Biển Đông là một trong những trọng
tâm thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)
diễn ra ngày 18/11/2019 tại Bangkok, Thái Lan. Trước những hành động
ngày càng hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông, Việt Nam hiện là nước duy
nhất trong khu vực Đông Nam Á tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc, khác với
thái độ của một số nước ASEAN có tranh chấp.(Tạp chí phát lần đầu
tiên ngày 18/11/2019)
Tránh
và không thể đối đầu trực diện với Trung Quốc, Việt Nam « kiên quyết »
nhưng « khôn khéo » trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền. Theo một số
chuyên gia, Hà Nội đang khéo léo mở ba mặt trận chống Trung Quốc : tăng
cường khả năng quân sự, đấu tranh về mặt ngoại giao và giảm phụ thuộc
vào Bắc Kinh.
Để
đối phó với những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc ở Biển
Đông, Việt Nam đã chi 5,1 tỉ đô la cho lĩnh vực quốc phòng trong năm
2019, trong đó 32,5% dành cho việc mua trang thiết bị quân sự. Ngân sách
quốc phòng của Việt Nam dự kiến tăng hàng năm khoảng 9,43% trong giai
đoạn 2020-2024, để đạt đến 7,9 tỉ đô la vào năm 2024. Tuy nhiên, tương
quan lực lượng rõ ràng thiên về Trung Quốc, với ngân sách quốc phòng lên
đến 228 tỉ đô la.
Ngoài
ra, số quân nhân giữa hai nước cũng chênh lệch : Việt Nam có khoảng
482.000 quân nhân thường trực, trong khi Trung Quốc có gần 2,3 triệu
quân. Nhiều dự liệu khác cũng cho thấy sự chênh lệnh : Việt Nam có 2.575
xe tăng so với 13.050 xe của Trung Quốc ; 6 tầu ngầm so với 76 ; 64 tầu
chiến các loại so với 714 tầu, trong đó Việt Nam không có tầu sân bay,
tầu khu trục.
Vậy
Việt Nam có chiến lược gì để có thể kiềm chế nước láng giềng khổng lồ,
đặc biệt là ở Biển Đông? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu
Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure
de Lyon)
RFI : Xét
về thực lực quân sự, Việt Nam không thể đối đầu trực diện với quân đội
Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể làm được gì để hạn chế Trung Quốc tung
hoành ?
Laurent Gédéon :
Trước tiên cần đặt câu hỏi là nếu trong trường hợp xảy ra xung đột giữa
hai bên, thì sẽ là ở đâu ? Việc Việt Nam có đường biên giới trên bộ với
Trung Quốc khiến người ta có thể hình dung đến khả năng xảy ra xung đột
trên bộ. Nhưng trên thực tế, giả sử xảy ra xung đột, thì có lẽ sẽ diễn
ra trên biển và có nhiều khả năng là trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Nếu
như căn cứ vào thực tế cuộc xung đột trên biển hiện nay, không chỉ ở
Biển Đông nói chung, mà kể cả trong vùng biển của Việt Nam, và trong giả
thuyết này, lực lượng hải quân Việt Nam sẽ giữ thế phòng thủ, chủ yếu
chống lại hành động của quân đội Trung Quốc và sẽ tiến hành những hành
động có chủ đích giúp họ giữ được lợi thế kỹ thuật, bất chấp bối cảnh
bất cân xứng với đối thủ.
Chính
vì thế, trong vài năm gần đây, Việt Nam đã mua nhiều trang thiết bị
quân sự để cân bằng phương tiện. Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua
nhiều lĩnh vực, như việc mua 6 tầu ngầm, dù chỉ mang tính chất tương
đối, nhưng cũng giúp Hà Nội tăng khả năng răn đe so với lực lượng của
Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam cũng triển khai nhiều phương tiện theo
dõi quan trọng, trong đó có thiết bị bay không người lái, hệ thống radar
thế hệ mới, các lực lượng tại chỗ và máy bay.
Quân
đội Việt Nam có một bước phát triển hướng ngoại, thông qua chiến lược
Chống tiếp cận/Chống xâm nhập (Anti-Access/Area Denial, A2/AD), một khái
niệm chưa có trước đó ở Việt Nam. Chiến lược này nhằm bảo vệ những hòn
đảo mà Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa và dọc bờ biển Việt Nam.
Chiến lược này cũng góp phần vào việc tăng khả năng phòng thủ của Việt
Nam, thông qua việc phát triển hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung,
mà Hà Nội trang bị nhiều trong những năm gần đây.
