ không dứt khoát khi chọn lựa, sẽ thiếu kiên nhẫn
trên hành trình và sẽ mất niềm tin nơi kết quả cuối cùng. Một hành giả
tìm đạo hay một người mang tâm nguyện cứu đời, cứu nước cũng thế, không
có ba đặc tính đó sẽ đi vòng vòng, không bao giờ tới đích được.
Một câu chuyện về sự cần thiết của thái độ dứt khoát trong cách mạng dân chủ.
Có
một chàng thanh niên Mông Cổ, 26 tuổi, tên là Tsakhiagiin Elbegdorj.
Anh ta được gởi sang Liên Sô học về báo chí đúng trong thời kỳ Mikhail
Gorbachev vừa phát động chương trình Glasnost (Cởi mở) và Perestroika
(Cải tổ). Elbegdorj vui mừng đón nhận và mang các sáng kiến đó về lại
Mông Cổ. Trên chuyến xe từ Moscow về Ulaanbaatar anh miên man suy nghĩ
về một hướng đi. Anh biết chọn lựa trước mắt của anh sẽ quyết định không
chỉ đời anh mà còn cả vận mệnh Mông Cổ.
Khi
về lại quê hương, thay vì vận động cho các chính sách cải cách kiểu
Gorbachev, chàng thanh niên Mông Cổ 26 tuổi đã chọn con đường dứt khoát
hơn, đó là con đường dân chủ. Trong diễn văn ngày 28 tháng 11, 1989,
Elbegdorj phát biểu “Mông Cổ cần dân chủ và minh bạch” và tờ báo đầu
tiên anh phát hành là tờ Dân Chủ. Chọn lựa dứt khoát của Elbegdorj đã mở
ra kỷ nguyên mới cho Mông Cổ ngày nay. Sau khi chế độ Cộng Hòa ra đời,
Tsakhiagiin Elbegdorj là người trong những người soạn thảo nên hiến pháp
dân chủ và là thủ tướng của Cộng Hòa Mông Cổ từ 1996.
Học
hỏi các kinh nghiệm thế giới như trình bày ở trên và vận dụng vào điều
kiện Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Cộng vô cùng cần thiết. Từ
các bài học đó, để thắng được Trung Cộng, Việt Nam không có chọn lựa nào
ngoài (1) phải có dân chủ và dân chủ phải đến sớm thay vì đến khi chiến
tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến, (2) đoàn kết dân tộc
bởi vì một dân tộc chia rẽ không thắng được ai, (3) chủ động chiến lược
hóa vị trí quốc gia để được các cường quốc tự do bảo vệ, (4) liên minh
với láng giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy để tránh
được chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh.
Từ
những nhận thức chính trị đó, dù 30 năm mang quốc tịch Mỹ, tôi vẫn viết
như một người Việt Nam cho những người Việt Nam quan tâm đến tương lai
Việt Nam.
Đương
nhiên tôi quan tâm đến chính trị Mỹ và chính sách Châu Á của tổng thống
Mỹ trong mỗi thời kỳ. Nhưng quan tâm để vận dụng chứ không nhằm gây ảnh
hưởng. Cộng đồng Việt Nam tại Mỹ quá nhỏ, quá nghèo để có thể nên gây
nên một ảnh hưởng nào trong lập pháp cũng như hành pháp Mỹ. Nhưng tranh
luận dù ôn hòa hay gay gắt mà chúng ta đang nghe hay đọc mỗi ngày cũng
chỉ tác động trong cộng đồng Việt Nam nhỏ hẹp mà thôi.
Cộng
đồng Việt Nam không có những Henry Morgenthau Jr. hay Henry Kissinger
để bảo vệ quyền lợi Do Thái, không có Zbigniew Brzezinski để binh vực
cho quê hương Ba Lan. Những gì người Việt có thể làm là nương theo các
chính sách đối ngoại của các cường quốc và vận dụng các chính sách đó có
lợi nhất cho cuộc đấu tranh còn rất dài để thay đổi điều kiện chính trị
tại Việt Nam.