Theo
tôi, trong trường hợp xảy ra đối đầu trực tiếp với quân đội Trung Quốc,
Việt Nam sẽ không giành được chiến thắng về mặt quân sự, dù quân đội
Việt Nam có nhiều chiến lược. Nhưng Việt Nam có thể sẽ gây khó khăn cho
Trung Quốc và sẽ khiến một cuộc tấn công của Trung Quốc trở nên kém hiệu
quả hơn.
RFI
: Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác quân sự với nước ngoài, liệu
chiến lược này có nguy cơ trở thành con dao hai lưỡi không ?
Laurent Gédéon :
Điều đáng lưu ý là Việt Nam thực hiện chiến lược ngoại giao vận động
hành lang từ nhiều năm nay. Và rõ ràng là Hà Nội nhận thấy sự phát triển
những mối quan hệ này như một yếu tố cân bằng, một cách bù vào mức độ
chênh lệch với Trung Quốc.
Hà
Nội tìm cách phát triển quan hệ, chí ít là về mặt quân sự, với nhiều
đối tác như đối tác chiến lược với Nhật Bản. Một ví dụ khác là mối quan
hệ với Hoa Kỳ đã được tăng cường hơn rất nhiều. Điều này không có gì
đáng ngạc nhiên nếu nhìn vào những điểm tương đồng về lợi ích giữa hai
nước, khi mà cả hai đều lo ngại về ý đồ bành trướng của Bắc Kinh ở Biển
Đông.
Rõ
ràng phía Mỹ sẽ tiếp tục và tăng cường sự năng động này trong tương
lai, song song với việc số lượng trang thiết bị quân sự của Mỹ cung cấp
cho Việt Nam đã tăng gấp đôi kể từ khi lệnh cấm vận được bãi bỏ năm
2016. Từ đó, Hà Nội đã mua nhiều máy bay không người lái, tầu tuần duyên
và nhiều trang thiết bị khác. Ngoài ra, Việt Nam còn tăng cường hợp tác
quân sự với nhiều nước khác, như Úc, Ấn Độ, cũng như nhiều nước châu
Âu.
Về
câu hỏi : Chiến lược này có phải là con dao hai lưỡi hay không ? Trong
mọi trường hợp, đây là chiến lược cần được tiến hành một cách thận trọng
bởi vì mục đích của Hà Nội là tăng cường khả năng quân sự nhưng không
để bị phụ thuộc vào một hoặc nhiều đối tác. Ngoài ra, chiến lược này
cũng không nên để Trung Quốc diễn giải như là một mối đe dọa. Vì vậy,
Việt Nam tìm cách phát triển khả năng phòng thủ và điều chỉnh các tuyên
bố trong giới hạn khuôn khổ đòi chủ quyền, như vẫn làm trong những thập
niên qua, mà không bao gồm những khu vực không nằm trong những yêu sách
trước đó.
Ngoài
ra, về mặt thương mại, Hà Nội cũng phải tính đến việc Trung Quốc là đối
tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trung Quốc cũng là nhà đầu tư
trực tiếp lớn thứ 5 vào Việt Nam với số tiền gần 2,5 tỉ đô la trong năm
2018. Đó là một số yếu tố khiến chiến lược của Việt Nam khá là tế nhị.
Chiến lược đó không phải là không áp dụng được nhưng cần được Hà Nội
tiến hành một cách rất thận trọng và đó là điều mà Việt Nam đang làm một
cách hiệu quả.
RFI
: Việt Nam đề ra chính sách « Ba không » (không tham gia các liên minh
quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào ; không cho bất
cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam ; không dựa vào nước này để
chống nước kia), nhưng trước sự đe dọa của Trung Quốc, liệu Việt Nam có
nên xem lại chính sách này không ?
Laurent
Gédéon : Đây không phải là chính sách gần đây mà xuất hiện lần đầu tiên
trong Sách Trắng Quốc Phòng năm 1998, sau đó thường xuyên được nhắc
đến, vào năm 2004, 2009 và tiếp tục được nêu lên trong Luật Quốc Phòng
mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2019.
Dù
mang tính mệnh lệnh « Ba không » nhưng thực ra chính sách này không
hoàn toàn bó buộc. Và Việt Nam đã khai thác khía cạnh này dưới góc độ «
đối tác ». Có ba kiểu « đối tác », đối tác chiến lược toàn diện, đối tác
chiến lược và đối tác toàn diện. Cụ thể, Việt Nam có quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc ; quan hệ đối tác chiến
lược với Nhật Bản, Úc, Pháp và đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Đáng chú ý
là không có bất kỳ đối tác nào trong số này mang tên « liên minh quân sự
».
Có
thể thấy là Việt Nam tăng cường khả năng phòng thủ, cũng như hợp tác
quân sự với nhiều cường quốc tham gia gìn giữ trật tự thế giới và đó là
những lực lượng, với nhiều lý do khác nhau, tỏ ra ngờ vực Trung Quốc.
Điều mà chúng ta có thể nói là Việt Nam vừa củng cố các phương tiện của
mình, vừa phải làm việc trực tiếp với Bắc Kinh về các biện pháp xây dựng
niềm tin nhằm ngăn cản Trung Quốc thống trị toàn bộ Biển Đông.
Nhưng
Việt Nam cũng phải tự chuẩn bị trong trường hợp căng thẳng gia tăng. Và
Hà Nội đang thực hiện điều này qua việc tăng cường quan hệ với các bên,
trên thực tế, ít nhiều là những đối thủ của Bắc Kinh. Việt Nam phải
tính đến việc bên cam kết mạnh nhất và có sức mạnh quân sự lớn nhất, đó
là Mỹ và Hòa Kỳ lại có những mục tiêu riêng và những thách thức
địa-chính trị riêng.
Và
tình thế này cũng cần được cân nhắc với nhiều câu hỏi : Liệu Việt Nam
có khả năng lấy lại các hòn đảo mà Hà Nội đòi chủ quyền mà không để xảy
ra xung đột, mà cuộc xung đột đó lại do những nhân tố khác khởi xướng,
ví dụ như Mỹ ? Liệu mâu thuẫn hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington, nếu
gia tăng thêm, có cho Việt Nam cơ hội không bị cuốn theo hay không ? Một
câu hỏi khác cũng được đặt ra : Liệu những cam kết của Mỹ, trong trường
hợp quan hệ với Bắc Kinh được cải thiện, có phải là « dấu chấm hết »
cho những yêu sách và hy vọng của Việt Nam một ngày nào đó lấy lại chủ
quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần Trường Sa ?
Có
thể thấy chính sách « Ba không » không ngăn cản Việt Nam có những thỏa
thuận quân sự, nhưng có vẻ không chắc cho Việt Nam bởi vì chính sách đó
bị hạn chế trong những đòi hỏi chủ quyền. Có nghĩa là để lấy lại chủ
quyền đối với một số hòn đảo, có thể sẽ xảy ra một cuộc xung đột vũ
trang nhưng cuộc xung đột vũ trang đó sẽ kéo theo việc Việt Nam phải từ
bỏ một nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của mình. Vì thế,
cho đến nay, những vấn đề này được đặt ra nhưng chưa có câu trả lời.
RFI
: Biển Đông là một vấn đề căng thẳng trong thời gian gần đây, với sự
hiện diện của tầu Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc trong vòng nhiều
tháng. Giả sử trong trường hợp xảy ra xung đột nhỏ, khẩn cấp, Việt Nam
có khả năng giải quyết như thế nào ?
Laurent Gédéon : Trường
hợp trên giống trường hợp Bắc Kinh điều giàn khoan đến ngoài khơi đảo
Tri Tôn vào tháng 05/2014, có nghĩa là Trung Quốc dùng chính sách « sự
đã rồi », nhưng không thiên về hướng đe dọa quân sự. Lần trước Việt Nam
cũng đưa tầu ra bám sát và phản đối ngoại giao. Lần này, phía Việt Nam
cũng kiên quyết về mặt chính trị, nhưng cũng không tìm cách dùng vũ lực
đuổi tầu Trung Quốc.
Theo
quan điểm của tôi, chiến lược này có lẽ là tốt nhất vì tránh được đối
đầu trực diện, đẩy Việt Nam vào thế tấn công, không có lợi như thế phòng
thủ. Và chiến lược này cũng cho phép Hà Nội duy trì được hình ảnh «
kiềm chế, hợp pháp » trước hành động được coi là « xâm lược » của Bắc
Kinh. Và hành động này mang tính tích cực trong bối cảnh hình ảnh của
Trung Quốc đang bị xấu đi trên thế giới.
RFI
tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng
viên trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon).
(RFI)
Không có nhận xét nào