Người
Việt thường ủng hộ Do Thái vì cảm tình với sự chịu đựng của dân tộc này
và tinh thần vươn lên trong thời kỳ tái lập quốc gia Do Thái 1948. Đó
là tình cảm đúng. Tuy nhiên, có thể phần đông những người ủng hộ Do Thái
đó không biết rằng chính yếu tố Do Thái đã ảnh hưởng rất nhiều trong sự
thất bại của VNCH. Tôi nhớ trong một cuộc phỏng vấn, Henry Kissinger,
một người gốc Do Thái, đã thừa nhận trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, nếu
Mỹ chỉ có một chiếc xe tăng để viện trợ cho đồng minh thì xác suất cao
chiếc xe tăng đó sẽ được gởi đến Do Thái thay vì VNCH. Lý do, người Mỹ
gốc Do Thái ảnh hưởng hầu hết các lãnh vực từ truyền thông, tài chánh,
và nhất là quốc hội Mỹ.
Một
điều ai cũng biết nhưng thường hay quên, tổng thống Mỹ chỉ phục vụ cho
quyền lợi nước Mỹ và con số hội viên của câu lạc bộ những quốc gia bị Mỹ
bỏ rơi cũng không ít hơn số thành viên của câu lạc bộ những quốc gia
thành công nhờ liên minh với Mỹ.
Không
phải tự nhiên mà TT Harry Truman quyết định ném hai trái bom nguyên tử
xuống Hiroshima và Nagasaki vào các ngày 6 và 9 tháng 8, 1945. Thời gian
trước khi quyết định, TT Truman đã được báo cáo Mỹ có thể sẽ phải tổn
thất khoảng một phần tư triệu quân mới đánh bại được Nhật Bản. Lý do
quân đội Nhật chiến đấu tới người cuối cùng chứ nhất định không đầu
hàng. Hai trăm năm chục ngàn người phải chết để chiến tranh chấm dứt và
TT Truman chọn hai trăm năm chục ngàn người đó là người Nhật. Không ai
trách TT Truman nhưng rõ ràng sinh mạng và quyền lợi của Mỹ vẫn là ưu
tiên tối thượng trong mọi quyết định của một tổng thống Mỹ.
Dù
hết sức kính trọng tổng thống Barack Obama, tôi viết nhiều bài để phê
bình chính sách đối ngoại, đặc biệt với Trung Cộng của TT Barack Obama
trong sáu năm đầu của hai nhiệm kỳ và đã có lần so sánh ông với Thủ
tướng Anh Nevill Chamberlain, người đã ký hiệp ước Munich dâng cho
Hitler vùng Sudetenland trù phú, và thực tế là trao tặng cả nước Tiệp
cho Hitler.
Sau
thời kỳ TT Obama khuôn mặt của Biển Đông đã đổi khác rất nhiều. Những
vùng san hô chìm sâu trong biển đã trở thành những đảo nhân tạo của
Trung Cộng với căn cứ quân sự và cả phi trường dành cho phi cơ chiến
đấu. Những phương tiện chiến tranh đó có thể chưa phải là đối thủ của Mỹ
hay làm cho Mỹ lo lắng nhưng với các nước nhỏ trong vùng đó là những đe
dọa sống còn. Dưới thời TT Obama, Trung Cộng không còn dè dặt theo kiểu
tằm ăn dâu hay gặm nhắm từng vùng Biển Đông như trước mà tỏ ra thô bạo,
hung hăng vì họ nắm được chính sách mềm dẻo chủ hòa của TT Obama.
Chiến
lược Á Châu Thái Bình Dương và Ấn-Thái Bình Dương (Indo-Pacific
Strategy) của Mỹ được TT Donald Trump chính thức giới thiệu trong chuyến
viếng thăm Á Châu tháng 11, 2017 . Mục đích của chính sách là tạo một
không gian “tự do” và “mở” (free and open Indo-Pacific) đối xử theo cam
kết và luật định tại khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Rõ
ràng chính sách này nhằm tạo một đối lực thông qua các liên minh giữa
Mỹ và các đồng minh Á Châu, cụ thể là Ấn Độ quốc gia có dân số 1.3 tỉ
người, với chính sách bành trướng vô luật pháp của Trung Cộng.
Còn
khá sớm để đánh giá sự thành công của Ấn-Thái Bình Dương (Indo-Pacific
Strategy) nhưng chiến lược này như một học thuyết chính trị để đương đầu
với Trung Cộng sẽ không thay đổi trong một thời gian dài.
Một tổng thống Mỹ chỉ có thể phục vụ hai nhiệm kỳ nhưng chủ thuyết chính trị do tổng thống đó đưa ra có thể kéo dài hàng thế kỷ.
Chủ
thuyết Monroe chủ trương chống lại sự can thiệp của châu Âu đối với Mỹ
và các nước Mỹ Châu bắt đầu từ thời TT James Monroe vào năm 1823. Đây là
một trong những lý thuyết chính trị có ảnh hưởng lâu dài nhất trong
lịch sử bang giao quốc tế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.Trên nguyên tắc, lý
thuyết Monroe chấm dứt sau Đại Suy Thoái 1932. Tuy nhiên vào cuối thế
kỷ 20, thuyết này vẫn còn được giải thích một cách rộng rãi bởi nhiều
tổng thống Mỹ như TT John F. Kennedy trong biến cố Vịnh Con Heo, Cuba và
TT Ronald Reagan trong chiến tranh chống chế độ CS Sandinistas tại
Nicaragua.
Mỗi
người Việt, trong số hơn hai triệu người thoát được ra khỏi nhà tù lớn
CSVN, dù ít hay nhiều đều mang trên lưng những vết hằn của cuộc chiến,
những kinh nghiệm hãi hùng trong những cuộc hải hành khủng khiếp trên
Biển Đông hay những chuyến đi bộ đầy lo sợ qua các bãi mìn biên giới
Thái-Miên. Những kinh nghiệm sinh tử và đau đớn đó chi phối cách nhìn,
cách suy nghĩ, cách nhận xét của người Việt về mọi phương diện.
Việc
thiếu đoàn kết trong cộng đồng người Việt, ngoài kinh nghiệm chiến
tranh và vượt thoát, còn phát xuất từ khác biệt về giáo dục và điều kiện
trưởng thành. Quá khứ khác nhau, giáo dục khác nhau, kinh nghiệm sống
khác nhau nên khó có thể có một cái nhìn về tương lai giống nhau. Do đó
việc xây dựng một lớp người vượt qua được mọi tiêu cực để tập trung vào
các mục tiêu chung là một nỗ lực vô cùng khó khăn nhưng đồng thời vô
cùng cấp bách.
Tranh
luận là chuyện bình thường trong xã hội dân chủ. Nhưng đừng quên giờ
này các anh chị em Lê Đình Lượng, Trần Huỳnh Duy Thức, Hoàng Đức Bình,
Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức, Nguyễn Bắc Truyển,
Phạm Văn Trội, Huỳnh Thị Tố Nga, Nguyễn Thị Ngọc Hạnh và trên 200 người
khác hiện đang ở trong tù. Hãy yêu thương họ, sống với họ, viết cho họ,
chia sẻ đau thương với họ và đấu tranh vì họ.
Dòng
sông văn minh nhân loại đã chảy qua những cánh đồng khô ở Baltics,
Trung Á, Đông Âu, Bắc Phi. Các chế độ độc tài lần lượt chìm sâu trong
quá khứ, các chủ thuyết phi nhân đang bị xóa bỏ. Dòng sông đó vẫn còn
đang chảy. Những gì các dân tộc bị trị làm được dân tộc Việt Nam cũng sẽ
làm được. Dù thời gian có thể phải lâu hơn, có thể phải dài hơn nhưng
dòng sông văn minh chắc chắn sẽ một ngày chảy đến cánh đồng khô cháy
Việt Nam.
Trần Trung Đạo
(FB Trần Trung Đạo)
Không có nhận xét nào